Văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Nguyên: Nhận diện đúng để bảo tồn hiệu quả

 Sinh hoạt thường ngày của đồng bào Ê Đê bên ngôi nhà dài truyền thống (Ảnh Thái Bana) Sinh hoạt thường ngày của đồng bào Ê Đê bên ngôi nhà dài truyền thống (Ảnh Thái Bana)

Nhận diện, chọn lọc và bảo tồn đúng hướng

Trước hết, muốn bảo tồn và phát huy mạng lưới hệ thống di sản văn hóa truyền thống cuội nguồn những dân tộc thiểu số Tây Nguyên, chúng tôi thiết nghĩ phải nhận diện một cách khách quan và rất đầy đủ những giá trị cần được lưu giữ và trao truyền. Trên cơ sở nhận diện mới tinh lọc được những tinh hoa văn hóa để bảo tồn, phát huy và thiết kế xây dựng những giá trị văn hóa mới ship hàng sự tăng trưởng bền vững và kiên cố .Theo đó, khi tìm hiểu và khám phá, nghiên cứu và điều tra, nhận diện một vùng văn hóa hoặc một nền văn hóa nào đó, cần dựa vào hai bộ công cụ quan trọng : Hệ tọa độ ba chiều ( chủ thể văn hóa, khoảng trống văn hóa, thời hạn văn hóa ) và những đặc trưng văn hóa ( tính mạng lưới hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử vẻ vang ). Sự nghiên cứu và điều tra sâu xa này giúp cho việc nhận diện được truyền thống văn hóa tộc người. Từ đó, tránh được việc nói đến văn hóa Tây Nguyên không nói truyền thống chung chung mà phải là truyền thống văn hóa tộc người. Tuy nhiên, nhận diện và khái quát được truyền thống văn hóa tộc người là yếu tố rất là khó khăn vất vả nhưng phải khởi đầu từ những tín hiệu gồm có : Giá trị ý thức, sống sót tương đối vĩnh viễn, có công dụng chi phối những đặc thù khác, có năng lực khu biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác …

Mặt khác, chúng ta cũng cần nhận thức rằng, bất kỳ nền văn hóa nào cũng trải qua quá trình giao lưu, hội nhập. Vì vậy cần đặt những yếu tố truyền thống trên cơ sở hồi cố, truy nguyên và mô tả trong xã hội hiện đại để thấy rõ sự biến đổi có thể theo chiều hướng tiếp biến hoặc theo chiều hướng mai một bản sắc. Nếu theo cách nhìn này, chúng ta có thể luận giải về một số phương diện cơ bản của văn hóa truyền thống của các tộc người Tây Nguyên trong xã hội đương đại, như sau: Tín ngưỡng đa thần của đồng bào gắn liền với chuỗi nghi lễ nông nghiệp; từ đó hình thành một hệ thống lễ hội: Từ lễ cúng Thần Đất, Thần Núi… đến cầu mùa, mừng lúa mới, bỏ mả…

Già làng E Đê gìn giữ bảo vật chiêng cổGià làng Ê Đê gìn giữ bảo vật chiêng cổ (Ảnh Nguyễn Sơn Tùng)Hiện nay, điều kiện kèm theo tự nhiên bị phá vỡ, tập quán mưu sinh biến hóa cùng với sự chi phối của những tôn giáo, những liên hoan truyền thống cuội nguồn phần đông vắng bóng. Thay vào đó là những “ tiệc tùng mới ” do chính quyền sở tại tổ chức triển khai. Ở đó, vẫn có nghi lễ cầu thần, hiến tế, diễn tấu cồng chiêng nhưng ý nghĩa và giá trị niềm tin đã được chuyển dời. Ðiều hành xã hội bằng luật tục trong thiết chế truyền thống là một bộc lộ độc lạ của đồng bào những dân tộc bản địa địa phương Tây Nguyên ; khi chưa có lao lý, công cụ để kiểm soát và điều chỉnh những mối quan hệ xã hội chính là luật tục ( tập quán pháp ). Ðó là một mạng lưới hệ thống văn bản truyền miệng bằng văn vần chế định toàn bộ mọi phương diện của đời sống xã hội và được cả hội đồng triệt để tuân thủ .Hiện nay, nhiều nội dung của luật tục mang tính hủ tục và có độ vênh, thậm chí còn trái với lao lý nhưng vẫn có nhiều nội dung tích cực cần được khai thác. Nghệ thuật diễn xướng và nhạc cụ truyền thống của những tộc người có nhiều biến hóa. Đặc biệt, thẩm mỹ và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng truyền thống vốn được triển khai rất khắt khe từ những bản tấu, nghệ nhân, khoảng trống, thực trạng đến công dụng cơ bản là tế lễ nhưng nay những quy chuẩn mang giá trị truyền thống cuội nguồn đã bị mai một nhiều, đặc biệt quan trọng là mất đi khoảng trống thiêng vốn dĩ. Hát kể sử thi, dân ca, dân nhạc, dân vũ vẫn được duy trì nhưng thiếu linh hồn vì tâm ý, ý thức hội đồng và khoảng trống diễn xướng đổi khác. Kiến trúc dân gian rực rỡ của nhiều tộc người chính là nhà dài. Tuy nhiên lúc bấy giờ mô hình kiến trúc này đã dần vắng bóng và thay vào đó là những thiết chế văn hóa văn minh, mà nhà văn hóa hội đồng là một thí dụ. Ðiều đáng chăm sóc là những thiết chế văn hóa đó lại xa rời truyền thống lịch sử văn hóa tộc người từ vị trí, kiến trúc, trang trí đến công suất …

Trong điều kiện hiện nay, để góp phần bảo tồn và phát huy hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống Tây Nguyên, theo chúng tôi, cần giải quyết một số vấn đề quan trọng như sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cần gắn với việc nghiên cứu kinh tế – xã hội đương đại. Thứ hai, khi chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đời sống xã hội, cần tiếp tục có sự tư vấn của các nhà khoa học. Thứ ba, tránh triển khai các đề án mang tính chủ quan, áp đặt, thiếu khoa học. Thứ tư, cần bảo tồn có chọn lọc, trọng tâm, trọng điểm; bảo tồn phải gắn liền với khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội, tức là bảo tồn động, bảo tồn trong sự phát triển. Thứ năm, các cơ quan Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng, quản lý và huy động các nguồn lực phục vụ cho việc nghiên cứu và phục dựng các giá trị cổ truyền, tránh những sự can thiệp phi chuyên môn…

Tiếng tù và đại ngàn (Ảnh Nguyễn Sơn Tùng)Tiếng tù và đại ngàn (Ảnh Nguyễn Sơn Tùng)

“Phục hồi” niềm tự hào và ngôn ngữ tộc người

Trong thời hạn qua, chúng tôi từng tham gia hai đề tài nghiên cứu và điều tra khoa học : “ Phát huy mặt tích cực của luật tục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng để kiến thiết xây dựng thôn buôn văn hóa ” và “ Nghiên cứu tình hình Nghề thủ công bằng tay của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa phận tỉnh Lâm Đồng, đề xuất kiến nghị giải pháp tăng trưởng ”. Kết quả điều tra và nghiên cứu của hai đề tài trên đã phân phối cho những cấp chính quyền sở tại những luận cứ khoa học quan trọng nhằm mục đích phát huy mặt tích cực của luật tục trong xã hội tân tiến và tăng trưởng nghề bằng tay thủ công, nhưng trên hết vẫn là mục tiêu bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống lịch sử của những dân tộc bản địa Cơ Ho, Mạ, Chu Ru và 1 số ít dân tộc bản địa địa phương khác .

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại: Luật tục vẫn còn nhiều mặt tích cực trong giải quyết các quan hệ dân sự như duy trì văn hóa truyền thống, tranh chấp, từ hôn… Xử lý bằng luật tục có kèm theo hình phạt nhưng luôn hướng đến sự hòa giải và đoàn kết. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, mặt tích cực đó khó có thể phát huy vì: Thiết chế cổ truyền đã bị phá vỡ, vị thế thủ lĩnh tinh thần và vai trò phán xử của già làng đã mờ nhạt; những câu luật tục bằng văn vần truyền miệng đã trở nên khó hiểu và xa lạ đối với thế hệ trẻ; luật pháp Nhà nước đã được chế định và chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào chủ yếu là dệt thổ cẩm, ủ rượu cần, đan lát, rèn, đúc nhẫn bạc, làm gốm… Sản phẩm của các nghề này chứa một hàm lượng văn hóa tộc người rất cao nhưng hiện nay đang tồn tại lay lắt, thậm chí có một số nghề đã mất hẳn. Sự mai một đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do sản phẩm của nghề thủ công của đồng bào chưa phải là hàng hóa (chỉ để đổi chác trong buôn làng), nguồn nguyên liệu khan hiếm, kỹ thuật chế tác giản đơn, ý thức học nghề và truyền nghề không cao, sự cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp…

Từ các kết quả khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi cũng đã xác định một số nguyên nhân dẫn đến sự mai một, phai nhạt các giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có hệ thống tri thức bản địa quý giá. Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là sự chi phối của quy luật phát triển của lịch sử – văn hóa; sự thay đổi của môi trường tự nhiên, xã hội; vấn đề bản lĩnh văn hóa trong việc xử lý các yếu tố ngoại lai và trách nhiệm của các cơ quan quản lý bởi cách làm hời hợt và áp đặt. Sự biến đổi cũng dẫn đến ba nguy cơ sau: Làm biến mất bản sắc văn hóa tộc người; con người Tây Nguyên sẽ mất điểm tựa văn hóa, từ đó dẫn đến xa rời cộng đồng, mất phương hướng tự điều chỉnh và tự giáo dục; phá vỡ tính ổn định và phát triển bền vững của xã hội…

Tác giả (đứng thứ 2 từ trái qua) trong một chuyến điền dã tại vùng đồng bào dân tộc MạTác giả (đứng thứ 2 từ trái qua) trong một chuyến điền dã tại vùng đồng bào dân tộc Mạ (Lâm Đồng)

Chúng ta cũng nhận thức rằng, tiếng nói là biểu hiện sinh động và mạnh mẽ nhất của bản sắc văn hóa tộc người, nhưng hiện nay, ở cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, hiện tượng quên dần tiếng mẹ đẻ đang diễn ra khá phổ biến ở lớp trẻ. Biểu hiện rõ nhất là vốn từ tiếng mẹ đẻ của họ nghèo nàn nên thường phải mượn từ tiếng Việt thay thế. Theo ghi nhận của chúng tôi, còn rất ít bạn trẻ nhớ và sử dụng được những từ thuộc về văn hóa cổ truyền. Nguyên nhân có thể do môi trường, điều kiện giao tiếp và thực hành tiếng mẹ đẻ của thế hệ trẻ ngày càng ít đi, từ đó, họ hình thành tâm lý ngại dùng. Ðiều này càng làm cho họ phai nhạt niềm tự hào dân tộc, dần mất đi tâm hồn và tính cách dân tộc, xa rời những giá trị cơ bản của văn hóa tộc người. Trong quá trình tham gia công việc giảng dạy tiếng đồng bào Cơ Ho, Mạ cho cán bộ, công chức người Kinh đang công tác trong vùng dân tộc, chúng tôi cũng khích lệ họ học để giao tiếp với đồng bào, yêu thêm con người và văn hóa của đồng bào. Đồng thời, đó cũng là cách tạo thêm cảm hứng để đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là những người trẻ, biết trân trọng hơn ngôn ngữ của chính họ và cố gắng bảo tồn và phát huy.

Cũng đã có những tín hiệu vui, thời hạn gần đây, chuyện hơi có vẻ như “ ngược dòng ” là từng có một vài sinh viên người dân tộc thiểu số đề xuất chúng tôi dạy thêm cho họ ngôn từ mẹ đẻ. Có người thấy “ lạ ”, nhưng chúng tôi cho đó là hiện tượng kỳ lạ tất yếu của một lớp người trẻ biết yêu và tha thiết bảo tồn ngôn từ của tổ tiên họ. Bởi, như trên đã nói, thế hệ trẻ đang bị mất dần khoảng trống tiếp xúc và điều kiện kèm theo thực hành thực tế nên họ lúng túng, khô cứng và thiếu linh hồn khi dùng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó, đại đa số người trẻ không biết viết, không biết đọc, tức là mù chữ ngôn ngữ tộc người nên quy trình quên tiếng mẹ đẻ càng diễn ra một cách nhanh gọn hơn. Câu chuyện có vẻ như “ ngược dòng ” này lại phản ánh rất đúng tình hình lúc bấy giờ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ hiện tượng kỳ lạ này, chúng tôi thiết nghĩ, có lẽ rằng, phải mở màn sự nghiệp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống bằng việc thôi thúc bảo tồn và phát huy ngôn từ những dân tộc bản địa địa phương Tây Nguyên. Tiếng nói của đồng bào vọng âm từ quá khứ, liên kết bao thế hệ, sẽ là những thanh âm quan trọng nhất cất lên niềm tự hào tộc người. Đó là niềm tự hào chính đáng, rất đáng trân trọng và cần được bảo vệ …

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận