VĂN hóa GIAO TIẾP của người việt nam – Tài liệu text

VĂN hóa GIAO TIẾP của người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 35 trang )

MỤC LỤC

I.Đặt vấn đề………………………………………………………………………1
II.Nội dung………………………………………………………………………..2
2.1 Đặc điểm giao tiếp của người Việt:…………………………………2
2.1.1 Thái độ giao tiếp:……………………………………………………….2
2.1.2 cách thức giao tiếp…………………………………………………….8
2.1.3Phương tiện giao tiếp………………………………………………….9
2.1.4Ảnh hưởng của thái độ giao tiếp đến quá trình giao tiếp. .11
2.2 Vận dụng liên hệ trong cuộc sống và ngành học của sinh
viên………………………………………………………………………………..17
2.2,1.Phân tích các đặc điểm tâm lý của đối tượng trong quá
trình trợ giúp…………………………………………………………………..17
2.2.2.Những đặc điểm cần chú ý trong quá trình trợ giúp đối
tượng……………………………………………………………………………..25
2.2.3.Chú ý khi giao tiếp và làm việc với người nước ngoài……26
III.Kết luận………………………………………………………………………28
Tài liệu tham khảo

I.Đặt vấn đề
Trong đời sống,văn hoá giao tiếp đóng một vai trò quan
trọng trong cách ứng xử.Nó kết nối mọi người lại với nhau.Văn
hoá giao tiếp ở mỗi quốc gia thì có đặc trưng riêng.Mỗi quốc gia
sẽ có một nền văn hóa, thói quen, văn hóa giao tiếp khác nhau.
Có thể nói người Việt Nam mang bản sắc Châu Á, nhưng lại có
nhiều nét khác biệt trong giao tiếp so với các quốc gia trong khu
vực.
Văn hoá giao tiếp có nghĩa là quá trình tiếp xúc,trao đổi
giữa người với người phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
L. Pheurbach đã từng nói: “Con người cá thể không chứa

bản chất con người ở trong mình…Bản chất con người chỉ bộc lộ
ra trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với con
người. Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa thông
thường còn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sự
thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế ”. Thực tế
cuộc sống đã thêm một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy
rõ về điều đó.
Nghệ thuật giao tiếp là một trong những bản sắc văn hóa
nhân loại nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Nó được
duy trì qua lịch sử, làm thành cái quý báu của nền văn hóa dân
tộc. Quan trọng hơn, nó sẽ tồn tại song hành cùng với sự tồn tại
của nhân loại, là phương tiện để con người tự hoàn thiện bản
thân mình, dể cùng nhau tiến bước vào nền văn minh mới.
Vậy VĂN HÓA GIAO TIẾP của người Việt Nam được thể hiện
như thế nào?
Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Chữ
“nhân” với nghĩa là “tính người” bao gồm chữ “nhị” và bộ “nhân
đứng” – tính người bộc lộ trong quan hệ giữa hai người. Trước
hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có
thể thấy được đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao
tiếp, lại vừa rất rụt rè. Chính cuộc sống phụ thuộc lẫn nhau đã
cho thấy người Việt Nam rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan
hệ với mọi thành viên trong cộng đồng, và đó cũng là nguyên
nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp.

1

II.Nội dung
2.1 Đặc điểm giao tiếp của người Việt:

2.1.1 Thái độ giao tiếp:
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam đó là vừa
thích giao tiếp, vừa rụt rè

Người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc vào nhau
và rất coi trọng mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng
đồng. Đó là nguyên nhân dẫn đến người Việt trọng giao tiếp,
đây cũng được xem là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá con
người. (Thích giao tiếp thăm viếng nhau không phải do nhu cầu
công việc mà là để thắt chặt thêm mối quan hệ, với khách thì rất
tôn trọng, hiếu khách, luôn dành những thứ tốt nhất). Nhưng khi
đến khu vực ngoài cộng đồng, khi tiếp xúc toàn người lạ, tính ngự
2

trị nổi lên thì người việt lại trở nên rụt rè. Hai tính cách trái ngược
nhau tồn tại trong một bản chất nhưng không hề mâu thuẫn
nhau, đó cũng là sự thể hiện tính linh hoạt trong giao tiếp của
người Việt Nam.
Người Việt Nam quan tâm đến việc giữ gìn các mối quan hệ
với mọi thành viên trong tập thể, cộng đồng. Nguyên nhân này
khiến cho văn hóa giao tiếp của người Việt Nam rất coi trọng đến
việc giao tiếp, và được thể hiện ở 2 điểm chính sau:
Chủ nhà thích có khách viếng thăm. Việc khách đến nhà
thăm là hành động biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, sự quan
tâm giữa các thành viên trong gia đình, của xóm làng, nhằm
giúp thắt chặt thêm mối quan hệ.
Chủ nhà có tính hiếu khách: “Khách đến nhà chẳng gà thì
gỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa”. Khi có khách đến nhà,
cho dù là người thân quen hay xa lạ, thì chủ nhà luôn tiếp đãi

khách một bữa thịnh soạn cho dù gia cảnh lúc đó có khó khăn,
tính hiếu khách càng được thể hiện rõ ràng hơn khi bạn về
những vùng nơi hẻo lánh, hay miền rừng núi xa xôi.
Tuy nhiên trong văn hóa giao tiếp ứng xử, thì người Việt
nam lại có một đặc tính đó là sự rụt rè. Sự tồn tại của hai tính
cách trái ngược này xuất phát từ đặc tính cơ bản tính cộng động
và tính tự trị. Trong một môi trường có tính cộng đồng thì người
Việt Nam rất cởi mở, tự tin giao tiếp, nhưng vào môi trường mà
tính ngự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam luôn tỏ ra rụt
rè. Có thể nói chúng chính là hai mặt cùng một bản chất, là biểu
hiện cho cách ứng xử của người Việt Nam.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam luôn lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặc
điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử:Yêu nhau yêu cả đường đi/ ghét nhau ghét
cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ ba/ghét nhau cau sáu
bổ ra làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu
cũng tròn/ghét nhau quả bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc
chẳng nề/một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…
Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm

3

dương làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc
sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình
hơn :Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Người Việt Nam
sống có lý, có tình nhưng thiên về tình cảm hơn mọi thứ trên
đời. Ai đã giúp mình một lần thì phải nhớ ơn, ai đã chỉ bảo ban

thì cũng phải tôn làm thầy “một chữ là thầy, nửa chữ là thầy. Ai
nhớ mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút cũng
phải tôn làm thầy – khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy
đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầy
phù thủy…

Người việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh
giá đó là một đặc trưng trong văn hóa giao tiếpcủa người Việt
Nam.
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình
trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có vợ/ chồng chưa, có
con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người Việt Nam
thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người
nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính
này – dù gọi bằng tên gì đi nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản
phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách
4

nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì
phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm,
mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu
không có đủ thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho
thích hợp được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn từ xưng
hô cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người
gửi của. Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến
lược thích ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài;
Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
Có thể do bị ảnh hưởng bởi tính cộng đồng, nên người Việt

Nam luôn thấy mình cần có trách nhiệm quan tâm đến người
khác, và để thể hiện sự quan tâm đó thì họ cần biết rõ hoàn
cảnh. Đó là lí do vì sao mà bạn phải thường xuyên trả lời những
câu hỏi có liên quan đến quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã
hội, công việc, gia đình, bố mẹ…..Ngoài ra, do lối sống tình cảm,
nên trong kỹ năng giao tiếp ứng xử, người Việt Nam luôn có
cách xưng hô riêng cho cá thể khác nhau cho phù hợp.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam có một đặc
điểm là trọng danh dự
Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ
thể giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành
áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết
để tiếng. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra để
lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều
người, tạo nên tai tiếng
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc
bệnh sĩ diện: Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng
anh hùng mà thôi; Đem chuông đi đấm nước người, không kêu
cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền công không bằng một
đồng tiền thưởng. Có thể nói chính vì quá coi trọng danh dự nên
người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện, thói quen sĩ diện được thể
hiện rất rõ ở các làng, do danh dự sĩ diện mà các cụ già ở quê
có thể to tiếng với nhau chỉ vì một miếng ăn” một miếng giữa
làng bằng một sàng xó bếp” .Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện
trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần..
Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư

5

luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy
trì sự ổn định của làng xã.

Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao
tiếp của người Việt Nam
Trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam thì họ
luôn ưa sự tế nhị, ý tứ, cũng như thích sự hòa thuận
Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao tiếp
“vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng
vào đề như người phương Tây. Truyền thống Việt Nam khi bắt
đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng
vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng
trầu là đầu câu chuyện. Với thời gian, chức năng “mở đầu câu
chuyện” này của “miếng trầu” được thay thế bởi chén trà, điều
thuốc lá…
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng
tình và lối tư duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen
đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ;
Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa
thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn ăn nói nửa
chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo… Chính sự đắn đo cân
nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính
quyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòa thuận, không làm
6

mất lòng ai.
“Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Cũng chính vì sự tế nhị
nên một trong những mẹo giao tiếp của người Việt Nam là luôn
chọn cách vòng vo khi trình bày hay giải thích một vấn đề chính

nào đó, nhằm làm hạn chế mâu thuẫn. Lối giao tiếp có văn hóa,
ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình, lối sống tư
duy trong các mối quan hệ. Chính sự tế nhị trong giao tiếp đã
tạo nên sự đắn đo cân nhắc khiến cho người Việt Nam có nhược
điểm là thiếu quyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòa
thuận không mất lòng. Và nụ cười là một bộ phận quan trọng
trong thói quen.
Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quan
trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta có thể
gặp nụ cười Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất. Tâm lý ưa hòa
thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn: Một
sự nhịn là chín sự lành; Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ
lửa có đời nào
Ngôn từ được sử dụng trong văn hóa giao tiếp của người
Việt Nam rất phong phú
Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: trong
khi các ngôn ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại
từ nhân xưng thì người Việt Nam dựa vào mối quan hệ họ hàng
để xưng hô. Xưng hô dựa trên quan hệ họ hàng để xưng hô, và
những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân
xưng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm:
Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi
mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia
đình.
Có thể kể đến đầu tiên là hệ thống xưng hô. Người Việt
Nam dựa vào mối quan hệ họ hàng để xưng hô. Xưng hô dựa
trên tính chất thân mật hóa (quan trọng tình cảm) xem mọi
người trong cộng đồng như bà con, họ hàng. Ví dụ như: một cụ
già ngoài đường thì xưng hô “bà-cháu”
Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống

này không có những từ xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi
tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi

7

ni, mi khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có kkhi thể hiện
được hai quan hệ khác nhau: chú-con, ông-con, bác-em, anhtôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ
tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kỹ kưỡng: người Việt Nam xưng
và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm
nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp
giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọi
nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên
riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau; đặt tên con
cần nhất là không được trùng tên của những người bề trên trong
gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt
Nam trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên
chủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do
truyền thống tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không
có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như
phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin
lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo
quá(cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi
được đon tiếp), Quý hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh
quá khen (cảm ơn khi được khen),Cháu được như hôm nay là
nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không
gian nên người Việt Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ

xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương
Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian
như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa,
buổi chiều, buổi tối
N gười Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và
rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên
trong cộng đồng, chính đó là nguyên nhân dẫn đến việc coi
trọng giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra quan hệ : Dao năng liếc thì
sắc, người năng chào thì quen. Sự giao tiếp củng cố tình thân :
áo năng may năng mới, người năng tới năng thân. Năng lực giao
tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh

8

giá con người : Vàng thì thử lửa, thử than –Chuông kêu thử
tiếng, người ngoan thử lời.
2.1.2 cách thức giao tiếp
các loại hình giao tiếp cơ bản
Phân loại theo tính chất của tiếp xúc, giao tiếp được phân
ra thành 2 loại: giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp.
Giao tiếp trực tiếp là loại giao tiếp trong các chủ đề trực tiếp
gặp gỡ, trao đổi với nhau:
Có thể sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt,
cử chỉ, nét mặt, ăn mặc, trang điểm…
Có thể nhanh chóng biết được ý kiến của người đối thoại.
Có thể điều chỉnh quá trình giao tiếp một cách kịp thời để
đạt được mục đích.
Giao tiếp gián tiếp là loại giao tiếp trực tiếp bị hạn chế về
mặt không gian, hơn nữa khi tiếp xúc trực tiếp chúng ta dễ bị

chi phối bởi các yếu tố ngoại cảnh.
Phân loại giao tiếp theo quy cách của giao tiếp.
Giao tiếp chính thức: là giao tiếp mang tính chất công cụ,
theo chức trách, quy định, thể chế như hội họp, mít tinh, đàm
phán… các vấn đề trong giao tiếp thường được xác định trước,
thông tin cũng được các chủ thể cân nhắc trước, vì vậy thông
tin có độ chính xác cao.
Giao tiếp không chính thức: là loại giao tiếp mang tính chất
cá nhân, không câu nệ hình thức, chủ yếu dựa trên hiểu biết về
nhau. Ví dụ như bạn bè gặp nhau, trò chuyện, người lãnh đạo
trò chuyện riêng tư với nhân viên. Hình thức này có ưu điểm là
không khí cởi mở, thân tình, hiểu biết lẫn nhau
Phân loại giao tiếp theo vị thế.
Vị thế biểu hiện mối tương quan giữa những người trong
giao tiếp với nhau, nó nói ai nhanh hơn ai, ai cần phụ thuộc ai
trong giao tiếp.
Theo vị thế giao tiếp, giao tiếp được chia ra thành: giao tiếp
ở thế mạnh, giao tiếp ở thế cân bằng, giao tiếp ở thế yếu…
Vị thế của một người so với người khác chi phối hành động,
ứng xử của họ trong giao tiếp. Chẳng hạn như trước mặt bạn bè,
9

lời nói, cử chỉ, điệu bộ, tư thế của chúng ta khác so với khi trước
mặt là cấp trên của chúng ta.
Phân loại theo số lượng người tham gia giao tiếp và tính
chất mối quan hệ giữa họ.
Giao tiếp giữa 2 cá nhân, ví dụ như 2 người bạn giao tiếp với
nhau.
Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm ví dụ như thầy giáo giảng

bài trên lớp, giám đốc tại hội nghị khách hàng.
Giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm, ví dụ như sinh viên
thảo luận nhóm…
Giao tiếp giữa các nhóm với nhau, ví dụ như cuộc đàm phán
giữa 2 hay nhiều phái đoàn, đàm phán song phương, đa phương
2.1.3Phương tiện giao tiếp
Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta
dùng để thê hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những biểu
hiện khác của mình trong quá trình giao tiếp. Có thể chia các
phương tiện giao tiếp thành hai nhóm chính là ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ thường song
hành và bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ gần gũi thì
giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng nhiều hơn, còn trong các
mối quan hệ xã giao thì giao tiếp phi ngôn ngữ thường làm nền
cho giao tiếp ngôn ngữ.
Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người.
Trong ngôn ngữ cần chú ý đến không chỉ nội dung mà còn cả
cách thể hiện. Nội dung của ngôn ngữ tức là ý nghĩa của lời nói.
Cần phái lựa chọn lời nói “cho vừa lòng nhau” như trẽn đã trình
bày. Còn cách thể hiện thì phái xem xét từ các góc độ như âm
lượng, âm điệu, nhịp điệu ngữ điệu… và điệu bộ khi nói. Tiếng
nói ấm áp, chậm rãi dễ gây lòng tin. Tiếng nói thanh thoát
truyền cảm dễ gây cảm tình… Điệu bộ là những cử chỉ tay chân
và vẻ mặt. Điệu bộ phụ họa theo lời nói, giúp thêm ý nghĩa cho
lời nói và vì vậy phải phù hợp với lời nói. Ngoài ra, điệu bộ còn
phải phù hợp với giới tính, tuổi tác, phong tục, tập quán và văn
hóa dân tộc.
10

Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp chí dùng lời nói thôi thì không đủ và đơn
điệu, không hấp dần, thậm chí đôi khi là khó hiểu. Người ta hiểu
nhau một phần thông qua nội dung lời nói, một phần quan trọng
khác là thông qua cách diễn đạt bằng cơ thể, thông qua giao
tiếp không lời qua nét mặt, cử chỉ, dáng điệu và các tín hiệu
khác. Đó là các phương tiện phi ngôn ngữ. Như vậy, điệu bộ
cũng là một trong các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.
a) Nét mật biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các cảm
xúc cơ bản là vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và
ghê tởm. Vui mừng làm cho nét mặt giãn ra, sợ hãi làm cho nét
mặt co lại.
Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho biết một phần về cá
tính con người. Người có nét mặt đầy đặn thường dễ được cho
rằng là có tính hào phóng, “sống có hậu”. Người có nét mặt cau
có thường là người nguyên tắc, khô khan…
b) Nụ cười: Mỗi điệu cười biểu hiện một thái độ nào đó: cười
chua chát, cười thông cảm, cười đồng tình, cười miễn cưỡng,
cười chế diễu, cười khinh bỉ… Con người có bao nhiêu kiểu cười
thì có bấy nhiêu cá tính: cười đôn hậu, cười hồn nhiên, cười
đanh ác, cười nanh nọc…
c) Ánh mắt phán ánh trạng thái cảm xúc (vui, buồn), thể
hiện tình cảm (yêu, ghét), tám trạng (lo lắng, sợ hãi hay hưng
phấn) và ước nguyện (cần khẩn hay thách thức) của con người.
Ánh mắt còn thể hiện sự chú ý, sự tôn trọng, đồng tình hay
phản đối. Nó (ánh mắt) còn thể hiện vị thế tâm lý của con người
trong giao tiếp. Người có vị thế mạnh hơn thường nhìn nhiều
hơn vào mắt của người kia kể cả khi mói lẫn khi nghe.
d) Các cử chỉ gồm các chuyển động của các bộ phận trên cơ

thể. Mỗi bộ phận có các loại cử chỉ khác nhau và các cử chỉ này
đều có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp.
Chuyển động của đầu: gật là đồng ý, lắc là không đồng tình.
Có thể dùng cử chí cứa bàn tay và cánh tay dể thể hiện lời mời,
sự từ chối hay thể hiện sự chống đối, hay van xin…
Mũi có thê dùng đê thể hiện sự khinh bỉ. Le lưỡi là biểu hiện
thiếu tôn kính, liếm môi khi căng thắng. Hếch cằm biểu hiện

11

thái độ gây gổ. Vuốt cằm thể hiện đang suy nghĩ. Vuốt gáy
thường là đang bối rối. Nói dối thường hay nháy mắt…
Khi ngồi nói chuyện mà hai chân chuyển động liên tục thì người
đó hoặc đang lo lắng hoặc đang vội vã. Khi dứng nói chuyện
người ta thường hay hướng bàn chân về người mà người ta có
cảm tình hơn. Đôi bàn chân đổi tư thế đứng liên tục thể hiện sự
sốt ruột…
e) Tư thể: Thường thường tư thế bộc lộ một cách vô thức
cương vị xã hội của con người. Dẽ nhíp nhận qua thế ngồi cương
vị của cấp trên (ngồi thoải mái, đầu hơi ngả về sau) hay cấp
dưới (hơi cúi đầu về phía trước).
g) Quần áo và trang sức thể hiện cá tính và văn hóa của con
người. Cách ăn mặc cũng thể hiện tâm trạng, tâm lý (vui: mặc
sáng mầu, buồn: mặc tối mầu), thậm chí nghề nghiệp, địa vị,
lứa tuổi.
h) Không gian giao tiếp: Không gian giao tiếp là vùng không
gian trong đó xảy ra quá trình giao tiếp. Thông thường ta xích
lại gần những người mà ta tin tưởng và tránh xa những người
mà ta sợ hãi hoặc không có cảm tình. Có thể chia thành 4 vùng

theo mức độ thân thiết:
Vùng mật thiết (từ 0 đến 0,5 mét): dành cho mối quan hệ
thân tình hoặc khi đang đánh nhau. Trong khoảng cách này các
giác quan như xúc giác và khứu giác là phương tiện giao tiếp cơ
bản,
lời
nói

thể
chỉ

thì
thầm.
Vùng riêng tư (từ 0,5 đến 1,5 mét): dành cho hai người phải dủ
quen thân đến mức độ cảm thấy thoải mái trong giao tiếp.
Vùng xã giao (từ 1,5 đến 3,5 mét): là vùng diễn ra phần lớn
các hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh, nghĩa là các
quan hệ không thuộc phạm vi quan hệ riêng tư.
Trong khoáng cách này có thể xảy ra các hoạt động như
mua bán (giữa người mua và người bán), hoạt động truyền đạt
mệnh lệnh (giữa nhà quản lý và người thừa hành)…
Vùng công cộng (trên 3,5 mét) là phạm vi tiếp xúc giữa
những người xa lạ vì mục đích công việc.
2.1.4Ảnh hưởng của thái độ giao tiếp đến quá trình giao tiếp

12

Lời nói của bạn thể hiện con người bạn một cách rõ nhất,
chỉ cần nghe bạn nói thì người khác có thể hiểu được bạn.

Hãy thể hiện sự khéo léo tài giỏi của bạn qua lời nói,thái độ
khi nói chuyện
Lời lẽ của một người thể hiện rõ bối cảnh gia đình, hoàn
cảnh giáo dục và địa vị của người ấy.
Trò chuyện là công cụ hữu hiệu nhất để phán đoán địa vị xã
hội, kinh nghiệm sống, bối cảnh trưởng thành và độ tin cậy của
một người lạ.Nội dung và kỹ xảo nói chuyện cũng là thước đo
phẩm chất tư cách chân thực của một người.
Có thể qua chuyện trò người ta nắm được một cách mạch
lạc tư tưởng và sự tu dưỡng cá nhân của một con người nào đó.
Cho dù bạn có bao nhiêu thành tích, tiền của, bạn giàu có đến
đâu, trình độ học vấn của bạn cao đến đâu, lời nói của bạn sẽ
miêu tả sinh động câu chuyện của bạn, từng câu, từng từ, đã
khắc họa hình tượng của bạn. Bạn chọn dùng pháp ngữ, ngôn
từ, ngữ âm, khẩu âm v.v…như thế nào, mọi người sẽ hình dung
ra hoàn cảnh sống của bạn, hình dung ra con người bạn.
Có không ít người được người khác mến mộ, họ thường là
những người ăn nói có duyên, giỏi đối đáp. Ấn tượng đầu tiên,
13

quan trọng nhất là khi giao tiếp, người giao tiếp giỏi dể để lại ấn
tượng đầu tiên sâu sắc với đối tượng mà họ giao tiếp. Ăn nói lịch
sự, cử chỉ lịch thiệp trang nhã có thể làm cho bạn nhận được sự
hoan nghênh, nó giúp ích cho sự thành công của bạn trong sự
nghiệp và trong cuộc sống. Có rất nhiều người thành đạt một
phần là nhờ họ giỏi thuyết phục, đối đáp nhanh và thông minh.
Ăn nói, giao tiếp khôn ngoan, lịch sự là một thói quen tốt có
lợi cho cả cuộc đời bạn. Điều này sẽ giúp cho bạn xây dựng

được hình ảnh cá nhân tốt trong mắt đối phương.
Đại đa số mọi người đều muốn tiếp xúc với người ăn nói lịch
sự, khéo léo, hiểu biết sâu rộng, bởi vì trò chuỵên với người ấy
thực ra giống như một sự hưởng thụ. Khi giao tiếp với một người
ăn nói dễ nghe, âm thanh rủ rỉ giống như âm nhạc rót vào tai ta,
làm rung động tâm hồn ta, hoặc làm cho tinh thần ta phấnchấn,
hoặc có thể an ủi khích lệ ta làm nên những điều tốt đẹp.
Cho dù trong trường hợp nào, nếu bạn có thể diễn đạt điều
mình muốn nói một cách rõ ràng, khúc chiết nếu bạn biết dùng
ngôn từ đẹp, lại cộng thêm ngữ điệu lên bổng xuống trầm, thì
bạn có thể lôi cuốn hấp dẫn người giao tiếp với bạn. Cử chỉ lịch
thiệp, lời nói tao nhã có thể giúp cho sự nghiệp của bạn thành
công. Nếu bạn lại giỏi ăn nói, cộng thêm những cử chỉ trang nhã
thì trong bất kỳ trường hợp nào bạn đều có thể vượt qua mọi trở
ngại, nhận được sự hoan nghênh và ủng hộ của mọi người.
Trong thực tế cuộc sống, có những người luôn chú ý bồi
dưỡng năng lực ngôn ngữ của mình, bồi dưỡng cho mình có thói
quen diễn đạt tốt, song cũng có những người không có thói
quen đó, thậm chí không có ý thức bồi dưỡng thói quen đó.
Ngay từ bây giờ, bạn có thể bắt đầu bồi dưỡng sự ăn nói lịch
sự cho mình! Điều này vừa nhẹ nhàng vừa dễ thực hiện. sách
báo, tạp chí hướng dẫn về cách diễn thuyết rất nhiều, chỉ cần
bạn muốn đọc, chỉ cần bạn cầu tiến, bạn nhất định sẽ làm được
điều mình mong muốn.
Lời khuyên:
Đại đa số mọi người đều muốn được giao tiếp với người ăn
nói lịch sự, bởi vì trò chuyện với những người như vậy sẽ mang

14

lại cảm giác dễ chịu, thoải mái cho bản thân. Trong mọi tình
huống, bạn hãy chú ý bồi dưỡng cho mình năng lực diễn đạt,
thói quen diễn đạt mạch lạc, giàu hình ảnh, ngữ điệu thu hút.
Ảnh hưởng của phương tiện giao tiếp đến quá trình
giao tiếp
Cuộc sống hàng ngày, lời nói rất quan trọng vì lời nói là một
phương tiện để chúng ta giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa con
người với nhau. Thông qua lời nói con người trao đổi công việc
để tìm cách giải quyết, trình bày quan điểm, thể hiện tư tưởng,
tình cảm của mình, thể hiện sự hiện diện của mình. Lời nói thể
hiện sự tư duy, suy nghĩ, tình cảm, tình thương, thái độ, trách
nhiệm của một người ở cương vị của mình. Tất nhiên, mỗi người
trong chúng ta có thể nói ra điều mình mong muốn và tùy vào
từng hoàn cảnh, vai vế của mình và đối tượng để sử dụng lời nói
là phương tiện giao tiếp cho phù hợp. Chính vì lời nói là phương
tiện giao tiếp, do vậy nó luôn có sự ảnh hưởng, tác động mạnh
mẽ đến người nghe.
Lời nói là phương tiện thường xuyên để giao tiếp, thì trước
hết phải nói đúng lúc, hợp tình, hợp lý, lời nói ôn hòa, đúng thời
điểm là điều quan trọng đảm bảo sự kịp thời của thông tin và sự
tinh tế trong giao tiếp. Nếu nói không đúng thời điểm thì sẽ là
bỏ qua cơ hội, hoặc cứ nói nhưng không quan tâm đến người
nghe thì chẳng những không có kết quả, mà còn phản tác dụng.
Bản thân tôi cũng đã đón nhận được nhiều bài học nhớ đời khi
tiết kiệm lời nói hoặc không nói đúng lúc, nhiều cơ hội đã trôi
qua. Ngại nói, tự nhiên mình trở thành người kém tự tin trong
giao tiếp, cái tư duy “sao cứ phải nói yêu mới là yêu….” hoặc
khi nói thì thẳng rát cả tai người nghe hoặc nói cho sướng cái
mồm…, mặc dù mình không có ý xấu nhưng rõ ràng là vẫn

không thành công trong giao tiếp.
Người xưa thật sâu sắc khi nói về giá trị quý báu của lời nói
“lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,
lời dạy này nhắc nhở chúng ta muốn giao tiếp thành công thì
phải biết chọn lọc cách nói, nói năng lễ độ, hòa nhã để tạo ra sự
đoàn kết, thông cảm giữa những người trong cuộc giao tiếp.
Việc khéo léo lựa chọn cách diễn đạt phù hợp với đối tượng giao

15

tiếp sẽ khiến người nghe dễ dàng tiếp thu ý kiến của mình, cho
dù đó là lời phê bình hay góp ý. Nói là “lựa lời mà nói” không có
nghĩa là chúng ta nói những từ văn hoa, mỹ miều, bỡ đợ để có
lợi cho mình….Mà là lời nói cần chân tình, dễ nghe, dễ hiểu,
đúng mực, ấm áp, tin cậy để có sức lan tỏa tích cực với người
nghe. Người nghe, cảm thấy như có thể “dời non, lấp biển” khi
được nghe những bài thuyết trình có sức mạnh phi thường, có
sự lôi cuốn kỳ diệu của người nói. Ngược lại, nếu lời nói trong lúc
cáu gắt, nói như là trút lên người khác sự bực dọc của mình thì
người nghe nhận được nguồn năng lượng tiêu cực, nghe nhiều
cảm thấy chán nản.
Lời nói trong giao tiếp có sự ảnh hưởng tốt lẫn xấu đến
người nghe vì nó là phương tiện “truyền thông” là vật mang
thông tin và năng lượng truyền đến cho cho người nghe. Trong
tác phẩm “Tử huyệt cảm xúc” của Roy Garn do dịch giả Phan
Nguyễn Khánh Đan có đoạn viết: “Ngôn từ là những đứa trẻ tinh
nghịch và khôn ngoan. Ngay khi chúng vừa rời khỏi mồm miệng
chúng ta, chúng đứng qua một bên để xem những gì diễn ra
tiếp theo. Chúng không bao giờ ra về tay không, vì chắc chẵn

sẽ luôn có một điều gì đó xảy ra với một ai đó sau khi lời nói
được thốt ra”.
Tất nhiên, lời nói và sự im lặng là những biểu hiện bình
thường của mỗi con người, nhưng nếu biết thể hiện đúng lúc,
đúng chỗ thì cả lời nói và sự im lặng đều là vàng. Chẳng thế mà
trong NQ về đạo đức, lối sống Thầy Nguyệt Quang Tử đã dạy trò
đối với bản thân mình phải “Phát ngôn dễ nghe, dễ hiểu, chân
tình”. Như vậy, Thầy chỉ dẫn cho chúng ta một cách thức “tu
khẩu” và giúp chúng ta nhận thấy được ý nghĩa của lời nói trong
giao tiếp để sử dụng cho phù hợp.
Vậy mà, trong cuộc sống có lúc không kiềm chế được cảm
xúc của mình, vô tình tôi đã nói những điều lẽ ra không nên nói
với những người sống quanh tôi… Và tôi cũng đã phải cố tình
nghe những lời nói không hợp lý mà một số người khác cố ý rót
vào tai tôi!
Ước chi tất cả chúng ta không bao giờ mắc lỗi trong phát
ngôn và không bao giờ phải nghe những lời không dễ nghe thì

16

thích nhỉ!
Một số tình huống ứng xử của người Việt

Trong văn hoá Việt Nam, một trong những khía cạnh đáng
chú ý nhất là văn hoá ứng xử. Trong văn hoá ứng xử, khía cạnh
có nhiều đặc điểm tích cực, thường được khen ngợi nhất là tình
gia đình và tình hàng xóm; khía cạnh thường bị xem là tiêu cực
và có nhiều vấn đề nhất là văn hoá giao tiếp. Trong văn hoá
giao tiếp, điều thường bị phê phán nhiều nhất cũng lại là những

điều căn bản nhất: cách chào hỏi và cách nói cám ơn hay xin
lỗi.
Trước hết, nói về chuyện cám ơn/xin lỗi. Đã có rất nhiều
người viết về đề tài này. Hầu như ý kiến của ai cũng giống nhau:
Người Việt, nhất là kể từ sau 1975, rất hiếm khi nói cám ơn hay
xin lỗi. Nhờ người ta chỉ đường; nghe xong, lẳng lặng đi, không
một lời cám ơn. Đi xe quẹt người khác, trừng mắt lên nhìn, rồi
phóng đi, không một lời xin lỗi. Những chuyện như vậy diễn ra
hàng ngày. Ở khắp nơi. Ngay cả giữa những người có ăn học.
Ngay cả việc chào hỏi của chúng ta cũng có vấn đề, thậm
chí, vấn đề nghiêm trọng.
Còn nhớ, cách đây non mười năm, đứa em trai tôi từ Việt
Nam sang Úc chơi. Mỗi sáng, hai anh em đi bộ dọc theo bờ biển
gần nhà để tập thể dục. Những ngày đầu tiên, em tôi chú ý đến
mấy điều: thứ nhất, cái đẹp đầy thanh bình của phong cảnh; thứ
hai, sự dạn dĩ của chim chóc, chủ yếu là bồ câu và hải âu, lúc
nào cũng quấn quít quanh người đi dạo hay ngắm cảnh; và, thứ
17

ba, sự thân mật của người Úc.
Trên quãng đường khoảng 3 cây số dọc theo bờ biển, trung
bình cứ vài ba phút lại gặp một người đi bộ ngược chiều. Hầu
như ai cũng nhoẻn miệng cười và nói “hello” hay “good
morning”. Thỉnh thoảng có người còn hỏi thêm “Khoẻ không?”
hay buông vài câu bâng quơ, kiểu “Hôm nay trời đẹp quá há!”.
Thằng em tôi, thoạt đầu, than: “Trả lời mỏi miệng quá!”,
sau, nghĩ ngợi một lát, trầm trồ: “Người Úc dễ thương ghê!”; sau
nữa, trầm ngâm so sánh: “Ở Việt Nam đâu có ai chào người lạ
như vậy. Gặp người dân tộc thiểu số nữa thì đừng hòng!”

Mà thật, bạn để ý xem, ở Việt Nam, đi đường, có ai chào ai
không? Với người lạ, câu trả lời hầu như tuyệt đối: Không. Chúng
ta chỉ chào người quen. Câu tục ngữ “tiếng chào cao hơn mâm
cỗ” hầu như chỉ áp dụng cho người quen, trong làng xóm với
nhau. Nhưng với người quen, chúng ta thường chỉ chào bằng
ngôn ngữ thân thể (body language) hơn là ngôn ngữ bằng lời
(verbal language): Chúng ta gật đầu, vẫy tay hay nhoẻn miệng
cười. Là hết. Thân tình hơn, mới hỏi bâng quơ vài câu: “Anh/chị
đi đâu đó?” hay “Đi đâu mà vội quá vậy?”. Vậy thôi.
Nói cách khác, liên quan đến khía cạnh này của văn hoá giao
tiếp, chúng ta thiếu đến hai điều:
Thứ nhất, chúng ta không có thói quen chào nhau, nhất là
với người lạ.
Thứ hai, chúng ta chưa có những công thức chào.
Về điểm thứ nhất, nhớ lại xem, hồi nhỏ, hầu như bố mẹ
chúng ta chỉ dạy chúng ta chào khi có khách đến nhà hoặc khi
đến nhà người khác. Và chỉ yêu cầu chúng ta chào người lớn,
hoặc lớn tuổi hoặc lớn vai vế, hơn. Hầu như không ai dạy con
cái cách chào người lạ hay với người nhỏ tuổi hơn mình.
Về điểm thứ hai, trong tiếng Việt, “chào hỏi” thường đi đôi
với nhau, thành một từ, từ ghép. Trên thực tế, chúng ta thường
dùng câu hỏi thay cho lời chào. Mà hỏi thì đa dạng vô cùng.
Chúng thay đổi theo mức độ quen thân, theo hoàn cảnh, theo
cảm hứng, v.v… Hệ quả là lời chào, ngay cả chào-hỏi, của chúng
ta không được công thức hoá. Khác hẳn với các ngôn ngữ Tây
phương. Ví dụ, với tiếng Anh hay tiếng Pháp, những lời chào hỏi

18

hầu như thành công thức. Với ai, ở đâu, chúng ta cũng lặp đi lặp
lại như vậy. Đại khái:
– Chào anh.
– Chào chị. Chị khoẻ không?
– Khoẻ, anh ạ. Cám ơn anh. Còn anh thì thế nào?
– Tôi cũng khoẻ. Cám ơn chị.
Từ người thân đến kẻ sơ, từ người lớn đến trẻ em, từ ông
Tổng thống đến người bán hàng, gặp nhau, ở đâu người ta cũng
đều nói thế. Những công thức chào hỏi như thế biến thành một
thứ văn hoá, văn hoá giao tiếp.
Bởi vậy, tôi nghĩ, yếu tố đầu tiên của văn hoá là tính công
thức. Văn hoá là sự đồng điệu thuận về ý nghĩa của một biểu
trưng hay một giá trị nào đó trong cộng đồng. Để thể hiện hay
đẩy mạnh sự đồng thuận ấy, công thức hoá là một biện pháp tốt
nhất và hiệu quả nhất. Nhưng tâm lý con người thường e ngại
trước tính công thức. Quá trình công thức hoá chỉ có thể thực
hiện được bằng cưỡng chế, chủ yếu qua hệ thống giáo dục. Ở
Tây phương, ít nhất qua tiếng Anh và tiếng Pháp mà tôi biết,
những công thức chào hỏi vừa nêu là những bài học vỡ lòng cho
cả người ngoại quốc lẫn trẻ em bản ngữ. Ai cũng phải học như
thế. Công việc tiếp nhận các công thức giao tiếp được khởi sự
ngay từ lúc người ta học ngôn ngữ.
Việc cưỡng chế trong quá trình tiếp nhận tính công thức
trong văn hoá cần có một điều kiện khác nữa: đó là sự sùng bái.
Văn hoá nào cũng bao gồm sự sùng bái. Nhiều học giả đã phân
tích: tính sùng bái (cult) nằm ngay trong chữ văn hoá (culture),
trở thành yếu tính của văn hoá. Nói cách khác, không có sùng
bái sẽ không có văn hoá.
Trong văn hoá giao tiếp, sùng bái chủ yếu là sùng bái đối
với hình mẫu của một con người văn minh và có văn hoá: Đó là

một con người biết chào hỏi, biết nói cám ơn và nói xin lỗi như
một cách thể hiện sự tự trọng.
Vâng, tôi xin nhắc lại: đó là sự thể hiện của lòng tự trọng.
Cám ơn hay xin lỗi, ngay cả về những chuyện, thành thực
mà nói, không đáng, là cách bày tỏ sự kính trọng đối với người
khác, qua đó, thể hiện sự tự kính trọng mình với tư cách là một

19

người văn minh và có văn hoá. Nói cách khác, nếu trên đường
đi, tôi hơi lấn hay đụng anh một chút, một chút thôi, tôi xin lỗi
anh; đó không phải là tôi “sợ” anh, mà là vì tôi sợ tôi biến thành
một con người thô lỗ. Xin lỗi, do đó, trở thành một cách tự bảo
vệ mình, bảo vệ nhân phẩm của chính mình: Trong trường hợp
này, nếu anh sừng sộ với tôi, anh thua tôi. Thua về độ văn minh
và văn hoá.
Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến một kỷ niệm lúc mới từ trại
tị nạn ở Galang qua Pháp. Trong mấy tháng ở trại tị nạn, tôi cố
gắng học thêm cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp: trong khi học tiếng,
lúc nào cũng tự dặn dò mình phải học cả văn hoá giao tiếp ở xứ
người, trong đó, điều quan trọng và cũng là điều căn bản nhất là
biết chào hỏi, biết nói xin lỗi và cám ơn.
Đến Paris, những ngày đầu tiên sống trong trung tâm
chuyển tiếp, lúc nào tôi cũng lẩm nhẩm trong miệng hai chữ
“Merci” (cám ơn) và “Pardon” (xin lỗi) như một kiểu tự kỷ ám
thị. Một lần, vào tiệm mua một tờ báo, trả tiền xong, quay ra,
tôi hấp tấp vấp phải một phụ nữ vừa trờ tới từ phía sau. Bèn nhớ
đến bài học, nhưng thay vì nói “xin lỗi”, tôi buộc miệng nói
nhầm “cám ơn!”.

Bước đi được mấy bước, nhớ lại cái nhầm của mình, thẹn đỏ
mặt, tôi bước đi thật nhanh. Để trốn.
Thẹn. Nhưng nếu không như vậy, biết bao giờ những điều
mình học mới trở thành một phản xạ tự nhiên?
Khi nói văn hoá là những gì còn lại sau khi đã quên hết, có
lẽ người ta cũng nhấn mạnh đến tính phản xạ ấy.
2.2 Vận dụng liên hệ trong cuộc sống và ngành học của sinh
viên
Phân tích các đặc điểm tâm lý của đối tượng trong quá trình
trợ giúp:
Công tác xã hội là một ngành
Một chuyên viên thực hành công tác xã hội được gọi là một
cán bộ /nhân viên công tác xã hội. Ví dụ về những lĩnh vực mà
một nhân viên xã hội có thể hoạt động là: cứu đói, kỹ năng
sống, kỹ năng xã hội, phát triển cộng đồng, phát triển nông
thôn, điều chỉnh mức độ đô thị hóa, pháp y, chỉnh đốn, pháp
luật, quan hệ lao động, hòa nhập xã hội, bảo vệ trẻ em, bảo vệ
20

người cao tuổi, các quyền của phụ nữ, quyền con người, quản lý
người bị xã hội chối bỏ, cai nghiện, phục hồi chức năng, phát
triển đạo đức, hòa giải văn hoá, quản lý thiên tai, sức khỏe tâm
thần, trị liệu hành vi và khuyết tật.
Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết
vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải
phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày
càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con
người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào những
điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân

quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của
nghề”.[2
Công tác xã hội là 1 nghề có vai trò giúp đỡ,hỗ trợ và tạo
điều kiện cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khan và
khó hòa nhập với cộng đồng,ví dụ người khuyết tật,người
già,người nghèo,người bị bệnh nan y,người không có khả năng
tự,chăm sóc,…ngành công tác xã hội ra đời với sứ mạng hàn
gắn những rạn nứt của xã hội trong quá trình phát triển.giảm sự
bất bình đẳng xã hội và hướng tới sự phát triển bền vững,nhân
văn và nhân ái.

21

Về cơ bản,nghề công tác xã hội có vai trò cung cấp dịch vụ
cho người dân,người làm trong nghề công tác xã hội là người
phục vụ cho xã hội,phục vụ những người cần giúp đỡ,che chở và
hỗ trợ
Chính vì vậy nhân viên công tác xã hội cần được đào tạo
chuyên sâu về kiến thức
Chuyen chăm sóc đặc biệt là kỹ năng mềm
Kiến thức xã hội giúp nhân viên thấ hiểu được cuộc
sống,hoàn cảnh của người chăm sóc ,nắm bắt tâm lý và hộ trợ
họ,có thể đồng cảm và tiếp cận và hõ trợ lâu dài cho người
đó,ví dụ một cán bộ công tác xã hội phải tiếp cận mmootj người
tỏn thương tâm lý, và có ý định tự vẫn,lúc này cán bộ công tác
xã hội cần có kỹ năng giao tiếp tốt,cộng với kiến thứ c xã hội có
thể thấu hiểu đồng cảm từ đó tiếp cận và giúp đỡ họ,sau đó sử
dụng kiến thức chuyên môn tham vấn và điều trị tâm lý cho họ.

Đối với mỗi cá nhân, khả năng giao tiếp là một lợi
thế để thể hiện bản thân cũng như nắm bắt cơ hội trong
cuộc sống. Mỗi người, trong quá trình sống và học tập,
làm việc luôn cố gắng để trau dồi và hoàn thiện kỹ năng
quan trọng này. Đặc biệt, đối với sinh viên đang theo học
các ngành khoa học xã hội thì kỹ năng này không chỉ
góp phần nâng cao khả năng tiếp cận kiến thức, mà còn
mở ra cho sinh viên khả năng nắm bắt các cơ hội nghề
nghiệp đến với mình.
Kỹ năng giao tiếp được hiểu là khả năng cá nhân truyền

22

đạt, biểu thị một cách hiệu quả những tri thức và kinh nghiệm,
quan điểm của bản thân thông qua việc sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ vào những hoàn cảnh khác nhau
của quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Như
vậy, kỹ năng giao tiếp không chỉ bao gồm khả năng sử dụng
ngôn ngữ linh hoạt mà còn là sự kết hợp nhiều khả năng quan
trọng khác như khả năng lắng nghe, khả năng sử dụng ngôn
ngữ hình thể, kiềm chế và biểu lộc cảm xúc… để diễn tả quan
điểm và suy nghĩa của cá nhân. Do vậy, để hoàn thiện kỹ năng
này, mỗi người phải cố gắng trau dồi những kỹ năng bổ trợ nói
trên thông qua quá trình ứng xử trong sinh hoạt hàng ngày,
trong học tập và làm việc.
Đối với sinh viên hiện nay, đặc biệt là các sinh viên ngành
khoa học xã hội, kỹ năng giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng
đối với quá trình học tập và làm việc sau này.
Kỹ năng xác định mục tiêu phù hợp

Để đạt được những thành công trong cuộc sống. Con người
cần phải biết đặt ra những mục tiêu phù hợp với năng lực, điều
kiện của bản thân và quyết tâm thực hiện chúng.
Mục tiêu phù hợp sẽ giúp con người sống có mục đích, biết
quý trọng cuộc sống của mình và đặt mình vào cuộc sống có ý
nghĩa. Ngược lại, cuộc sống sẽ trở nên vô vị và có thể dẫn đến
lêch lạc.
Chính vì vậy, xác định mục tiêu là đòi hỏi quan trọng với
sinh viên. Nó giúp sinh viên biết được những mong muốn cụ thể
và cố gắng hoàn thành mong muốn trong thời gian mình muốn.
Mục tiêu cũng giúp sinh viên biết được để đạt được ước mơ thì
bản thân cần làm gì, cần nguồn hỗ trợ nào, và từ đó biết được
những khó khăn và thuận lợi gặp phải.

23

Kỹ năng tự nhận thức
Tự nhận thức là tự biết mình là ai, điểm mạnh, điểm yếu
của bản thân, mối quan hệ với những người xung quanh… Nhận
thức rõ về bản thân giúp cá nhân thể hiện sự tự tin và tính kiên
định để có thể giải quyết vấn đề và ra quyết định hiệu quả. Tự
nhận thức cũng giúp bản thân đặt ra những mục tiêu phấn đấu
phù hợp và thực tế.
Tự ý thức là một kỹ năng sống quan trọng giúp mỗi sinh
viên nhận thức rõ hơn về bản thân: Biết mình là ai, mình có
những điểm chung và những điểm riêng nào so với những người
khác.
Từ đó, sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc rèn luyện kỹ
năng tự nhận thức và có thái độ tự tin đối với những gì đã có,

thấy được những gì cần cố gắng, biết mình muốn gì và không
thích gì để kiên định và ra quyết định phù hợp.
Kỹ năng giao tiếp
Theo lý luận của Tâm lý học hoạt động: Bản chất cuộc sống
của con người là các dòng hoạt động nối tiếp nhau, từ khi sinh
ra cho đến lúc từ giã cõi đời. Giao tiếp xã hội là yếu tố quan
trọng, góp phần tạo dựng nên thành công trong bất kỳ lĩnh vực
gì.Giao tiếp tốt chính là chìa khóa dẫn đến 85% thành công
trong công việc.
24

thực chất con người ở trong mình … Bản chất con người chỉ bộc lộra trong giao tiếp, trong thể thống nhất giữa con người với conngười. Con người để cho mình chỉ là con người theo nghĩa thôngthường còn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sựthống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế ”. Thực tếcuộc sống đã thêm một lần nữa chứng tỏ cho tất cả chúng ta thấyrõ về điều đó. Nghệ thuật giao tiếp là một trong những truyền thống văn hóanhân loại nói chung và của người Nước Ta nói riêng. Nó đượcduy trì qua lịch sử vẻ vang, làm thành cái quý báu của nền văn hóa dântộc. Quan trọng hơn, nó sẽ sống sót song hành cùng với sự tồn tạicủa quả đât, là phương tiện đi lại để con người tự hoàn thành xong bảnthân mình, dể cùng nhau tiến bước vào nền văn minh mới. Vậy VĂN HÓA GIAO TIẾP của người Nước Ta được thể hiệnnhư thế nào ? Bản chất con người chỉ thể hiện ra trong giao tiếp. Chữ “ nhân ” với nghĩa là “ tính người ” gồm có chữ “ nhị ” và bộ “ nhânđứng ” – tính người thể hiện trong quan hệ giữa hai người. Trướchết, xét về thái độ của người Nước Ta so với việc giao tiếp, cóthể thấy được đặc thù của người Nước Ta là vừa thích giaotiếp, lại vừa rất ngần ngại. Chính đời sống phụ thuộc vào lẫn nhau đãcho thấy người Nước Ta rất coi trọng việc giữ gìn những mối quanhệ với mọi thành viên trong hội đồng, và đó cũng là nguyênnhân khiến người Nước Ta đặc biệt quan trọng coi trọng việc giao tiếp. II.Nội dung2. 1 Đặc điểm giao tiếp của người Việt : 2.1.1 Thái độ giao tiếp : Văn hóa giao tiếp của người Nước Ta đó là vừathích giao tiếp, vừa rụt rèNgười Nước Ta nông nghiệp sống phụ thuộc vào vào nhauvà rất coi trọng mối quan hệ giữa những thành viên trong cộngđồng. Đó là nguyên do dẫn đến người Việt trọng giao tiếp, đây cũng được xem là tiêu chuẩn tiên phong để nhìn nhận conngười. ( Thích giao tiếp thăm viếng nhau không phải do nhu cầucông việc mà là để thắt chặt thêm mối quan hệ, với khách thì rấttôn trọng, hiếu khách, luôn dành những thứ tốt nhất ). Nhưng khiđến khu vực ngoài hội đồng, khi tiếp xúc toàn người lạ, tính ngựtrị nổi lên thì người việt lại trở nên ngần ngại. Hai tính cách trái ngượcnhau sống sót trong một thực chất nhưng không hề mâu thuẫnnhau, đó cũng là sự biểu lộ tính linh động trong giao tiếp củangười Nước Ta. Người Nước Ta chăm sóc đến việc giữ gìn những mối quan hệvới mọi thành viên trong tập thể, hội đồng. Nguyên nhân nàykhiến cho văn hóa giao tiếp của người Nước Ta rất coi trọng đếnviệc giao tiếp, và được bộc lộ ở 2 điểm chính sau : Chủ nhà thích có khách viếng thăm. Việc khách đến nhàthăm là hành vi bộc lộ của tình cảm, tình nghĩa, sự quantâm giữa những thành viên trong mái ấm gia đình, của xóm làng, nhằmgiúp thắt chặt thêm mối quan hệ. Chủ nhà có tính hiếu khách : “ Khách đến nhà chẳng gà thìgỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa ”. Khi có khách đến nhà, mặc dầu là người thân quen hay lạ lẫm, thì chủ nhà luôn tiếp đãikhách một bữa thịnh soạn mặc dầu gia cảnh lúc đó có khó khăn vất vả, tính hiếu khách càng được bộc lộ rõ ràng hơn khi bạn vềnhững vùng nơi hẻo lánh, hay miền rừng núi xa xôi. Tuy nhiên trong văn hóa giao tiếp ứng xử, thì người Việtnam lại có một đặc tính đó là sự ngần ngại. Sự sống sót của hai tínhcách trái ngược này xuất phát từ đặc tính cơ bản tính cộng độngvà tính tự trị. Trong một môi trường tự nhiên có tính hội đồng thì ngườiViệt Nam rất cởi mở, tự tin giao tiếp, nhưng vào môi trường tự nhiên màtính ngự trị phát huy công dụng thì người Nước Ta luôn tỏ ra rụtrè. Có thể nói chúng chính là hai mặt cùng một thực chất, là biểuhiện cho cách ứng xử của người Nước Ta. Văn hóa giao tiếp của người Nước Ta luôn lấy tình cảm làmnguyên tắc ứng xửXét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặcđiểm trọng tình đã dẫn người Nước Ta tới chỗ lấy tình cảm làmnguyên tắc ứng xử : Yêu nhau yêu cả đường đi / ghét nhau ghétcả tông ti họ hàng ; Yêu nhau cau sáu bổ ba / ghét nhau cau sáubổ ra làm mười ; Yêu nhau chín bỏ làm mười ; Yêu nhau củ ấucũng tròn / ghét nhau quả bồ hòn cũng méo ; Yêu nhau mọi việcchẳng nề / một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng … Nếu nói khái quát, người Nước Ta lấy sự hài hòa âmdương làm trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộcsống, người Nước Ta sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tìnhhơn : Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Người Việt Namsống có lý, có tình nhưng thiên về tình cảm hơn mọi thứ trênđời. Ai đã giúp mình một lần thì phải nhớ ơn, ai đã chỉ bảo banthì cũng phải tôn làm thầy “ một chữ là thầy, nửa chữ là thầy. Ainhớ mình một chút ít đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút ít cũngphải tôn làm thầy – khái niệm “ thầy ” được mở ra rất rộng : thầyđồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầyphù thủy … Người việt Nam có thói quen ưa khám phá, quan sát, đánhgiá đó là một đặc trưng trong văn hóa giao tiếpcủa người ViệtNam. Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, vị thế xã hội, tìnhtrạng mái ấm gia đình ( cha mẹ còn hay mất, đã có vợ / chồng chưa, cócon chưa, mấy trai mấy gái … ) là những yếu tố người Việt Namthường chăm sóc. Thói quen ưa khám phá này khiến cho ngườinước ngoài có nhận xét là người Nước Ta hay tò mò. Đặc tínhnày – dù gọi bằng tên gì đi nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sảnphẩm của tính hội đồng làng xã mà ra. Do tính hội đồng, người Nước Ta tự thấy có tráchnhiệm phải chăm sóc đến người khác, mà muốn chăm sóc thìphải biết rõ thực trạng. Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếukhông có đủ thông tin thì không hề lựa chọn từ xưng hô chothích hợp được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn từ xưnghô cho tương thích : Chọn mặt gửi vàng ; Tùy mặt gửi lời / tùy ngườigửi của. Khi không được lựa chọn thì người Nước Ta dùng chiếnlược thích ứng một cách linh động : Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Có thể do bị ảnh hưởng tác động bởi tính hội đồng, nên người ViệtNam luôn thấy mình cần có nghĩa vụ và trách nhiệm chăm sóc đến ngườikhác, và để bộc lộ sự chăm sóc đó thì họ cần biết rõ hoàncảnh. Đó là lí do vì sao mà bạn phải tiếp tục vấn đáp nhữngcâu hỏi có tương quan đến quê quán, trình độ học vấn, vị thế xãhội, việc làm, mái ấm gia đình, cha mẹ … .. Ngoài ra, do lối sống tình cảm, nên trong kỹ năng và kiến thức giao tiếp ứng xử, người Nước Ta luôn cócách xưng hô riêng cho thành viên khác nhau cho tương thích. Văn hóa giao tiếp của người Nước Ta có một đặcđiểm là trọng danh dựTính hội đồng còn khiến người Nước Ta, dưới góc nhìn chủthể giao tiếp, có đặc thù là trọng danh dự : Tốt danh hơn lànháo ; Đói cho sạch, rách nát cho thơm ; Trâu chết để da, người ta chếtđể tiếng. Danh dự gắn với năng lượng giao tiếp : Lời hay nói ra đểlại dấu vết, tạo thành tiếng tăm ; lời dở truyền đến tai nhiềungười, tạo nên tai tiếngChính vì quá coi trọng danh dự nên người Nước Ta mắcbệnh sĩ diện : Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếnganh hùng mà thôi ; Đem chuông đi đấm nước người, không kêucũng đánh ba hồi lấy danh ; Một quan tiền công không bằng mộtđồng tiền thưởng. Có thể nói chính vì quá coi trọng danh dự nênngười Nước Ta mắc bệnh sĩ diện, thói quen sĩ diện được thểhiện rất rõ ở những làng, do danh dự sĩ diện mà những cụ già ở quêcó thể to tiếng với nhau chỉ vì một miếng ăn ” một miếng giữalàng bằng một sàng xó nhà bếp ”. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiệntrầm trọng qua tục lệ ngôi thứ nơi đình ttrung và tục chia phần .. Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn thổi, tạo nên dưluận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của hội đồng để duytrì sự không thay đổi của làng xã. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giaotiếp của người Việt NamTrong văn hóa giao tiếp của người Nước Ta thì họluôn ưa sự tế nhị, ý tứ, cũng như thích sự hòa thuậnTính tế nhị khiến cho người Nước Ta có thói quen giao tiếp “ vòng vo tam quốc ”, không khi nào mở màn tực tiếp, đi thẳngvào đề như người phương Tây. Truyền thống Nước Ta khi bắtđầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộngvườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống cuội nguồn miếngtrầu là đầu câu truyện. Với thời hạn, tính năng “ khởi đầu câuchuyện ” này của “ miếng trầu ” được sửa chữa thay thế bởi chén trà, điềuthuốc lá … Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là mẫu sản phẩm của lối sống trọngtình và lối tư duy trong những mối quan hệ. Nó tạo nên thói quenđắn đo xem xét kỹ càng khi nói năng : Ăn có nhai, nói có nghĩ ; Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói ; Biết thì thưathốt, không biết thì dựa cột mà nghe ; Người khôn ăn nói nửachừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo … Chính sự đắn đo cânnhắc này khiến cho người Nước Ta có điểm yếu kém là thiếu tínhquyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòa thuận, không làmmất lòng ai. “ Miếng trầu là đầu câu truyện ”. Cũng chính vì sự tế nhịnên một trong những mẹo giao tiếp của người Nước Ta là luônchọn cách vòng vo khi trình diễn hay lý giải một yếu tố chínhnào đó, nhằm mục đích làm hạn chế xích míc. Lối giao tiếp có văn hóa, ưa tế nhị, ý tứ là mẫu sản phẩm của lối sống trọng tình, lối sống tưduy trong những mối quan hệ. Chính sự tế nhị trong giao tiếp đãtạo nên sự đắn đo xem xét khiến cho người Nước Ta có nhượcđiểm là thiếu quyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòathuận không mất lòng. Và nụ cười là một bộ phận quan trọngtrong thói quen. Người Nước Ta rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quantrọng trong thói quen giao tiếp của người Việt ; người ta có thểgặp nụ cười Nước Ta vào cả lúc ít chờ đón nhất. Tâm lý ưa hòathuận khiến người Nước Ta luôn chủ trương nhường nhịn : Mộtsự nhịn là chín sự lành ; Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏlửa có đời nàoNgôn từ được sử dụng trong văn hóa giao tiếp của ngườiViệt Nam rất phong phúTrước hết, đó là sự đa dạng chủng loại của mạng lưới hệ thống xưng hô : trongkhi những ngôn từ phương Tây và Trung Quốc chỉ sử dụng những đạitừ nhân xưng thì người Nước Ta dựa vào mối quan hệ họ hàngđể xưng hô. Xưng hô dựa trên quan hệ họ hàng để xưng hô, vànhững danh từ thân tộc này có xu thế ép chế những đại từ nhânxưng. Hệ thống xưng hô này có những đặc thù : Thứ nhất, có đặc thù thân thiện hóa ( trọng tình cảm ), coimọi người trong hội đồng như bà con họ hàng trong một giađình. Có thể kể đến tiên phong là mạng lưới hệ thống xưng hô. Người ViệtNam dựa vào mối quan hệ họ hàng để xưng hô. Xưng hô dựatrên đặc thù thân thương hóa ( quan trọng tình cảm ) xem mọingười trong hội đồng như bà con, họ hàng. Ví dụ như : một cụgià ngoài đường thì xưng hô “ bà-cháu ” Thứ hai, có đặc thù cộng đồng hóa cao – trong hệ thốngnày không có những từ xưng hô chung mà nhờ vào vào tuổitác, vị thế xã hội, thời hạn, khoảng trống giao tiếp đơn cử : chú khini, mi khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có kkhi thể hiệnđược hai quan hệ khác nhau : chú-con, ông-con, bác-em, anhtôi … Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng ; bằng thứtự sinh ( Cả, Hai, Ba, Tư … ) Thứ ba, bộc lộ tính tôn ti kỹ kưỡng : người Nước Ta xưngvà hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn ( gọi mình thì khiêmnhường, còn gọi đối tượng người dùng giao tiếp thì tôn kính ). Cùng một cặpgiao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọinhau là chị. Việc tôn trọng, tôn vinh nhau dẫn đến tục kiêng tênriêng : xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi chửi nhau ; đặt tên concần nhất là không được trùng tên của những người bề trên tronggia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người ViệtNam trước đây có tục nhập gia vấn húy ( vào nhà ai phải hỏi tênchủ nhà để khi nói nếu có động đến từ đó thì phải nói chệch đi ). Nghi thức trong cách nói lịch sự và trang nhã cũng rất nhiều mẫu mã. Dotruyền thống tình cảm và linh động nên người Nước Ta khôngcó một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp nhưphương Tây. Với mỗi trường hợp hoàn toàn có thể có một cách cảm ơn, xinlỗi khác nhau : Con xin chú ( cảm ơn khi nhận quà ), Chị chu đáoquá ( cảm ơn khi được chăm sóc ), Bác bày vẽ quá ( cảm ơn khiđược đon tiếp ), Quý hóa quá ( cảm ơn khi khách đến thăm ), Anhquá khen ( cảm ơn khi được khen ), Cháu được như thời điểm ngày hôm nay lànhờ cô đấy ( cảm ơn khi được giúp sức ) … Văn hóa nông nghiệp ưa không thay đổi, sống chú trọng đến khônggian nên người Nước Ta phân biệt kỹ những lời chào theo quan hệxã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó văn hóa phươngTây ưa hoạt động giải trí lại phân biệt kỹ những lời chào theo thời giannhư chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tốiN gười Nước Ta nông nghiệp sống nhờ vào lẫn nhau vàrất coi trọng việc giữ gìn những mối quan hệ tốt với mọi thành viêntrong hội đồng, chính đó là nguyên do dẫn đến việc coitrọng giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra quan hệ : Dao năng liếc thìsắc, người năng chào thì quen. Sự giao tiếp củng cố tình thân : áo năng may năng mới, người năng tới năng thân. Năng lực giaotiếp được người Nước Ta xem là tiêu chuẩn số 1 để đánhgiá con người : Vàng thì thử lửa, thử than – Chuông kêu thửtiếng, người ngoan thử lời. 2.1.2 phương pháp giao tiếpcác mô hình giao tiếp cơ bảnPhân loại theo đặc thù của tiếp xúc, giao tiếp được phânra thành 2 loại : giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp. Giao tiếp trực tiếp là loại giao tiếp trong những chủ đề trực tiếpgặp gỡ, trao đổi với nhau : Có thể sử dụng những phương tiện đi lại phi ngôn từ như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt, ăn mặc, trang điểm … Có thể nhanh gọn biết được quan điểm của người đối thoại. Có thể kiểm soát và điều chỉnh quy trình giao tiếp một cách kịp thời đểđạt được mục tiêu. Giao tiếp gián tiếp là loại giao tiếp trực tiếp bị hạn chế vềmặt khoảng trống, hơn nữa khi tiếp xúc trực tiếp tất cả chúng ta dễ bịchi phối bởi những yếu tố ngoại cảnh. Phân loại giao tiếp theo quy cách của giao tiếp. Giao tiếp chính thức : là giao tiếp mang đặc thù công cụ, theo chức trách, pháp luật, thể chế như hội họp, mít tinh, đàmphán … những yếu tố trong giao tiếp thường được xác lập trước, thông tin cũng được những chủ thể xem xét trước, thế cho nên thôngtin có độ đúng chuẩn cao. Giao tiếp không chính thức : là loại giao tiếp mang tính chấtcá nhân, không câu nệ hình thức, hầu hết dựa trên hiểu biết vềnhau. Ví dụ như bè bạn gặp nhau, trò chuyện, người lãnh đạotrò chuyện riêng tư với nhân viên cấp dưới. Hình thức này có ưu điểm làkhông khí cởi mở, thân tình, hiểu biết lẫn nhauPhân loại giao tiếp theo vị thế. Vị thế bộc lộ mối đối sánh tương quan giữa những người tronggiao tiếp với nhau, nó nói ai nhanh hơn ai, ai cần phụ thuộc vào aitrong giao tiếp. Theo vị thế giao tiếp, giao tiếp được chia ra thành : giao tiếpở thế mạnh, giao tiếp ở thế cân đối, giao tiếp ở thế yếu … Vị thế của một người so với người khác chi phối hành vi, ứng xử của họ trong giao tiếp. Chẳng hạn như trước mặt bạn hữu, lời nói, cử chỉ, điệu bộ, tư thế của tất cả chúng ta khác so với khi trướcmặt là cấp trên của tất cả chúng ta. Phân loại theo số lượng người tham gia giao tiếp và tínhchất mối quan hệ giữa họ. Giao tiếp giữa 2 cá thể, ví dụ như 2 người bạn giao tiếp vớinhau. Giao tiếp giữa cá thể với nhóm ví dụ như thầy giáo giảngbài trên lớp, giám đốc tại hội nghị người mua. Giao tiếp giữa những cá thể trong nhóm, ví dụ như sinh viênthảo luận nhóm … Giao tiếp giữa những nhóm với nhau, ví dụ như cuộc đàm phángiữa 2 hay nhiều phái đoàn, đàm phán song phương, đa phương2. 1.3 Phương tiện giao tiếpPhương tiện giao tiếp là toàn bộ những yếu tố mà chúng tadùng để thê hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những biểuhiện khác của mình trong quy trình giao tiếp. Có thể chia cácphương tiện giao tiếp thành hai nhóm chính là ngôn từ và phingôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn từ thường songhành và bổ trợ cho nhau. Trong những mối quan hệ thân thiện thìgiao tiếp phi ngôn từ được sử dụng nhiều hơn, còn trong cácmối quan hệ xã giao thì giao tiếp phi ngôn từ thường làm nềncho giao tiếp ngôn từ. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữNgôn ngữ là phương tiện đi lại giao tiếp đa phần của con người. Trong ngôn từ cần quan tâm đến không chỉ nội dung mà còn cảcách bộc lộ. Nội dung của ngôn từ tức là ý nghĩa của lời nói. Cần phái lựa chọn lời nói “ cho thỏa mãn nhu cầu nhau ” như trẽn đã trìnhbày. Còn cách biểu lộ thì phái xem xét từ những góc nhìn như âmlượng, âm điệu, nhịp điệu ngôn từ … và điệu bộ khi nói. Tiếngnói ấm cúng, chậm rãi dễ gây lòng tin. Tiếng nói thanh thoáttruyền cảm dễ gây tình cảm … Điệu bộ là những cử chỉ tay chânvà vẻ mặt. Điệu bộ phụ họa theo lời nói, giúp thêm ý nghĩa cholời nói và vì thế phải tương thích với lời nói. Ngoài ra, điệu bộ cònphải tương thích với giới tính, tuổi tác, phong tục, tập quán và vănhóa dân tộc bản địa. 10P hương tiện giao tiếp phi ngôn ngữTrong giao tiếp chí dùng lời nói thôi thì không đủ và đơnđiệu, không hấp dần, thậm chí còn đôi lúc là khó hiểu. Người ta hiểunhau một phần trải qua nội dung lời nói, một phần quan trọngkhác là trải qua cách diễn đạt bằng khung hình, trải qua giaotiếp không lời qua nét mặt, cử chỉ, dáng điệu và những tín hiệukhác. Đó là những phương tiện đi lại phi ngôn từ. Như vậy, điệu bộcũng là một trong những phương tiện đi lại giao tiếp phi ngôn từ. a ) Nét mật biểu lộ thái độ, xúc cảm của con người. Các cảmxúc cơ bản là vui mừng, buồn, quá bất ngờ, sợ hãi, tức giận vàghê tởm. Vui mừng làm cho nét mặt giãn ra, sợ hãi làm cho nétmặt co lại. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho biết một phần về cátính con người. Người có nét mặt đầy đặn thường dễ được chorằng là có tính hào phóng, “ sống có hậu ”. Người có nét mặt caucó thường là người nguyên tắc, khô khan … b ) Nụ cười : Mỗi điệu cười biểu lộ một thái độ nào đó : cườichua chát, cười thông cảm, cười đống ý, cười miễn cưỡng, cười chế diễu, cười khinh bỉ … Con người có bao nhiêu kiểu cườithì có bấy nhiêu đậm cá tính : cười đôn hậu, cười hồn nhiên, cườiđanh ác, cười nanh nọc … c ) Ánh mắt phán ánh trạng thái xúc cảm ( vui, buồn ), thểhiện tình cảm ( yêu, ghét ), tám trạng ( lo ngại, sợ hãi hay hưngphấn ) và ước nguyện ( cần khẩn hay thử thách ) của con người. Ánh mắt còn biểu lộ sự chú ý quan tâm, sự tôn trọng, đống ý hayphản đối. Nó ( ánh mắt ) còn biểu lộ vị thế tâm ý của con ngườitrong giao tiếp. Người có vị thế mạnh hơn thường nhìn nhiềuhơn vào mắt của người kia kể cả khi mói lẫn khi nghe. d ) Các cử chỉ gồm những hoạt động của những bộ phận trên cơthể. Mỗi bộ phận có những loại cử chỉ khác nhau và những cử chỉ nàyđều có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp. Chuyển động của đầu : gật là chấp thuận đồng ý, lắc là không đống ý. Có thể dùng cử chí cứa bàn tay và cánh tay dể biểu lộ lời mời, sự phủ nhận hay bộc lộ sự chống đối, hay van xin … Mũi có thê dùng đê biểu lộ sự khinh bỉ. Le lưỡi là biểu hiệnthiếu tôn kính, liếm môi khi căng thắng. Hếch cằm biểu hiện11thái độ gây gổ. Vuốt cằm biểu lộ đang tâm lý. Vuốt gáythường là đang bồn chồn. Nói dối thường hay nháy mắt … Khi ngồi trò chuyện mà hai chân hoạt động liên tục thì ngườiđó hoặc đang lo ngại hoặc đang vội vã. Khi dứng nói chuyệnngười ta thường hay hướng bàn chân về người mà người ta cócảm tình hơn. Đôi bàn chân đổi tư thế đứng liên tục biểu lộ sựsốt ruột … e ) Tư thể : Thường thường tư thế thể hiện một cách vô thứccương vị xã hội của con người. Dẽ nhíp nhận qua thế ngồi cươngvị của cấp trên ( ngồi tự do, đầu hơi ngả về sau ) hay cấpdưới ( hơi cúi đầu về phía trước ). g ) Quần áo và trang sức đẹp bộc lộ đậm cá tính và văn hóa của conngười. Cách ăn mặc cũng bộc lộ tâm trạng, tâm ý ( vui : mặcsáng mầu, buồn : mặc tối mầu ), thậm chí còn nghề nghiệp, vị thế, lứa tuổi. h ) Không gian giao tiếp : Không gian giao tiếp là vùng khônggian trong đó xảy ra quy trình giao tiếp. Thông thường ta xíchlại gần những người mà ta tin cậy và tránh xa những ngườimà ta sợ hãi hoặc không có tình cảm. Có thể chia thành 4 vùngtheo mức độ thân thiện : Vùng mật thiết ( từ 0 đến 0,5 mét ) : dành cho mối quan hệthân tình hoặc khi đang đánh nhau. Trong khoảng cách này cácgiác quan như xúc giác và khứu giác là phương tiện đi lại giao tiếp cơbản, lờinóicóthểchỉlàthìthầm. Vùng riêng tư ( từ 0,5 đến 1,5 mét ) : dành cho hai người phải dủquen thân đến mức độ cảm thấy tự do trong giao tiếp. Vùng xã giao ( từ 1,5 đến 3,5 mét ) : là vùng diễn ra phần lớncác hoạt động giải trí quản trị và hoạt động giải trí kinh doanh thương mại, nghĩa là cácquan hệ không thuộc khoanh vùng phạm vi quan hệ riêng tư. Trong khoáng cách này hoàn toàn có thể xảy ra những hoạt động giải trí nhưmua bán ( giữa người mua và người bán ), hoạt động giải trí truyền đạtmệnh lệnh ( giữa nhà quản trị và người thừa hành ) … Vùng công cộng ( trên 3,5 mét ) là khoanh vùng phạm vi tiếp xúc giữanhững người lạ lẫm vì mục tiêu việc làm. 2.1.4 Ảnh hưởng của thái độ giao tiếp đến quy trình giao tiếp12Lời nói của bạn biểu lộ con người bạn một cách rõ nhất, chỉ cần nghe bạn nói thì người khác hoàn toàn có thể hiểu được bạn. Hãy biểu lộ sự khôn khéo có tài năng của bạn qua lời nói, thái độkhi nói chuyệnLời lẽ của một người bộc lộ rõ toàn cảnh mái ấm gia đình, hoàncảnh giáo dục và vị thế của người ấy. Trò chuyện là công cụ hữu hiệu nhất để phán đoán vị thế xãhội, kinh nghiệm tay nghề sống, toàn cảnh trưởng thành và độ an toàn và đáng tin cậy củamột người lạ. Nội dung và kỹ xảo trò chuyện cũng là thước đophẩm chất tư cách chân thực của một người. Có thể qua chuyện trò người ta nắm được một cách mạchlạc tư tưởng và sự tu dưỡng cá thể của một con người nào đó. Cho dù bạn có bao nhiêu thành tích, tiền của, bạn giàu sang đếnđâu, trình độ học vấn của bạn cao đến đâu, lời nói của bạn sẽmiêu tả sinh động câu truyện của bạn, từng câu, từng từ, đãkhắc họa hình tượng của bạn. Bạn chọn dùng pháp ngữ, ngôntừ, ngữ âm, khẩu âm v.v… như thế nào, mọi người sẽ hình dungra thực trạng sống của bạn, tưởng tượng ra con người bạn. Có không ít người được người khác ngưỡng mộ, họ thường lànhững người ăn nói có duyên, giỏi đối đáp. Ấn tượng tiên phong, 13 quan trọng nhất là khi giao tiếp, người giao tiếp giỏi dể để lại ấntượng tiên phong thâm thúy với đối tượng người dùng mà họ giao tiếp. Ăn nói lịchsự, cử chỉ lịch sự và trang nhã lịch sự và trang nhã hoàn toàn có thể làm cho bạn nhận được sựhoan nghênh, nó giúp ích cho sự thành công xuất sắc của bạn trong sựnghiệp và trong đời sống. Có rất nhiều người thành đạt mộtphần là nhờ họ giỏi thuyết phục, đối đáp nhanh và mưu trí. Ăn nói, giao tiếp khôn ngoan, nhã nhặn là một thói quen tốt cólợi cho cả cuộc sống bạn. Điều này sẽ giúp cho bạn xây dựngđược hình ảnh cá thể tốt trong mắt đối phương. Đại đa số mọi người đều muốn tiếp xúc với người ăn nói lịchsự, khôn khéo, hiểu biết sâu rộng, chính bới trò chuỵên với người ấythực ra giống như một sự tận hưởng. Khi giao tiếp với một ngườiăn nói dễ nghe, âm thanh rủ rỉ giống như âm nhạc rót vào tai ta, làm rung động tâm hồn ta, hoặc làm cho niềm tin ta phấnchấn, hoặc hoàn toàn có thể an ủi khuyến khích ta tạo ra sự những điều tốt đẹp. Cho dù trong trường hợp nào, nếu bạn hoàn toàn có thể diễn đạt điềumình muốn nói một cách rõ ràng, khúc chiết nếu bạn biết dùngngôn từ đẹp, lại cộng thêm ngôn từ lên bổng xuống trầm, thìbạn hoàn toàn có thể hấp dẫn mê hoặc người giao tiếp với bạn. Cử chỉ lịchthiệp, lời nói thanh nhã hoàn toàn có thể giúp cho sự nghiệp của bạn thànhcông. Nếu bạn lại giỏi ăn nói, cộng thêm những cử chỉ trang nhãthì trong bất kể trường hợp nào bạn đều hoàn toàn có thể vượt qua mọi trởngại, nhận được sự hoan nghênh và ủng hộ của mọi người. Trong trong thực tiễn đời sống, có những người luôn chú ý quan tâm bồidưỡng năng lượng ngôn từ của mình, tu dưỡng cho mình có thóiquen diễn đạt tốt, tuy nhiên cũng có những người không có thóiquen đó, thậm chí còn không có ý thức tu dưỡng thói quen đó. Ngay từ giờ đây, bạn hoàn toàn có thể khởi đầu tu dưỡng sự ăn nói lịchsự cho mình ! Điều này vừa nhẹ nhàng vừa dễ triển khai. sáchbáo, tạp chí hướng dẫn về cách diễn thuyết rất nhiều, chỉ cầnbạn muốn đọc, chỉ cần bạn cầu tiến, bạn nhất định sẽ làm đượcđiều mình mong ước. Lời khuyên : Đại đa số mọi người đều muốn được giao tiếp với người ănnói lịch sự và trang nhã, chính do trò chuyện với những người như vậy sẽ mang14lại cảm xúc dễ chịu và thoải mái, tự do cho bản thân. Trong mọi tìnhhuống, bạn hãy quan tâm tu dưỡng cho mình năng lượng diễn đạt, thói quen diễn đạt mạch lạc, giàu hình ảnh, ngôn từ lôi cuốn. Ảnh hưởng của phương tiện đi lại giao tiếp đến quá trìnhgiao tiếpCuộc sống hàng ngày, lời nói rất quan trọng vì lời nói là mộtphương tiện để tất cả chúng ta giao tiếp bằng ngôn từ giữa conngười với nhau. Thông qua lời nói con người trao đổi công việcđể tìm cách xử lý, trình diễn quan điểm, bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình, biểu lộ sự hiện hữu của mình. Lời nói thểhiện sự tư duy, tâm lý, tình cảm, tình thương, thái độ, tráchnhiệm của một người ở cương vị của mình. Tất nhiên, mỗi ngườitrong tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nói ra điều mình mong ước và tùy vàotừng thực trạng, vai vế của mình và đối tượng người tiêu dùng để sử dụng lời nóilà phương tiện đi lại giao tiếp cho tương thích. Chính vì lời nói là phươngtiện giao tiếp, do vậy nó luôn có sự ảnh hưởng tác động, ảnh hưởng tác động mạnhmẽ đến người nghe. Lời nói là phương tiện đi lại liên tục để giao tiếp, thì trướchết phải nói đúng lúc, hợp tình, hài hòa và hợp lý, lời nói ôn hòa, đúng thờiđiểm là điều quan trọng bảo vệ sự kịp thời của thông tin và sựtinh tế trong giao tiếp. Nếu nói không đúng thời gian thì sẽ làbỏ qua thời cơ, hoặc cứ nói nhưng không chăm sóc đến ngườinghe thì chẳng những không có tác dụng, mà còn phản tác dụng. Bản thân tôi cũng đã đảm nhiệm được nhiều bài học kinh nghiệm nhớ đời khitiết kiệm lời nói hoặc không nói đúng lúc, nhiều thời cơ đã trôiqua. Ngại nói, tự nhiên mình trở thành người kém tự tin tronggiao tiếp, cái tư duy “ sao cứ phải nói yêu mới là yêu …. ” hoặckhi nói thì thẳng rát cả tai người nghe hoặc nói cho sướng cáimồm …, mặc dầu mình không có ý xấu nhưng rõ ràng là vẫnkhông thành công xuất sắc trong giao tiếp. Người xưa thật thâm thúy khi nói về giá trị quý báu của lời nói “ lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho thỏa mãn nhu cầu nhau ”, lời dạy này nhắc nhở tất cả chúng ta muốn giao tiếp thành công xuất sắc thìphải biết tinh lọc cách nói, nói năng lễ độ, hòa nhã để tạo ra sựđoàn kết, thông cảm giữa những người trong cuộc giao tiếp. Việc khôn khéo lựa chọn cách diễn đạt tương thích với đối tượng người dùng giao15tiếp sẽ khiến người nghe thuận tiện tiếp thu quan điểm của mình, chodù đó là lời phê bình hay góp ý. Nói là “ lựa lời mà nói ” không cónghĩa là tất cả chúng ta nói những từ văn hoa, mỹ miều, bỡ đợ để cólợi cho mình …. Mà là lời nói cần chân tình, dễ nghe, dễ hiểu, đúng mực, ấm cúng, an toàn và đáng tin cậy để có sức lan tỏa tích cực với ngườinghe. Người nghe, cảm thấy như hoàn toàn có thể “ dời non, lấp biển ” khiđược nghe những bài thuyết trình có sức mạnh khác thường, cósự hấp dẫn kỳ diệu của người nói. Ngược lại, nếu lời nói trong lúccáu gắt, nói như là trút lên người khác sự bực dọc của mình thìngười nghe nhận được nguồn nguồn năng lượng xấu đi, nghe nhiềucảm thấy chán nản. Lời nói trong giao tiếp có sự tác động ảnh hưởng tốt lẫn xấu đếnngười nghe vì nó là phương tiện đi lại “ tiếp thị quảng cáo ” là vật mangthông tin và nguồn năng lượng truyền đến cho cho người nghe. Trongtác phẩm “ Tử huyệt cảm hứng ” của Roy Garn do dịch giả PhanNguyễn Khánh Đan có đoạn viết : “ Ngôn từ là những đứa trẻ tinhnghịch và khôn ngoan. Ngay khi chúng vừa rời khỏi mồm miệngchúng ta, chúng đứng qua một bên để xem những gì diễn ratiếp theo. Chúng không khi nào ra về tay không, vì chắc chẵnsẽ luôn có một điều gì đó xảy ra với một ai đó sau khi lời nóiđược thốt ra ”. Tất nhiên, lời nói và sự tĩnh mịch là những bộc lộ bìnhthường của mỗi con người, nhưng nếu biết biểu lộ đúng lúc, đúng chỗ thì cả lời nói và sự yên lặng đều là vàng. Chẳng thế màtrong NQ về đạo đức, lối sống Thầy Nguyệt Quang Tử đã dạy tròđối với bản thân mình phải “ Phát ngôn dễ nghe, dễ hiểu, chântình ”. Như vậy, Thầy hướng dẫn cho tất cả chúng ta một phương pháp “ tukhẩu ” và giúp tất cả chúng ta nhận thấy được ý nghĩa của lời nói tronggiao tiếp để sử dụng cho tương thích. Vậy mà, trong đời sống có lúc không kiềm chế được cảmxúc của mình, vô tình tôi đã nói những điều lẽ ra không nên nóivới những người sống quanh tôi … Và tôi cũng đã phải cố tìnhnghe những lời nói không hài hòa và hợp lý mà một số ít người khác cố ý rótvào tai tôi ! Ước chi toàn bộ tất cả chúng ta không khi nào mắc lỗi trong phátngôn và không khi nào phải nghe những lời không dễ nghe thì16thích nhỉ ! Một số trường hợp ứng xử của người ViệtTrong văn hoá Nước Ta, một trong những góc nhìn đángchú ý nhất là văn hoá ứng xử. Trong văn hoá ứng xử, khía cạnhcó nhiều đặc thù tích cực, thường được khen ngợi nhất là tìnhgia đình và tình hàng xóm ; góc nhìn thường bị xem là tiêu cựcvà có nhiều yếu tố nhất là văn hoá giao tiếp. Trong văn hoágiao tiếp, điều thường bị phê phán nhiều nhất cũng lại là nhữngđiều cơ bản nhất : cách chào hỏi và cách nói cám ơn hay xinlỗi. Trước hết, nói về chuyện cám ơn / xin lỗi. Đã có rất nhiềungười viết về đề tài này. Hầu như quan điểm của ai cũng giống nhau : Người Việt, nhất là kể từ sau 1975, rất hiếm khi nói cám ơn hayxin lỗi. Nhờ người ta chỉ đường ; nghe xong, lẳng lặng đi, khôngmột lời cám ơn. Đi xe quẹt người khác, trừng mắt lên nhìn, rồiphóng đi, không một lời xin lỗi. Những chuyện như vậy diễn rahàng ngày. Ở khắp nơi. Ngay cả giữa những người có ăn học. Ngay cả việc chào hỏi của tất cả chúng ta cũng có yếu tố, thậmchí, yếu tố nghiêm trọng. Còn nhớ, cách đây non mười năm, đứa em trai tôi từ ViệtNam sang Úc chơi. Mỗi sáng, hai đồng đội đi bộ dọc theo bờ biểngần nhà để tập thể dục. Những ngày tiên phong, em tôi quan tâm đếnmấy điều : thứ nhất, cái đẹp đầy thanh thản của cảnh sắc ; thứhai, sự dạn dĩ của chim chóc, đa phần là bồ câu và hải âu, lúcnào cũng quấn quít quanh người đi dạo hay ngắm cảnh ; và, thứ17ba, sự thân thiện của người Úc. Trên quãng đường khoảng chừng 3 cây số dọc theo bờ biển, trungbình cứ vài ba phút lại gặp một người đi bộ ngược chiều. Hầunhư ai cũng nhoẻn miệng cười và nói “ hello ” hay “ goodmorning ”. Thỉnh thoảng có người còn hỏi thêm “ Khoẻ không ? ” hay buông vài câu bâng quơ, kiểu “ Hôm nay trời đẹp quá há ! ”. Thằng em tôi, thoạt đầu, than : “ Trả lời mỏi miệng quá ! ”, sau, nghĩ ngợi một lát, trầm trồ : “ Người Úc đáng yêu và dễ thương ghê ! ” ; saunữa, trầm ngâm so sánh : “ Ở Nước Ta đâu có ai chào người lạnhư vậy. Gặp người dân tộc thiểu số nữa thì đừng hòng ! ” Mà thật, bạn chú ý xem, ở Nước Ta, đi đường, có ai chào aikhông ? Với người lạ, câu vấn đáp hầu hết tuyệt đối : Không. Chúngta chỉ chào người quen. Câu tục ngữ “ tiếng chào cao hơn mâmcỗ ” phần nhiều chỉ vận dụng cho người quen, trong làng xóm vớinhau. Nhưng với người quen, tất cả chúng ta thường chỉ chào bằngngôn ngữ thân thể ( body toàn thân language ) hơn là ngôn từ bằng lời ( verbal language ) : Chúng ta gật đầu, vẫy tay hay nhoẻn miệngcười. Là hết. Thân tình hơn, mới hỏi bâng quơ vài câu : “ Anh / chịđi đâu đó ? ” hay “ Đi đâu mà vội quá vậy ? ”. Vậy thôi. Nói cách khác, tương quan đến góc nhìn này của văn hoá giaotiếp, tất cả chúng ta thiếu đến hai điều : Thứ nhất, tất cả chúng ta không có thói quen chào nhau, nhất làvới người lạ. Thứ hai, tất cả chúng ta chưa có những công thức chào. Về điểm thứ nhất, nhớ lại xem, hồi nhỏ, hầu hết bố mẹchúng ta chỉ dạy tất cả chúng ta chào khi có khách đến nhà hoặc khiđến nhà người khác. Và chỉ nhu yếu tất cả chúng ta chào người lớn, hoặc lớn tuổi hoặc lớn vai vế, hơn. Hầu như không ai dạy concái cách chào người lạ hay với người nhỏ tuổi hơn mình. Về điểm thứ hai, trong tiếng Việt, “ chào hỏi ” thường đi đôivới nhau, thành một từ, từ ghép. Trên thực tiễn, tất cả chúng ta thườngdùng câu hỏi thay cho lời chào. Mà hỏi thì phong phú vô cùng. Chúng biến hóa theo mức độ quen thân, theo thực trạng, theocảm hứng, v.v… Hệ quả là lời chào, ngay cả chào-hỏi, của chúngta không được công thức hoá. Khác hẳn với những ngôn từ Tâyphương. Ví dụ, với tiếng Anh hay tiếng Pháp, những lời chào hỏi18hầu như thành công thức. Với ai, ở đâu, tất cả chúng ta cũng lặp đi lặplại như vậy. Đại khái : – Chào anh. – Chào chị. Chị khoẻ không ? – Khoẻ, anh ạ. Cám ơn anh. Còn anh thì thế nào ? – Tôi cũng khoẻ. Cám ơn chị. Từ người thân trong gia đình đến kẻ sơ, từ người lớn đến trẻ nhỏ, từ ôngTổng thống đến người bán hàng, gặp nhau, ở đâu người ta cũngđều nói thế. Những công thức chào hỏi như thế biến thành mộtthứ văn hoá, văn hoá giao tiếp. Bởi vậy, tôi nghĩ, yếu tố tiên phong của văn hoá là tính côngthức. Văn hoá là sự đồng điệu thuận về ý nghĩa của một biểutrưng hay một giá trị nào đó trong hội đồng. Để biểu lộ hayđẩy mạnh sự đồng thuận ấy, công thức hoá là một giải pháp tốtnhất và hiệu suất cao nhất. Nhưng tâm ý con người thường e ngạitrước tính công thức. Quá trình công thức hoá chỉ hoàn toàn có thể thựchiện được bằng cưỡng chế, hầu hết qua mạng lưới hệ thống giáo dục. ỞTây phương, tối thiểu qua tiếng Anh và tiếng Pháp mà tôi biết, những công thức chào hỏi vừa nêu là những bài học kinh nghiệm vỡ lòng chocả người ngoại bang lẫn trẻ nhỏ bản ngữ. Ai cũng phải học nhưthế. Công việc tiếp đón những công thức giao tiếp được khởi sựngay từ lúc người ta học ngôn từ. Việc cưỡng chế trong quy trình đảm nhiệm tính công thứctrong văn hoá cần có một điều kiện kèm theo khác nữa : đó là sự sùng bái. Văn hoá nào cũng gồm có sự sùng bái. Nhiều học giả đã phântích : tính sùng bái ( cult ) nằm ngay trong chữ văn hoá ( culture ), trở thành yếu tính của văn hoá. Nói cách khác, không có sùngbái sẽ không có văn hoá. Trong văn hoá giao tiếp, sùng bái đa phần là sùng bái đốivới hình mẫu của một con người văn minh và có văn hoá : Đó làmột con người biết chào hỏi, biết nói cám ơn và nói xin lỗi nhưmột cách biểu lộ sự tự trọng. Vâng, tôi xin nhắc lại : đó là sự bộc lộ của lòng tự trọng. Cám ơn hay xin lỗi, ngay cả về những chuyện, thành thựcmà nói, không đáng, là cách bày tỏ sự kính trọng so với ngườikhác, qua đó, biểu lộ sự tự kính trọng mình với tư cách là một19người văn minh và có văn hoá. Nói cách khác, nếu trên đườngđi, tôi hơi lấn hay đụng anh một chút ít, một chút ít thôi, tôi xin lỗianh ; đó không phải là tôi “ sợ ” anh, mà là vì tôi sợ tôi biến thànhmột con người thô lỗ. Xin lỗi, do đó, trở thành một cách tự bảovệ mình, bảo vệ nhân phẩm của chính mình : Trong trường hợpnày, nếu anh sừng sộ với tôi, anh thua tôi. Thua về độ văn minhvà văn hoá. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến một kỷ niệm lúc mới từ trạitị nạn ở Galang qua Pháp. Trong mấy tháng ở trại tị nạn, tôi cốgắng học thêm cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp : trong khi học tiếng, khi nào cũng tự dặn dò mình phải học cả văn hoá giao tiếp ở xứngười, trong đó, điều quan trọng và cũng là điều cơ bản nhất làbiết chào hỏi, biết nói xin lỗi và cám ơn. Đến Paris, những ngày tiên phong sống trong trung tâmchuyển tiếp, khi nào tôi cũng lẩm nhẩm trong miệng hai chữ “ Merci ” ( cám ơn ) và “ Pardon ” ( xin lỗi ) như một kiểu tự kỷ ámthị. Một lần, vào tiệm mua một tờ báo, trả tiền xong, quay ra, tôi hấp tấp vội vàng vấp phải một phụ nữ vừa trờ tới từ phía sau. Bèn nhớđến bài học kinh nghiệm, nhưng thay vì nói “ xin lỗi ”, tôi buộc miệng nóinhầm “ cám ơn ! ”. Bước đi được mấy bước, nhớ lại cái nhầm của mình, thẹn đỏmặt, tôi bước đi thật nhanh. Để trốn. Thẹn. Nhưng nếu không như vậy, biết khi nào những điềumình học mới trở thành một phản xạ tự nhiên ? Khi nói văn hoá là những gì còn lại sau khi đã quên hết, cólẽ người ta cũng nhấn mạnh vấn đề đến tính phản xạ ấy. 2.2 Vận dụng liên hệ trong đời sống và ngành học của sinhviênPhân tích những đặc thù tâm ý của đối tượng người dùng trong quá trìnhtrợ giúp : Công tác xã hội là một ngànhMột nhân viên thực hành thực tế công tác làm việc xã hội được gọi là mộtcán bộ / nhân viên cấp dưới công tác làm việc xã hội. Ví dụ về những nghành màmột nhân viên cấp dưới xã hội hoàn toàn có thể hoạt động giải trí là : cứu đói, kỹ năngsống, kiến thức và kỹ năng xã hội, tăng trưởng hội đồng, tăng trưởng nôngthôn, kiểm soát và điều chỉnh mức độ đô thị hóa, pháp y, chỉnh đốn, phápluật, quan hệ lao động, hòa nhập xã hội, bảo vệ trẻ nhỏ, bảo vệ20người cao tuổi, những quyền của phụ nữ, quyền con người, quản lýngười bị xã hội chối bỏ, cai nghiện, phục sinh công dụng, pháttriển đạo đức, hòa giải văn hoá, quản trị thiên tai, sức khỏe thể chất tâmthần, trị liệu hành vi và khuyết tật. Nghề Công tác xã hội thôi thúc sự đổi khác xã hội, giải quyếtvấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lượng và giảiphóng cho người dân nhằm mục đích giúp cho đời sống của họ ngàycàng tự do, dễ chịu và thoải mái. Vận dụng những kim chỉ nan về hành vi conngười và mạng lưới hệ thống xã hội, Công tác xã hội tương tác vào nhữngđiểm giữa con người với môi trường tự nhiên của họ. Nhânquyền và Công bằng xã hội là những nguyên tắc cơ bản củanghề “. [ 2C ông tác xã hội là 1 nghề có vai trò trợ giúp, tương hỗ và tạođiều kiện cho những người có thực trạng đặc biệt quan trọng khó khan vàkhó hòa nhập với hội đồng, ví dụ người khuyết tật, ngườigià, người nghèo, người bị bệnh nan y, người không có khả năngtự, chăm nom, … ngành công tác làm việc xã hội sinh ra với sứ mạng hàngắn những rạn nứt của xã hội trong quy trình tăng trưởng. giảm sựbất bình đẳng xã hội và hướng tới sự tăng trưởng vững chắc, nhânvăn và nhân ái. 21V ề cơ bản, nghề công tác làm việc xã hội có vai trò phân phối dịch vụcho người dân, người làm trong nghề công tác làm việc xã hội là ngườiphục vụ cho xã hội, ship hàng những người cần trợ giúp, che chở vàhỗ trợChính thế cho nên nhân viên cấp dưới công tác làm việc xã hội cần được đào tạochuyên sâu về kiến thứcChuyen chăm nom đặc biệt quan trọng là kiến thức và kỹ năng mềmKiến thức xã hội giúp nhân viên cấp dưới thấ hiểu được cuộcsống, thực trạng của người chăm nom, chớp lấy tâm ý và hộ trợhọ, hoàn toàn có thể đồng cảm và tiếp cận và hõ trợ lâu dài hơn cho ngườiđó, ví dụ một cán bộ công tác làm việc xã hội phải tiếp cận mmootj ngườitỏn thương tâm lý, và có dự tính tự vẫn, lúc này cán bộ công tácxã hội cần có kỹ năng và kiến thức giao tiếp tốt, cộng với kiến thứ c xã hội cóthể đồng cảm đồng cảm từ đó tiếp cận và trợ giúp họ, sau đó sửdụng kỹ năng và kiến thức trình độ tham vấn và điều trị tâm ý cho họ. Đối với mỗi cá thể, năng lực giao tiếp là một lợithế để bộc lộ bản thân cũng như chớp lấy thời cơ trongcuộc sống. Mỗi người, trong quy trình sống và học tập, thao tác luôn cố gắng nỗ lực để trau dồi và hoàn thành xong kỹ năngquan trọng này. Đặc biệt, so với sinh viên đang theo họccác ngành khoa học xã hội thì kỹ năng và kiến thức này không chỉgóp phần nâng cao năng lực tiếp cận kiến thức và kỹ năng, mà cònmở ra cho sinh viên năng lực chớp lấy những thời cơ nghềnghiệp đến với mình. Kỹ năng giao tiếp được hiểu là năng lực cá thể truyền22đạt, biểu lộ một cách hiệu suất cao những tri thức và kinh nghiệm tay nghề, quan điểm của bản thân trải qua việc sử dụng những phươngtiện ngôn từ và phi ngôn từ vào những thực trạng khác nhaucủa quy trình giao tiếp nhằm mục đích đạt được mục tiêu giao tiếp. Nhưvậy, kỹ năng và kiến thức giao tiếp không chỉ gồm có năng lực sử dụngngôn ngữ linh động mà còn là sự tích hợp nhiều năng lực quantrọng khác như năng lực lắng nghe, năng lực sử dụng ngônngữ hình thể, kiềm chế và biểu lộc xúc cảm … để diễn đạt quanđiểm và suy nghĩa của cá thể. Do vậy, để hoàn thành xong kỹ năngnày, mỗi người phải nỗ lực trau dồi những kiến thức và kỹ năng hỗ trợ nóitrên trải qua quy trình ứng xử trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày, trong học tập và thao tác. Đối với sinh viên lúc bấy giờ, đặc biệt quan trọng là những sinh viên ngànhkhoa học xã hội, kỹ năng và kiến thức giao tiếp đóng vai trò rất quan trọngđối với quy trình học tập và thao tác sau này. Kỹ năng xác lập tiềm năng phù hợpĐể đạt được những thành công xuất sắc trong đời sống. Con ngườicần phải biết đặt ra những tiềm năng tương thích với năng lượng, điềukiện của bản thân và quyết tâm thực thi chúng. Mục tiêu tương thích sẽ giúp con người sống có mục tiêu, biếtquý trọng đời sống của mình và đặt mình vào đời sống có ýnghĩa. Ngược lại, đời sống sẽ trở nên vô vị và hoàn toàn có thể dẫn đếnlêch lạc. Chính thế cho nên, xác lập tiềm năng là yên cầu quan trọng vớisinh viên. Nó giúp sinh viên biết được những mong ước cụ thểvà nỗ lực triển khai xong mong ước trong thời hạn mình muốn. Mục tiêu cũng giúp sinh viên biết được để đạt được tham vọng thìbản thân cần làm gì, cần nguồn tương hỗ nào, và từ đó biết đượcnhững khó khăn vất vả và thuận tiện gặp phải. 23K ỹ năng tự nhận thứcTự nhận thức là tự biết mình là ai, điểm mạnh, điểm yếucủa bản thân, mối quan hệ với những người xung quanh … Nhậnthức rõ về bản thân giúp cá thể bộc lộ sự tự tin và tính kiênđịnh để hoàn toàn có thể xử lý yếu tố và ra quyết định hành động hiệu suất cao. Tựnhận thức cũng giúp bản thân đặt ra những tiềm năng phấn đấuphù hợp và thực tiễn. Tự ý thức là một kỹ năng và kiến thức sống quan trọng giúp mỗi sinhviên nhận thức rõ hơn về bản thân : Biết mình là ai, mình cónhững điểm chung và những điểm riêng nào so với những ngườikhác. Từ đó, sinh viên sẽ dữ thế chủ động hơn trong việc rèn luyện kỹnăng tự nhận thức và có thái độ tự tin so với những gì đã có, thấy được những gì cần cố gắng nỗ lực, biết mình muốn gì và khôngthích gì để kiên trì và ra quyết định hành động tương thích. Kỹ năng giao tiếpTheo lý luận của Tâm lý học hoạt động giải trí : Bản chất cuộc sốngcủa con người là những dòng hoạt động giải trí tiếp nối đuôi nhau nhau, từ khi sinhra cho đến lúc từ giã cõi đời. Giao tiếp xã hội là yếu tố quantrọng, góp thêm phần tạo dựng nên thành công xuất sắc trong bất kể lĩnh vựcgì. Giao tiếp tốt chính là chìa khóa dẫn đến 85 % thành côngtrong việc làm. 24

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận