Mâu thuẫn biện chứng – Bách khoa Toàn thư Việt Nam

Mâu thuẫn biện chứng (A: Dialectical contradiction; Ph: Contradiction dialectique; N: Диалектическое противоречие) là một phạm trù của phép biện chứng dùng để chỉ sự liên hệ và tác động giữa hai mặt đối lập.

Thuật ngữ mâu thuẫn trong tiếng Anh và những ngôn từ phương Tây khác có nghĩa đen là lời nói trái ngược nhau. Nó gồm 2 từ gốc : diction ( lời nói ) và contra ( tiền tố chỉ khuynh hướng trái ngược, chống đối ). Từ противоречие trong tiếng Nga cũng có cấu trúc tựa như như vậy .Lúc đầu, thuật ngữ mâu thuẫn được dùng trong Lôgíc học hình thức để chỉ những phát ngôn, phán đoán trái ngược nhau, một cái khẳng định chắc chắn, một cái phủ định ( có và không có ; là và không phải là ). Về sau thuật ngữ này được dùng trong phép biện chứng của Hêghen và của Mác với một nghĩa rộng hơn, thậm chí còn khác với nghĩa nguyên thủy của nó ; mâu thuẫn đã trở thành một phạm trù triết học, nó không chỉ có trong tư duy, mà cả trong hiện thực khách quan nữa .

“Mâu thuẫn” (từ Hán Việt) có liên quan đến hai loại binh khí – “mâu” là cái kích để đâm và “thuẫn” là cái khiên để đỡ, có thể được hiểu như là mâu thuẫn khách quan giữa đâm và đỡ, giữa tác động và phản tác động; đồng thời cũng có thể hiểu như là một mâu thuẫn lôgíc, tức là mâu thuẫn giữa hai lời quảng cáo phủ định nhau của anh thợ rèn bán rao về hai loại sản phẩm đó của mình.

Để phân biệt mâu thuẫn với tính cách là phạm trù của phép biện chứng với khái niệm mâu thuẫn trong lôgíc học hình thức, người ta dùng những thuật ngữ khác nhau – mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn lôgíc hình thức, gọi tắt là mâu thuẫn lôgíc. Tuy nhiên, không phải khi nào cũng có những tính từ biện chứng hay lôgíc hình thức đi sau danh từ mâu thuẫn ; do đó tùy theo từng ngữ cảnh mà ta hoàn toàn có thể phân biệt thuật ngữ mâu thuẫn được dùng với nghĩa là mâu thuẫn biện chứng hay mâu thuẫn lôgíc .Mâu thuẫn biện chứng là những mâu thuẫn sống sót tất yếu khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Ví dụ, mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa lực hút và lực đẩy trong quốc tế vật lý, giữa đồng điệu và dị hóa trong sinh vật, giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột trong đời sống kinh tế tài chính, giữa những quan điểm, học thuyết chống đối nhau trong triết học và những kim chỉ nan về tự nhiên, xã hội, v.v.. Còn mâu thuẫn lôgíc là mâu thuẫn chủ quan và chỉ sống sót trong tư duy .

Tuy nhiên, mâu thuẫn biện chứng khách quan được phản ánh thành mâu thuẫn biện chứng trong tư duy (khác với mâu thuẫn lôgíc hình thức cũng là mâu thuẫn trong tư duy). Hai loại mâu thuẫn trong tư duy này có sự khác nhau: Xét về nguồn gốc, mâu thuẫn lôgíc là do sai lầm trong nhận thức, còn mâu thuẫn biện chứng là do tính phức tạp của thế giới khách quan và của nhận thức con người. Trong mâu thuẫn lôgíc, khi đã xác định được mặt mặt (phán đoán) là chân thật (đúng) thì mặt kia chắc chắn là sai lầm (hoặc có thể cả hai đều sai lầm); còn trong mâu thuẫn biện chứng, vì mỗi tư tưởng chỉ phản ánh một mặt trong hai mặt đối lập có liên hệ biện chứng với nhau của sự vật, nên mỗi tư tưởng đều có thể chứa đựng những yếu tố chân lý nhất định (Ví dụ, với hai phán đoán: “Trong mỗi con người đều có cái thiện” và “Trong mỗi con người đều có cái ác”, không nhất thiết chỉ có một cái đúng, một cái sai). Giải quyết mâu thuẫn lôgíc chỉ đơn giản là loại bỏ một hoặc cả hai tư tưởng sai lầm; còn giải quyết mâu thuẫn biện chứng là một quá trình rất phức tạp.

Mâu thuẫn biện chứng có cấu trúc gồm hai mặt trái chiều và mối quan hệ giữa chúng được biểu lộ trong ba khái niệm : sự thống nhất của những mặt trái chiều, sự đấu tranh của những mặt trái chiều và sự chuyển hóa của những mặt trái chiều. Mối quan hệ của những mặt trái chiều có tính tất yếu, phổ cập, lặp đi lặp lại, được phép biện chứng coi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng – quy luật thống nhất và đấu tranh của những mặt trái chiều .Mỗi sự vật, hiện tượng kỳ lạ hoàn toàn có thể tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn. Trong một mâu thuẫn hoàn toàn có thể vừa có những yếu tố tất yếu, khách quan vừa có những yếu tố không tất yếu, không khách quan ; cho nên vì thế nhận thức mâu thuẫn, phân biệt giữa mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn không biện chứng là rất là khó khăn vất vả. MTBC được phân thành nhiều loại : Mâu thuẫn bên trong và ( giữa những mặt trái chiều trong cùng một sự vật, hiện tượng kỳ lạ ) và mâu thuẫn bên ngoài ( giữa những mặt trái chiều ở những sự vật, hiện tượng kỳ lạ khác nhau ) ; mâu thuẫn cơ bản ( pháp luật thực chất, sống sót trong suốt qua trình tăng trưởng của sự vật, hiện tượng kỳ lạ và lao lý những mâu thuẫn khác ) và mâu thuẫn không cơ bản ; mâu thuẫn hầu hết ( mâu thuẫn nổi lên số 1 trong một quá trình tăng trưởng của sự vật ) và mâu thuẫn không hầu hết ; mâu thuẫn đối kháng ( mâu thuẫn giữa những quyền lợi không hề điều hòa được trong đời sống xã hội ) và mâu thuẫn không đối kháng .

Mâu thuẫn biện chứng có quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu chỉ là sự khác nhau giữa hai mặt, về sau biến thành sự đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập đi từ chỗ ít gay gắt đến chỗ gay gắt hơn. Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập cũng gắn liền với sự giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn, nhưng đó chỉ là sự giải quyết cục bộ, tạm thời; mâu thuẫn thường xuyên được giải quyết nhưng cũng thường xuyên tái lập lại trên cơ sở mới. Chỉ khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín muồi mới được giải quyết triệt để hoàn toàn.

Sự xử lý mâu thuẫn biện chứng không riêng gì nhờ vào vào trình độ tăng trưởng ( mâu thuẫn chưa chín muồi hay đã chín muồi ) mà còn nhờ vào vào thực chất ( mâu thuẫn đối kháng hay không đối kháng ; mâu thuẫn kinh tế tài chính, mâu thuẫn chính trị hay mâu thuẫn tư tưởng … ) và điều kiện kèm theo sống sót của mâu thuẫn ( Ví dụ, trong chính sách dân chủ hay chế độ độc tài ). Sự xử lý mâu thuẫn là quy trình khách quan phức tạp, không nhờ vào ý chí chủ quan của con người và không được quy về việc xóa bỏ mâu thuẫn hay xóa bỏ một trong hai mặt trái chiều. Mâu thuẫn chỉ được xử lý triệt để, chỉ mất đi đã đạt đến chín muồi. Còn trong những trường hợp khác, sự xử lý mâu thuẫn thường là sự tích hợp hòa giải giữa những mặt trái chiều .Theo quan điểm của phép biện chứng, mâu thuẫn có vai trò là nguồn gốc, động lực của sự hoạt động tăng trưởng. Chính sự ảnh hưởng tác động, đấu tranh giữa những mặt trái chiều bên trong cấu trúc sự vật làm cho sự vật hoạt động, biến hóa không ngừng. Sự đấu tranh của những mặt trái chiều dẫn đến xử lý mâu thuẫn làm cho sự vật tăng trưởng lên một trạng thái mới. Khi mâu thuẫn cơ bản của sự vật được xử lý trọn vẹn thì sẽ có sự biến hóa về chất của sự vật, sự vật mới sửa chữa thay thế sự vật cũ. Trong quy trình đấu tranh của những mặt trái chiều, những gì lỗi thời. lỗi thời bị gạt bỏ nhường chỗ cho sự sinh ra của cái mới, cái văn minh .Quy luật mâu thuẫn biện chứng có vai trò quan trọng nhất trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và được V.I. Lênin coi là “ hạt nhân của phép biện chứng ”. Nghiên cứu quy luật này giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự thân hoạt động, tự thân tăng trưởng của quốc tế khách quan và của tư duy con người, khắc phục quan điểm duy tâm, siêu hình về sự tăng trưởng .

Tài liệu tìm hiểu thêm[sửa]

  • Đỗ Minh Hợp, Lê Hữu Tầng (dịch) (1998). Lịch sử phép biện chứng. Nxb Chính trị Quốc gia
  • Từ điển Bách khoa Việt Nam ;
  • Từ điển triết học do M.M. Rodentan chủ biên ; Философский энциклопедический словарь;
  • C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận