Những đặc điểm của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam

Trong hội đồng quả đât, bất kể chủng tộc nào, có niềm tin độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử vẻ vang đấu tranh lâu dài hơn thì chủng tộc đó nhất định có phát minh sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi thực trạng địa lý, với những điều kiện kèm theo thực tiễn để tự cường, sống sót và tăng trưởng. Dân tộc Nước Ta là một chủng tộc có ngôn từ riêng không liên quan gì đến nhau thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc trưng, siêu việt và nền văn hóa này có năng lực chuyển hóa, dung hợp tinh ba của toàn bộ nền văn hóa trái đất biến thành vật liệu sống và ý nghĩa sự sống tu dưỡng cho sinh mệnh dân tộc bản địa mang đặc thù Rồng Tiên nảy nở tăng trưởng và vĩnh cửu bất diệt trải dài lịch sử vẻ vang hơn bốn ngàn năm v

Đặc tính Rồng Tiên, theo “Hai ngàn năm Việt Nam và Phật giáo” của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: “Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu”. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng tộc Việt Nam), dân tộc Việt Nam đã tiếp xúc, hấp thụ và Việt hóa những tinh hoa của các trào lưu văn hóa Đông Tây qua các tôn giáo mang vào như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thiên Chúa giáo..v..v…. để bồi dưỡng cho nền văn hóa độc lập, tự chủ, nhân bản, bất khuất của Rồng Tiên.

I. Sự quan hệ giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa Việt tộc

Trong suốt hai ngàn năm lịch sử vẻ vang, đạo Phật luôn luôn xuất hiện trong lòng dân tộc bản địa Nước Ta khắp nẻo đường quốc gia và gắn bó với dân tộc bản địa Nước Ta trong mọi thăng trầm vinh nhục. Có thể nói văn hóa Phật giáo suốt dòng lịch sử dân tộc đã hòa mình và hợp nhất với nền văn hóa Việt Tộc trở thành một toàn diện và tổng thể bất khả phân ly qua ngôn từ, qua tư tưởng, được biểu lộ nơi mọi sự hoạt động và sinh hoạt xã hội, nơi nếp sống tâm linh. Hai nền văn hóa hợp nhất này đã bộc lộ rõ nét trong phong tục tập quán, trong văn học tầm trung cũng như trong văn học bác học. Danh từ trình độ của Phật giáo như : trí tuệ, từ bi, thiện ác, nhân quả, nghiệp báo .. v .. v …. nếu tách rời ra khỏi nền văn học Nước Ta thì văn hóa Việt Tộc trở nên khô cằn không còn sức sống tinh anh nữa. Những chứng tích về văn hóa Phật giáo hòa đồng trong nền văn hóa Việt Tộc như sau :

1. Những chứng tích về tục ngữ

Tục ngữ là ngôn từ dân gian mà người tầm trung Nước Ta thường sử dụng nhằm mục đích để trao đổi tư tưởng cho nhau. Những tư tưởng trong ngôn từ dân gian được gọi là văn hóa tầm trung.

Những danh từ chuyên môn của Phật giáo đã biến thành văn hóa Việt Tộc qua ngôn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được trao truyền cho nhau trong dân gian mà chúng ta đã thấy tản mát nơi văn học bình dân. Chúng tôi xin đem ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá trị sự hội nhập của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Tộc, điển hình như những từ ngữ “Tội nghiệp quá”, “Hằng hà sa số”, “Ta bà thế giới”, “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng”,.v.v…

a) Người bình dân mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót và thốt lên câu: “Tội nghiệp quá”. Hai chữ “tội nghiệp” là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Cụm từ “Tội nghiệp quá!” là câu nói của người bình dân hàm súc hai ý nghĩa: một là quan tòa định tội và hai là tâm tình chia sẻ.

Quan tòa định tội, nghĩa là người này đã gây nghiệp tội ác quá nặng cho nên giờ đây phải chịu quả báo khổ đau không thể trốn tránh nên phán quyết câu: “Tội nghiệp quá!” lên người tội lỗi kia. Tâm tình chia sẻ, nghĩa là thấy họ bị hoạn nạn đau khổ thì bộc lộ tâm tình thương hại thốt lên câu: “Tội nghiệp quá!” để san sớt phần nào niềm đau khổ của họ.

b) Người bình dân muốn diễn tả số lượng người ta quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều không đếm được thì liền dùng câu: “Hằng hà sa số” để tỏ bày. “Hằng hà sa số” là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông Hằng. Sông Hằng (sông Gange) là chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. 

Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng quốc tế là sông Ấn ( Indus ) và sông Hằng ( Gange ) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc bản địa Ấn Độ tăng trưởng và sống sót. Trong những kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ Hằng hà sa số nhằm mục đích để nói lên số lượng quá nhiều không hề đếm được như đã trình diễn ở trên.

c) Khi thấy một số người đi lang thang khắp nơi, sống rày đây mai đó, không chịu dừng chân một chỗ nào lâu dài, người bình dân thường gắn cho họ một ngôn từ đơn giản là kẻ sống “Ta bà thế giới”. “Ta bà thế giới” là ngôn từ chuyên môn của Phật giáo nhằm chỉ cho thế giới tổng hợp bao gồm cả năm cõi mà năm loại chúng sinh sống chung lẫn lộn nhau và sống quan hệ với nhau, như thế giới Địa Ngục, thế giới Ngạ Quỷ, thế giới Súc Sinh, thế giới loài Người, thế giới các cõi Trời và những thế giới nói trên có một danh từ chung là Dục Giới. Thế giới Ta Bà hay Dục Giới là chỉ cho những cõi mà đức Phật Thích Ca làm giáo chủ và Ngài thường xuyên qua lại những cõi đó để hóa độ chúng sinh. Ngôn từ “Ta bà thế giới” của Phật giáo đã được Việt Nam tiếp nhận trở thành văn hóa Việt Tộc.

d) Trong xóm làng, có một số người không học thức, không có trình độ văn hóa, không biết đua chen với đời, cứ sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Đối với những hạng này người bình dân Việt Nam thường dùng ngôn từ “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” để chỉ sự may mắn nói trên của họ. Hai chữ lù khù là chỉ cho hạng người khờ dạy, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời. Hai chữ ông Cù, gọi cho đủ là ông Cù Đàm; hai chữ Cù Đàm dịch âm từ chữ Phạn là Gautama, tức là chỉ cho dòng họ của Phật Thích Ca. “Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” nghĩa là những hạng này sở dĩ được may mắn là nhờ đức Phật Thích Ca độ mạng.

Còn nhiều chứng tích khác về tục ngữ đã được hàm chứa thâm thúy tinh thần Phật giáo và những tục ngữ đó hiện đang tàng trử trong kho văn học Nước Ta mà ở đây tất cả chúng ta chưa có thì giờ mang ra khai thác để làm nhiều mẫu mã cho nền văn hóa Việt Tộc. Chúng ta kỳ vọng một ngày nào đó cố gắng nỗ lực triển khai khu công trình khai thác văn hóa Việt Tộc thêm được sáng tỏ những tư tưởng thâm sâu của Phật giáo đang ẩn tàng trong nền văn học Nước Ta mà những tiền nhân đã dày công thiết kế xây dựng.

2. Những chứng tích về ca dao

Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ tâm hồn mộc mạc đầy tình cảm của người tầm trung Nước Ta được lưu truyền trong dân gian. Những ca dao này mang đặc thù tư tưởng, tình cảm của dân tộc bản địa nhằm mục đích diễn đạt luân lý, đạo đức, tình ý, phong tục, tập quán, trạng thái vạn vật thiên nhiên, đặc tính xã hội của thời bấy giờ. Tư tưởng Phật giáo xâm nhập vào ca dao Nước Ta tự khi nào và tản mát khắp tâm hồn của người tầm trung, không có ranh giới thời hạn cũng như không có khu biệt khoảng trống. Điển hình như những bài ca dao sau đây đượm nhuần tư tưởng của Phật giáo :

a ) Người Nước Ta lúc bấy giờ rất tin cậy triết lý thiện ác nghiệp báo, nhân quả, luân hồi, và ý thức được giá trị nguyên tắc duyên sinh ( quan hệ với nhau trong sự sống sót ) của Phật giáo. Để bộc lộ ý thức đùm bọc lẫn nhau, họ thường hát lên những câu hò, những lời ru .. v .. v …. nhằm mục đích tỉnh thức cho nhau nên tránh dữ làm lành, mong mỏi đời sống được niềm hạnh phúc an vui truyền kiếp, đồng thời kỳ vọng con cháu sau này nương nhờ ân huệ đó tiến thân được lạc nghiệp, vì vậy mới ngâm lên hai câu ca dao :

“ Ai ơi ! Hãy ở cho lành, Kiếp này không được, để dành kiếp sau. ”

Hai câu ca dao này hàm súc triết lý của đạo Phật rất sâu sắc mà người bình dân thời xưa đã được tiêu hóa trong tâm hồn thành chất liệu sống, ngoài vấn đề tiêu biểu đạo đức của Phật giáo là Ở cho lành và lại còn thể hiện tư tưởng nhân quả luân hồi một cách thâm diệu qua hai câu Kiếp nàyKiếp sau. Họ căn cứ nơi dòng thời gian trải dài từ vô thỉ (trừ vô cực) cho đến vô chung (cọng vô cực) xuyên qua ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và vị lai, mà tin tưởng rằng sẽ có kiếp sau vì có kiếp này, cũng như tin tưởng rằng sẽ có ngày mai vì có ngày hôm nay, mặc dù kiếp sau và ngày mai chưa bao giờ đến với họ. 

Vì tin yêu những lý lẽ đó, họ mới khuyên nhau một cách ngọt ngào tha thiết đậm đà bằng hai câu ca dao nêu trên mang theo ý nghĩa tránh dữ làm lành và những điều lành đó tuy rằng không được thụ hưởng ở kiếp này nhưng rồi sẽ được thụ hưởng ở kiếp sau chẳng khi nào biến mất.

b ) Theo lý vô thường của Phật giáo, cuộc sống là giả tạo, kiếp sống của con người là duyên sinh trọn vẹn không có thực thể, không được vĩnh cửu. Sự giả tạo của cuộc sống cũng như sự tạm bợ của kiếp người chẳng khác nào bọt nước, mây trôi, ngựa qua hành lang cửa số, có đó rồi mất đó, không định trước được ngày mai. Cuộc đời giả tạo cũng như kiếp người tạm bợ là nguyên tắc đích thực không một ai thoát khỏi và cũng không một ai chối bỏ được. Người tầm trung thời xưa ý niệm được nguyên tắc vô thường, cuộc sống giả tạo này một cách tinh tường và tâm hồn họ thể hiện lên rất thâm thiết qua hai câu ca dao sau đây để tỉnh thức cho nhau với lời khuyên nhiệt tình, bảo rằng đừng đua chen theo lợi danh giả tạo của cuộc sống mà quên hẳn đi giá trị của con người ; hai câu ca dao đó như sau :

“ Cuộc đời đâu khác loài hoa, Sớm còn tối mất nở ra lại tàn ”

Hai câu ca dao trên cho chúng ta nhận thức được người bình dân thời xưa, họ đã thâm hiểu sâu xa lý vô thường của Phật giáo, cho nên khéo dùng hình ảnh sớm nở tối tàn của loài hoa để nói lên một cách chính xác về giá trị tạm bợ của kiếp người cũng như sự giả tạo của cuộc đời. Con người hiện hữu thật rất đúng với ý nghĩa là “Sống ngày nay dễ biết ngày mai, khoảng đường sinh tử nào hay tỏ tường.”

c ) Thời xưa người tầm trung thì rất tin yêu về đạo đức hơn kĩ năng. Họ cảm thấy những kẻ có kĩ năng xuất chúng nhưng không tránh khỏi những tai ương đau khổ của cuộc sống mang đến ; còn những kẻ không có chút năng lực nào mà lại gặp được nhiều suôn sẻ giật mình, do đó họ mới thốt lên câu : “ Có đức không sức mà ăn ”. Từ đó họ lấy đạo đức làm mục tiêu cho cuộc sống và cổ vũ ai nấy đều phải lấy đạo đức để tô bồi cho nếp sống làm người, thế nên họ mới hát lên hai câu ca dao sau đây để cảnh tỉnh dân gian :

“ Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm ”

Thần Phù theo “ Nước Ta Tự Điển ”, là tên của con sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Tỉnh Ninh Bình đổ ra vịnh Bắc Việt. Cửa sông này về sau bị cát bồi thành đất liền và cuối đời nhà Lê dân cư lập thành một Tổng, gọi là Tổng Thần Phù. Người dân lúc bấy giờ thường chèo thuyền qua lại trên cửa sông Thần Phù này, có người thì bị chìm chết và có người thì được thoát nạn.

Qua những thực trạng đó, người dân mới mượn hình ảnh cửa Thần Phù để biểu tượng cho cửa sinh tử; hai chữ “Lênh đênh” là biểu tượng cho sự luân hồi của sinh tử; chữ “Nổi” là biểu tượng cho sự giải thoát lên cõi Niết Bàn; chữ “Chìm” là biểu tượng cho sự đọa lạc vào cõi Địa Ngục; hai chữ “Khéo tu” là chỉ cho những kẻ giác ngộ, biết chuyên cần tu tập đạo đức cho mình. Hai câu ca dao trên đây là gợi lên những hình ảnh có liên quan với đạo đức để cảnh tỉnh dân gian chuyên cần tu tập tránh dữ làm lành giúp cho đời sống được an lạc và giải thoát qua tinh thần Phật giáo.

Văn hóa Phật giáo hoàn toàn có thể nói đã hòa mình sâu xa và thoáng đãng, biến thành văn hóa Việt Tộc, được thấy tản mát qua những câu ca dao dưới mọi hình thức, trong mọi trạng huống, có chỗ thì thể hiện đơn cử và có nơi thì gợi ý tâm tình để nói lên ý nghĩa nào đó. Với nội dung trong bài này, tất cả chúng ta chỉ đem một vài nét ca dao để dẫn chứng văn hóa Phật giáo hiện hữu trong văn hóa Việt Tộc mà ở đây không hề đem ra lý giải hàng loạt những tư tưởng sâu xa của Phật giáo đã tiềm ẩn trong nền văn học nói trên.

3. Những chứng tích về văn học bác học

Nền văn học bác học của dân tộc bản địa Nước Ta đã được ảnh hưởng tác động bởi nền văn hóa Phật giáo, hoàn toàn có thể tạm lấy móc câu khởi điểm từ nền văn học chữ Nôm và tiếp đến nền văn học chữ Hán trở về sau. Đứng trên nghành nghề dịch vụ nền văn học bác học, văn hóa Phật giáo đã dung hòa vào văn hóa Việt Tộc vô cùng nhiều mẫu mã. Cụ thể như tác phẩm “ Cung oán ngâm khúc ” của Nguyễn Gia Thiều, “ Truyện Kiều ” của Nguyễn Du, cho đến “ Văn học Lý Trần ” đã nói lên một cách hùng hồn sự góp phần rất lớn của văn hóa Phật giáo cho nền văn hóa Việt Tộc.

a ) Trước hết tất cả chúng ta duyệt xét “ Cung oán ngâm khúc ” của Nguyễn Gia Thiều. Thi hào Nguyễn Gia Thiều trong “ Cung oán ngâm khúc ” đã mượn tư tưởng Phật giáo để miêu tả sự si mê của con người không biết cuộc sống là vô thường, không biết kiếp sống là giả tạo như giấc mộng Nam Kha mà cứ mãi đam mê chạy theo bả vẻ vang mùi phong phú bẩn thiểu hôi tanh giống như con thiêu thân trước ngọn đèn dầu, rốt cuộc rồi chỉ còn lại hai bàn tay không. Điều đó được thấy trong đoạn thơ dưới đây :

“ Mùi phong phú dữ làng xa mã, Bả vinh quang lừa gã công khanh. Giấc Nam Kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. ”

Chẳng những thế, mấy đoạn thơ sau đây của thi hào Nguyễn Gia Thiều còn diễn đạt thân phận khổ đau của những hạng người chỉ biết chạy theo danh lợi phù du giả tạo, suốt đời trút hết tiềm năng nhựa sống cho bả danh hư mùi phong phú, rốt cuộc thân phận của mình như bọt nước, như mây trôi chẳng được chút gì, để rồi vóc hình của mình trở nên đầu bạc da nhăn, bùn pha sắc xám, chỉ chuốc lấy thực trạng phũ phàng, vẫn mang đau khổ chồng chất :

“ Gót danh lợi bùn pha sắc xám, Mặt phong trần nắng rám mùi dâu, Nghĩ thân phù thế mà đau, Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê ”

“ Trời bắt phong trần phải phong trần b ) Kế đến thi hào Nguyễn Du với tác phẩm “ Đoạn trường tân thanh ”, thi hào địa thế căn cứ theo tác phẩm “ Kim Vân Kiều truyện ” của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu sáng tác thành thi phẩm để gửi gắm tâm sự của mình. Thanh Tâm Tài Nhân thì địa thế căn cứ theo học thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo tạo dựng tác phẩm “ Kim Vân Kiều truyện ”. Học thuyết Thiên Mệnh trong “ Kim Vân Kiều truyện ” là :

 Muốn thanh cao mới được phần thanh cao”

Nghĩa là Trời đã định sẵn số mệnh của nàng Kiều là phải chết dưới sông Tiền Đường để chấm hết cuộc sống hồng nhan bạc mệnh.

Ngược lại thi hào Nguyễn Du thì chống đối lại học thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo mà Thanh Tâm Tài Nhân tin tưởng, bằng cách nương theo học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo của Phật giáo xây dựng nên tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo trong “Đoạn trường tân thanh” chính là: 

“ Đã mang lấy nghiệp vào thân Chớ đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn bởi tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ”

Học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo đã sửa chữa thay thế học thuyết Thiên Mệnh ở chỗ là không cho nàng Kiều kết thúc cuộc sống bạc mệnh dưới sông Tiền Đường mà phải được sống để tái hợp với Kim Trọng qua sự cứu vớt của sư Giác Duyên. Theo học thuyết Nhân Quả Nghiệp Báo, mối tình đầu giữa nàng Kiều và Kim Trọng chính là Nghiệp Nhân và nàng Kiều được tái hợp với Kim Trọng chính là Nghiệp Quả mà sư Giác Duyên là hình tượng cho học thuyết của Phật giáo làm gạch nối trợ duyên.

Đại ý diễn biến của hai tác phẩm vừa trình diễn trên nhằm mục đích diễn đạt những tư tưởng sai biệt của hai học thuyết Phật giáo và Nho giáo ; những tư tưởng của hai học thuyết này qua diễn biến của hai tác phẩm thì luôn luôn nghịch biến với nhau, đồng thời cùng nhau viễn tiến trên hai đường thẳng song song không khi nào gặp nhau. Điều mưu trí nhất của thi hào Nguyễn Du ở chỗ, ngoài những áng văn chương linh động ra, thi hào còn khôn khéo quy đổi từ từ diễn biến đã được thiết kế xây dựng trên học thuyết Thiên Mệnh lần lần biến sang học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo mà không thấy chút kẻ hở khuyết điểm nào, do đó những đọc giả mỗi khi điều tra và nghiên cứu đến tác phẩm “ Đoạn trường tân thanh ” nếu không chú ý thì chẳng thấy được những chỗ độc lạ đó.

Đọc văn cầu lý, tất cả chúng ta nhờ nhìn thấy được sự dụng ý độc lạ của thi hào Nguyễn Du trong “ Đoạn trường tân thanh ” thì vô cùng thán phục và tôn vinh thi hào Nguyễn Du với danh nghĩa xứng danh là một Thi Hào và cũng là một Văn Hào đáng giá của thời đại.

c ) Nền “ Văn học Lý Trần ” là những chứng tích hùng hồn nhất về sự góp phần vĩ đại của Phật giáo cho nền văn hóa Việt Tộc và những chứng tích này nói lên được sự tăng trưởng cao độ của văn hóa Phật giáo qua văn hóa Việt Tộc. Dù bất kỳ thời đại nào, hoặc thương hay ghét cũng không hề chối bỏ được sự góp phần này của Phật giáo trong sự tô điểm phồn vinh cho nền văn hóa Việt Tộc trên nghành nghề dịch vụ độc lập và tự trị. Người nào nếu như có ý bóp méo thực sự về nền văn học Lý Trần thì người đó vô tình đã chà đạp lên nền văn hóa Việt Tộc một cách trắng trợn và người đó cũng là kẻ phản bội dân tộc bản địa Nước Ta.

“ Văn học Lý Trần ” đã được những học giả nổi tiếng bình giảng qua nhiều tác phẩm và ở đây với nội dung của bài tham luận hạn hẹp này tất cả chúng ta không cần phải đề cập đến cho dư thừa mà cũng không có điều kiện kèm theo và thời hạn để khai triển tận cùng những tư tưởng sâu xa trong “ Văn học Lý Trần ” ngỏ hầu nói lên giá trị văn hóa Phật giáo đã hội nhập súc tích vào nền văn hóa Việt Tộc. Chúng ta kỳ vọng một ngày nào đó, trong thời hạn thuận tiện sẽ trình diễn riêng không liên quan gì đến nhau với chủ đề “ Những tư tưởng Phật giáo trong nền văn học Lý Trần ” thì sẽ góp sức đến quý đọc giả bốn phương những nhận xét mới về giá trị độc lạ của Phật giáo trong văn hóa Việt Tộc.

II. Sự đóng góp của Phật giáo cho nền văn hóa Việt tộc

Trong tất cả văn hóa của các tôn giáo, văn hóa Phật giáo đối với nền văn hóa Việt Tộc rất hãnh diện là không có điểm nào xấu xa tội lỗi đã ghi đậm trong lịch sử Việt Nam, nghĩa là văn hóa Phật giáo chưa bao giờ làm tay sai cho bất cứ thế lực vô minh ngoại lai nào chà đạp lên nền văn hóa Việt Tộc, không dựa theo bạo lực phi nhân xây dựng trên xương máu của dân tộc Việt Nam mà còn đóng góp rất lớn cho nền văn hóa Việt Tộc trải dài suốt hai ngàn năm lịch sử kể từ khi lập quốc.

Nguyên do Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam trên tình thương và hòa bình, đã chung sống với dân tộc Việt Nam trong sự bao dung, cùng chia sẻ những thăng trầm vinh nhục với dân tộc Việt Nam trải dài hơn hai ngàn năm lịch sử. Dân tộc Việt Nam rất cần sự có mặt của Phật giáo như cần hơi thở, cần cơm ăn áo mặc. Muốn chứng minh những điều nói trên, chúng ta hãy duyệt xét lại sự có mặt cũng như trưởng thành của Phật giáo trên đất nước Việt Nam.

A. Sự có mặt của Phật giáo đất nước Việt Nam

Một số người cho rằng, Phật giáo xuất hiện tiên phong trên quốc gia Nước Ta là do Phật giáo Trung Hoa truyền vào qua những thời đại thống trị của Trung Quốc. Nguyên vì họ thấy nghi lễ của Phật giáo Nước Ta giống như nghi lễ của Phật giáo Nước Trung Hoa và lễ phục cũng như cách thờ tự của Phật giáo Nước Ta không khác cho mấy về lễ phục và cách thờ tự của Phật giáo Trung Quốc. Họ hiểu như thế là trọn vẹn sai lầm đáng tiếc và cạn cợt về nguồn gốc lịch sử dân tộc Nước Ta. Một số người có ý đồ muốn chối bỏ sự tác động ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trong Phật giáo Nước Ta, nhưng họ lại bị ảnh hưởng tác động văn hóa ngoại lai khác và văn hóa đó trọn vẹn lạ lẫm không có chút nào quan hệ với văn hóa Việt Tộc.

Phải hiểu rằng theo nguồn gốc giống nòi, chủng tộc Nước Ta từ thuở thời xưa là giống Viêm Tộc một trong hội đồng đa chủng của nước Trung Quốc, bốn ngàn năm trước kỷ nguyên, chủng tộc Viêm Tộc thời đó đã lập quốc ở Động Đình Hồ thuộc hạ lưu sông Dương Tử nằm giữa nước Tàu với tên tuổi là Bách Việt. Chủng tộc Viêm Tộc phát nguồn từ giống Mésopotamie và Turkestan ( “ Lịch sử văn minh Trung Quốc ” của Will Dutant do Nguyễn Hiến Lê dịch, Văn Nghệ xuất bản, trang 19 – 20 ). Đặc tính chủng tộc Viêm Tộc hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng rất nhiều đặc tính của hội đồng đa chủng nước Trung Quốc. Cho nên sự mưu trí của dân tộc bản địa Nước Ta không thua sự mưu trí của người Nước Trung Hoa.

Qua những dữ kiện đó, tất cả chúng ta đừng kinh ngạc khi thấy sự hoạt động và sinh hoạt của dân tộc bản địa Nước Ta tại sao lại giống với sự hoạt động và sinh hoạt của người Trung Quốc về mọi nghành nghề dịch vụ như tình cảm, ăn mặc, tín ngưỡng .. v .. v …. đấy là sắc thái văn hóa tổng hợp của Việt Tộc. Riêng về Phật giáo, văn hóa của Phật giáo Nước Ta cũng là một loại văn hóa tổng hợp của hai nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa. Muốn biết sự tổng hợp như thế nào của hai nền văn hóa Ấn Hoa, tất cả chúng ta trước hết phải khảo sát thời hạn sự xuất hiện của Phật giáo Ấn Độ trên quốc gia Nước Ta và trên quốc gia Nước Trung Hoa để ấn định giá trị. Thời gian xuất hiện của Phật giáo Ấn Độ trên hai quốc gia này được nhận định và đánh giá như sau :

1. Theo sử liệu, Phật giáo có mặt trên đất nước Việt Nam so với Trung Quốc kể từ đầu kỷ nguyên Tây Lịch trở về trước thì cách xa khoảng hơn 300 năm. Theo quyển “Đạo Phật và dòng sử Việt” của Hòa thượng Đức Nhuận, trang 18 – 19 ghi: Phật giáo phát nguồn từ Ấn Độ đầu tiên được truyền đến Việt Nam vào khoảng 300 năm trước Tây Lịch do phái đoàn của vua A Dục tổ chức và hai vị sư cầm đầu phái đoàn tên là Soma và Uttara. Tại Đồ Sơn thuộc Giao Chỉ, cách Hải Phòng 12 cây số, có một bảo tháp tên là A Dục Vương (Asoka) do hai nhà sư Ấn Độ của phái đoàn nói trên xây dựng nên.

Về sau bảo tháp này bị hư hoại và đến khoảng giữa thế kỷ XI Tây Lịch, vua Lý Thánh Tông lại xây một bảo tháp khác nơi bảo tháp nói trên lấy tên là Tháp Tường Long, nhưng ngày nay ngôi bảo tháp Tường Long được cải biến thành ngôi chùa mang nhãn hiệu là Chùa Tường Long. Tiểu sử về hai ngọn bảo tháp A Dục Vương và Tường Long còn để lại một bài thơ với nhan đề là “Tháp sơn hoài cổ” và bài thơ này tả cảnh về hai bảo tháp nói trên. Bài thơ đó được dịch nghĩa như sau:

“Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời,

Vua Dục đi vua sau cũng đổ rồi ! Chuông nặng ngàn cân kêu đáy nước,

Tháp cao chín bậc hóa thành vôi.

Chú tiều dựng củi nằm đo đá, Trẻ mục lùa trâu vội xuống đồi. Lên núi muốn cùng Sư giảng kệ, Chuông đâu mà đánh thử một hồi ? ! ”

Cũng trong “ Đạo Phật và dòng sử Việt ” của Hòa thượng Đức Nhuận, trang 20 – 21 ghi rằng : Vào khoảng chừng 435 trước Tây Lịch, phò mã Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung Mỵ Nương, cháu của Hùng Vương đời thứ 3, thọ giáo với sư Phật Quang ( Sư Bần ) tại chùa Hang nơi Đồ Sơn thuộc cửa biển của sông Tỉnh Thái Bình, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay tỉnh Hưng Yên có đền thờ Chữ Đồng Tử bên bờ sông Tỉnh Thái Bình.

Trong thời hạn từ 300 năm trước Tây Lịch vừa kể trên, Trung Quốc trọn vẹn chưa biết gì về Phật giáo cả. Mãi đến năm 67 Tây Lịch, Trung Quốc mới mở màn có Phật giáo với những tác phẩm Tứ Thập Nhị Chương, Thập Địa Đoạn Kết Kinh, Pháp Hải Tạng Kinh, Phật Bản Hạnh Kinh, Phật Bản Sinh Kinh, Nhị Bách Lục Thập Giới Hợp Dị do hai vị sư Ma Đằng và Trúc Pháp Lan người Tây Vực dịch ra chữ Hán tại chùa Bạch Mã. Hai vị sư này do Hán Linh Đế thỉnh từ Tây Vực sang để truyền bá Phật giáo tại nước này.

2. Song song với Phật giáo Trung Quốc vào đầu kỷ nguyên Tây Lịch, theo “ Nước Ta Phật giáo sử luận ” của Nguyễn Lang, quyển I, trang 12 – 13 : Phật giáo Nước Ta đã tăng trưởng vững mạnh tại Giao Châu với một TT gọi là TT Luy Lâu, lúc bấy giờ TT này thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Thành Phố Bắc Ninh. Trung tâm Luy Lâu được những nhà sư Ấn Độ từ nơi hai TT Amaravati và Nagarjunakonda thuộc Phật giáo Đại thừa đến đây kiến thiết xây dựng và TT Luy Lâu này đã đào tạo và giảng dạy rất nhiều nhân tài lỗi lạc. Vào khoảng chừng thế kỷ thứ II Tây Lịch, một nhân vật nổi tiếng xuất thân từ TT Luy Lâu chính là Mâu Bác với tác phẩm “ Lý hoặc Luận ” mang đặc thù tư tưởng Đại thừa và tác phẩm này có giá trị tuyệt đỉnh công phu, lý luận sắc bén, phát huy giáo nghĩa cao thâm của Phật giáo.

Bên Trung Quốc, sau Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, khoảng chừng thời hạn 80 năm sau Tây Lịch vào thời đại Hậu Hán, có ngài An Thế Cao và ngài Chi Lâu Ca Sấm từ Ấn Độ sang Trung Quốc liên tục truyền bá Phật giáo tại nước này ( “ Lịch sử Phật giáo Trung Quốc ” của Thích Thanh Kiểm, trang 7 và 8 ).

3. Cũng theo “ Nước Ta Phật giáo sử luận ” của Nguyễn Lang, trang 73 và 76 : Vào khoảng chừng thế kỷ thứ III Tây Lịch, Thiền tông Nước Ta có trước Thiền tông Trung Quốc và người tiên phong sáng lập Thiền tông Nước Ta là Thiền sư Khương Tăng Hội với quyển kinh An Ban Thủ Ý làm mục tiêu. Thiền sư Khương Tăng Hội xuất thân từ TT Luy Lâu. Trong thời hạn này, Trung Quốc chỉ có Thiền học mà chưa có Thiền tông do nhóm người của ngài An Thế Cao tiên phong phát huy. Mãi đến thế kỷ thứ VII Tây Lịch, Trung Quốc mới có Thiền tông Open do Bồ Đề Đạt Ma chủ trương.

4. Có một số ít người lầm lẫn rất lớn cho rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi là đệ tử của Tăng Xán và những người ý niệm như thế là chịu tác động ảnh hưởng sâu đậm theo lối nhận thức của người Trung Quốc thống trị ; người Trung Quốc thống trị luôn luôn chủ trương rằng toàn bộ phong tục, tập quán, .. v .. v …. kể cả văn hóa Phật giáo Nước Ta đều do Tàu bang ân huệ cho. Trên trong thực tiễn Tỳ Ni Đa Lưu Chi không phải là đệ tử của Tăng Xán, mặc dầu hai vị có yết kiến với nhau. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người của Mật tông Ấn Độ với ba quyển kinh Tượng Đầu, Báo Nghiệp Sai Biệt và Tổng Trì, lẽ dĩ nhiên trong Mật tông cũng có chiêu thức thiền định, nhưng chiêu thức thiền định của họ theo kiểu Mật giáo.

Còn Tăng Xán là vị tổ thứ 3 của Thiền tông Trung Quốc và Thiền tông Trung Quốc thì thuộc về loại cực đoan, đả phá toàn bộ những tông phái khác kể cả Mật tông, vì họ chủ trương : “ Ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng. ” và trên thực tiễn họ để lại rất nhiều kinh sách, rất nhiều sử liệu về thiền phái mà trong đó không có chút nào Ly cả. Cho nên trong nước Trung Quốc lúc bấy giờ, Thiền tông và Mật tông không khi nào gặp nhau và cũng không hề sống chung với nhau, mặc dầu hai vị có tìm hiểu thêm với nhau. “ Nước Ta Phật giáo sử luận ” của Nguyễn Lang, quyển I, trang 111 ghi rằng : “ Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi gặp tổ Tăng Xán, thấy phong độ phi phàm, liền chấp tay ba lần, tổ vẫn ngồi yên không nói năng gì. Trong lúc đứng chờ đón suy tư, tâm bổng mở ra như có chỗ sở đắc, ông liền lạy xuống ba lạy .. v .. v …. Tổ nói : Ông mau mau đi về phương Nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây. ” Đây là lời nói của những người chịu ảnh hưởng tác động quá nặng tư tưởng ngoại lai cho rằng cái gì của Tàu cũng là trên hết.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi mục tiêu đến Trung Quốc là muốn phụ thuộc Thiền viện của Thiền tông Nước Trung Hoa để truyền bá tư tưởng Mật tông nên mới diện kiến với Tăng Xán để giao duyên sơ ngộ. Khi gặp Tăng Xán, Tỳ Ni Đa Lưu Chi tỏ ra nhã nhặn liền chấp tay chào hỏi ba lần. Hiện tượng ngồi yên không vấn đáp của Tăng Xán là tỏ thái độ không gật đầu sự xuất hiện của Tỳ Ni Đa Lưu Chi nơi thiền viện vì ông này không đồng tư tưởng với mình. Theo phép xã giao, Tỳ Ni Đa Lưu Chi kính trọng bằng cách đảnh lễ ba lạy với kỳ vọng Tăng Xán cởi mở tâm tình đồng ý cho mình được phụ thuộc nơi thiền viện. Không ngờ Tăng Xán quá tự phụ và còn đuổi khéo bảo Tỳ Ni Đa Lưu Chi nên về phương Nam để truyền đạo.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi đảnh lễ Tăng Xán không có nghĩa là thọ giáo làm đệ tử, nguyên vì Tỳ Ni Đa Lưu Chi khi sang Nước Ta chỉ trao truyền Mật tông cho Pháp Hiền mà không khi nào trao truyền Thiền tông theo kiểu Tăng Xán. Điểm đáng ghi nhận trong Thiền tông, Bồ Đề Đạt Ma thì gối đầu kinh Lăng Già Tâm Ấn làm mục tiêu cho phái Thiền, Tăng Xán thì gối đầu “ Tam Luận Tôn ” làm mục tiêu, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng thì gối đầu kinh Kim Cang làm mục tiêu, Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì gối đầu Tổng Trì làm mục tiêu và Khương Tăng Hội thì gối đầu kinh An Ban Thủ Ý làm mục tiêu.

B. Sự đóng góp của Phật giáo cho đất nước Việt Nam

Trên con đường dựng nước và tăng trưởng quốc gia từ Nam Quan đến Cà Mau, ba tông phái có công rất lớn cho nền văn hóa Việt Tộc chính là Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông. Ba tông phái này như cái đỉnh ba chân đứng vững vàng trên quốc gia Nước Ta và cũng là nền tảng cho những phái Thiền khác nảy nở và tăng trưởng trong mảnh đất thân yêu của dân tộc bản địa Nước Ta.

1. Trong thời kỳ lập quốc, Thiền tông Vô Ngôn vào thế kỷ thứ IX Tây Lịch tiên phong đã góp phần khu công trình rất lớn vào việc lập quốc qua nhân vật lịch sử dân tộc nổi tiếng là Thiền sư Khuông Việt. Thiền sư Khuông Việt tên là Ngô Chân Lưu cố vấn chính trị cho Đinh Bộ Lĩnh lập nên đế nghiệp với chức vụ Khuông Việt Thái sư và tiếp theo được Đinh Tiên Hoàng tấn phong chức Tăng Thống để lãnh đạo Phật giáo. Ngoài ra Thiền phái này còn sản xuất rất nhiều nhân tài lỗi lạc như, Thái Tông, Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ .. v .. v ….. đã tạo được thế đứng cho tông phái Thiền trong lòng dân tộc bản địa qua những triều đại.

Nhìn về quá khứ của hệ phái Thiền trong tiến trình mạng lưới hệ thống truyền thừa kể từ Ấn Độ cho đến Nước Ta được ghi nhận, trước hết đức Phật Thích Ca truyền thừ phái Thiền bằng cách Tải Vật Ấn Ký, nghĩa là đức Phật cầm một vật gì đưa lên trước đại chúng và vị nào trong đại chúng ngộ được ý của Phật qua vật đó là chứng được Thiền, trường hợp như đức Phật thọ ký tổ tiên phong cho phái Thiền là ngài Ca Diếp với chiêu thức Tải Vật Ấn Ký nói trên. Về sau những Tổ sau đó truyền thừa phái Thiền bằng cách Dùng Kệ Ấn Ký, nghĩa là những thiền sinh sáng tác những bài Kệ Tụng liền đệ trình lên Tổ và Tổ ấn ký cho bài kệ tụng nào thì vị sáng tác bài kệ tụng đó liền được chứng Thiền.

Thiền tông khi đến Trung Quốc thì có phần hơi khác về cách truyền thừa. Cách truyền thừa của Thiền tông Trung Quốc kể từ nơi Bồ Đề Đạt Ma là sử dụng Y Bát trao truyền để định mức giá trị chứng đắc của các đệ tử gọi là Tổ Tổ Tương Truyền và cách truyền thừa này truyền mãi đến ngài Huệ Năng mới bỏ phương pháp Y Bát Truyền. Sang Việt Nam, Thiền Tông Vô Ngôn thì truyền thừa bằng phương pháp Gia Phả, nghĩa là sử dụng Điệp Phái ghi danh sự chứng đắc của đệ tử để trao sự nghiệp kế thừa Tổ Truyền. Về sau mãi đến năm 1712 Tây Lịch, Thiền tông Lâm Tế thuộc phái Nguyên Thiều mới đổi phương pháp truyền thừa theo lối Thi Kệ, nghĩa là các đệ tử trình lên Tổ những bài Thi Kệ và Tổ ấn ký bài thi kệ nào là vị đó chứng Thiền.

Khi được chứng Thiền, vị được ấn ký nói trên liền trở thành Tổ và có quyền thành lập một hệ phái Thiền riêng theo bài thi kệ đắc pháp của mình, nghĩa là vị Tổ đã được chứng Thiền liền sử dụng những chữ trong bài thi kệ đắc pháp tuần tự đặt Pháp Danh cho đệ tử theo dòng kệ vừa được ấn ký để truyền thừa. Bao nhiêu dữ kiện vừa trình bày trên cũng đủ nói lên được những điểm đặc sắc của hệ phái Thiền từ Ấn Độ cho đến Việt Nam.

2. Kế đến Mật tông Tỳ Ni cũng tiếp theo sự nghiệp của Thiền tông Vô Ngôn, giảng dạy rất nhiều long tượng xứng danh, thông bác mọi mặt như văn hóa, chính trị, ngoại giao, tôn giáo .. v .. v …. hậu thuẫn cho những triều đại kể từ triều đại Tiền Lê cho đến triều đại Nhà Tiền Lý suốt hơn 215 năm tăng trưởng vương quốc. Riêng trong triều đại Tiền Lê, vào tầm 980 Tây Lịch, một nhân vật nổi bậc nhất với danh nghĩa Quốc sư Pháp Thuận xuất thân từ Mật tông Tỳ Ni ; theo “ Việt sử toàn thư ” của Phạm Văn Sơn, từ trang 161 đến trang 168, người đã đưa Lê Đại Hành từ vị thế Tiết Độ Sứ Giao Châu lên đến chức vị Nam Bình Vương.

Tiếp theo cũng trong Mật tông Tỳ Ni, một nhân vật thứ hai vô tiền khoáng hậu là Quốc sư Vạn Hạnh, người đã tạo thế đứng bền vững và kiên cố nhất cho dòng họ đời Lý suốt 215 năm. Quốc sư Vạn Hạnh ngoài sự chứng đắc về Mật giáo, còn thông bác cả chính trị và ngoại giao, khéo link và dung hợp những khuynh hướng văn hóa, chính trị và tôn giáo biến thành vật liệu keo sơn để làm nền tảng vững chắt cho triều đại nhà Lý thiết kế xây dựng quốc gia. Theo “ Thiền học Nước Ta ” của Nguyễn Đăng Thục, trang 207 đến 222, dưới triều đại nhà Lý, nước Nước Ta lúc bấy giờ với tên tuổi là Đại Cồ Việt đã có bảy trào lưu văn hóa và tín ngưỡng khác nhau như :

a.Văn hóa Động Cổ cũng gọi là Văn hóa Đông Sơn,

b.Văn hóa Cổ Mộ cũng gọi là Văn hóa Lạch Trường,

c.Văn hóa Phật Ấn của Tỳ Ni Đa Lưu Chi,

d.Văn hóa Phật Hoa của Vô Ngôn Thông,

e.Văn hóa Bà La Môn của Chiêm Thành và Chân Lạp,

f.Văn hóa Hán Nho của Chư Tử và Sĩ Nhiếp,

g.Văn hóa Lạt Ma Tây Tạng của Nam Chiếu.

Quốc sư Vạn Hạnh đưa ra triết lý Dung Tam Tế nhằm mục đích mục tiêu dung hợp bảy trào lưu văn hóa tín ngưỡng dị biệt vừa kể trên tạo thành “ Trung Lưu Chỉ Trụ ”, nghĩa là nền văn hóa Việt Tộc đứng vững giữa dòng sông tư tưởng để làm nền tảng cơ bản cho triều đại nhà Lý tăng trưởng.

Về sau Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có làm bài thơ ca ngợi Quốc sư Vạn Hạnh:

“ Vạn Hạnh Dung Tam Tế, Chơn phù cổ sấm ky ( cơ ), Hương quan danh Cổ Pháp, Trụ tích trấn vương kỳ. ”

Nghĩa là : Quốc sư Vạn Hạnh dung thông được ba cõi ( cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc ), Đúng với phù hiệu tiên tri của thời cổ xưa, Quê hương khét tiếng là Cổ Pháp ( kinh đô Phật giáo Nước Ta thời xưa ), Quốc sư đem gậy Mật giáo bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vương quốc.

3. Tịnh độ tông thì góp mặt trên quốc gia Nước Ta tự khi nào không có lịch sử vẻ vang, nhưng lúc bấy giờ đã trở thành tín ngưỡng của dân gian. Người đời sở dĩ biết đến tông phái này là nhờ tín ngưỡng Quan Thế Âm. Tín ngưỡng Quan Thế Âm hoàn toàn có thể phát xuất từ văn hóa Nam Chiếu và cũng hoàn toàn có thể phát xuất từ văn hóa Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Văn hóa Nam Chiếu theo sử liệu thì chịu ảnh hưởng tác động văn hóa Tây Tạng và văn hóa Tây Tạng lại tôn vinh đức Quan Thế Âm trên hết. Hơn nữa hình tượng cho văn hóa Quan Thế Âm chính là chùa Một Cột mà chùa Một Cột đã được vua Lý Thái Tông thiết kế xây dựng vào năm 1049 Tây Lịch và chùa này thì lại thờ đức Quan Thế Âm với hình tướng đức Phật Chuẩn Đề.

Theo Mật tông đức Phật Chuẩn Đề là hóa thân của đức Quan Thế Âm và chùa Một Cột lại được kiến thiết xây dựng dưới sự chỉ huy của hệ phái Mật tông Tỳ Ni trong triều đại Nhà Lý. Do đó tín ngưỡng Quan Thế Âm hoàn toàn có thể xác lập là xuất phát từ văn hóa Nam Chiếu và văn hóa Mật tông Tỳ Ni. Những nơi còn quan hệ thêm nữa với giai thoại Quan Thế Âm như giai thoại Quan Thế Âm cũng là tín ngưỡng của dân Chiêm Thành và cũng là tín ngưỡng của dân Trung Hoa Mạc Cửu tại miền Nam Nước Ta. Bao nhiêu dữ kiện vừa trình diễn qua cũng đủ chứng tỏ cho sự xuất hiện của Tịnh độ tông trên quốc gia Nước Ta.

Ngoài ra Tịnh độ tông trở thành niềm tin mạnh nhất của dân tộc bản địa Nước Ta cũng hoàn toàn có thể một phần nào chịu ảnh hưởng tác động trực tiếp từ Tịnh độ tông của triều đại nhà Đường và Tịnh độ tông của nhà Đường hòa nhập vào Nước Ta qua cánh cửa tín ngưỡng Quan Thế Âm trong thời hạn phụ thuộc nước Tàu. Cụ thể hơn nữa Tịnh độ tông sau này trở thành văn hóa Việt Tộc phải nói đến là nhờ công lao lớn nhất của Chúa Nguyễn Hoàng ra tay thiết kế xây dựng.

Vào khoảng chừng năm 1528, Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam lập quốc, sống trên đất tín ngưỡng của Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp, liền chủ trương “ Thiền Tịnh tuy nhiên tu ” để thiết kế xây dựng và mở mang quốc gia miền Nam. Theo chủ thuyết “ Thiền Tịnh tuy nhiên tu ” của Chúa Nguyễn, Thiền tông thì có bổn phận chỉ huy và Tịnh độ tông thì có bổn phận tích hợp và dung hóa để tạo thành tài nguyên sung túc làm hậu thuẩn cho nhà Nguyễn trên con đường mở nước. Thiền tông của Chúa Nguyễn chính là Thiền tông dùng kệ truyền thừa của Lâm Thế Nguyên Thiều mà không phải là Thiền tông Trúc Lâm Tam Tổ và cũng không phải là Thiền tông Thảo Đường.

Tịnh độ tông của Chúa Nguyễn đi vào văn hóa Việt Tộc với hai hình tượng song hành chính là chùa làng và đình làng, hai hình tượng này đã được thiết kế xây dựng trải khắp miền Nam Nước Ta, từ thành thị đến nông thôn, nghĩa là chỗ nào có làng là chỗ đó chùa và có đình. Về sau chủ thuyết “ Thiền Tịnh tuy nhiên tu ” của Chúa Nguyễn phát triển lan tràn ra miền Bắc trở thành văn hóa tổng lực là khi nhà Nguyễn thống nhất quốc gia.

Thiền tông Trúc Lâm là thiền phái thuần túy của Nước Ta do người Nước Ta sáng lập mà tổ tiên phong tạo dựng thiền phái này vào khoảng chừng năm 1228 Tây Lịch chính là Trần Thái Tông. Thiền tông Trúc Lâm là hình tượng sự tiến hóa của nền văn hóa Phật giáo trên quốc gia Nước Ta mà nó không phải là thiền phái hội nhập vào văn hóa Việt Tộc, nguyên vì thiền phái này chỉ dành riêng cho giai cấp thượng lưu tri thức đương thời tu tập và nó không có tính cách phổ quát trong mọi những tầng lớp dân gian.

Hơn nữa suốt 180 năm của thời đại Nhà Trần, Nho giáo mới chính là chính thống nhập thế tích cực, đóng vai trò đa phần của truyền thống lịch sử văn hóa Việt Tộc và trong thời hạn đó vai trò Phật giáo mà đại biểu là Thiền tông Trúc Lâm thì có tính cách yếm thế xấu đi, chỉ dành riêng cho những hạng hưu trí hồi quan nương thân vào thiền môn để an thân thủ phận. Thiền phái này chỉ truyền thừa được ba đời thì chấm hết gọi là “ Trúc Lâm Tam Tổ ”, mặc dầu về sau cũng còn một vài ngôi chùa tiếp nối đuôi nhau sự nghiệp Thiền phái Trúc Lâm, nhưng rồi cũng chìm trong quên lãng, vì họ không tạo được thế đứng trong tâm hồn dân gian.

5. Riêng Thiền tông Thảo Đường thì được xây dựng vào khoảng chừng năm 1069 Tây Lịch và người xây dựng chính là Thiền sư Thảo Đường, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu Minh Giác bên Tàu. Người được truyền thừa tâm ấn của Thiền sư Thảo Đường chính là vua Lý Thánh Tông, tổ thứ hai của Thiền tông Thảo Đường. Đặc biệt hơn hết từ xưa đến nay ở Nước Ta, Thiền tông Thảo Đường thuộc về loại thiền mang sắc thái Nghệ Thuật và Thi Ca. Trong văn học Nước Ta có rất nhiều tác phẩm thi thơ mang vật liệu văn hóa thiền qua nghệ thuật và thẩm mỹ âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc .. v .. v … và toàn bộ đều chịu tác động ảnh hưởng sâu xa của Thiền tông Thảo Đường.

Theo “ Nước Ta Phật giáo sử lược ” của Thích Mật Thể, Thiền tông Thảo Đường chỉ truyền thừa được năm đời và đắc đạo được mười chín người. Nhưng nghệ thuật và thẩm mỹ, thi ca của Thiền phái Thảo Đường thì đã ăn sâu vào tâm hồn dân gian và từ đó biến thành văn hóa Việt Tộc không có ranh giới thời hạn, khoảng trống và được lưu truyền mãi mãi về sau. Hiện nay vật liệu văn hóa nghệ thuật và thẩm mỹ thi ca của Thiền phái Thảo Đường vẫn còn sống dậy dạt dào trong tâm hồn dân gian Nước Ta. Điển hình như hiện giờ, nào là thơ thiền, hội họa thiền, điệu khắc thiền, kiến trúc thiền, dân ca thiền .. v .. v …. thi đua Open và tràn ngập khắp mọi nơi, truyền đến mọi những tầng lớp dân gian và hoàn toàn có thể nói tổng thể đều chịu tác động ảnh hưởng đậm đà của văn hóa Thiền phái Thảo Đường.

III. Tóm lược

Qua những dữ kiện vừa chứng tỏ ở trước, Phật giáo Việt Nam vô cùng hãnh diện là Phật giáo Nước Ta tiên phong không phải do Phật giáo Trung Quốc truyền sang mà chính là do Phật giáo Ấn Độ mang đến. Gần 3000 năm lịch sử dân tộc, Phật giáo Ấn Độ đã mang đến cho dân tộc bản địa Nước Ta với bao tâm hồn thân thương, hòa ái, bao dung, che chở, đã tô đậm lên những nét son lịch sử vẻ vang sáng ngời.

Phật giáo Ấn Độ đi vào mảnh đất Nước Ta trong sự vinh quang tuyệt đỉnh công phu, tưới lên vật liệu từ bi, hun đúc địa linh nhân kiệt, tạo nên sinh mệnh giống nòi, đem nguồn trí tuệ sáng soi, dẫn dắt con dân nước Việt khai thông sinh lộ, mở mang bờ cõi, tu dưỡng ý chí kiên cường quật cường cho con Lạc cháu Hồng bằng vật liệu quả cảm tinh tấn, đủ sức kiên trì nhẫn nhục, vượt qua mọi nguy hại, vun xới cơ đồ, giữ gìn gia nghiệp muôn thuở để lại cho con cháu tương lai.

Người Nước Ta tiên phong hân hoan tiếp đón hạt giống Bồ đề Phật giáo Ấn Độ mang vật liệu từ bi, trí tuệ và dũng mãnh, tinh tấn gieo trồng vào mảnh đất Nước Ta chính là phò mã Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, cháu của Hùng Vương đời thứ III ngỏ hầu làm cây đại thọ chở che cho giống nòi tương tựa. Từ đó về sau con Lạc cháu Hồng cứ liên tục gieo trồng cây Bồ đề Phật giáo Ấn Độ lan rộng khắp nơi trên mảnh đất quê nhà.

Chất liệu cây đại thọ Bồ đề Phật giáo Ấn Độ cũng từ đó kết tinh thành sinh mệnh của Việt Tộc Open đảm nhiệm toàn bộ trào lưu tư tưởng Phật giáo đến từ khắp nơi, dung hàa và tô bồi nền văn hóa Việt Tộc trở nên đa dạng chủng loại phồn vinh. Lúc bấy giờ sinh mệnh của Việt Tộc và sinh mệnh của Phật giáo cùng nhau hòa hợp kiến thiết xây dựng thành Phật giáo Nước Ta trải dài hơn hai ngàn năm lịch sử dân tộc hun đúc thành những tuấn kiệt hùng anh, những long tượng phi phàm gồm có cả vương quốc và Phật giáo góp thêm phần công đức vô lượng vào việc vun xới cơ đồ mở mang bờ cõi phát huy chính pháp từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.

Nhìn riêng về Phật giáo Nước Ta, vào thế kỷ thứ II Tây Lịch, những long tượng nổi bậc nhất xuất thân từ TT Luy Lâu phải kể đến hai nhân vật Mâu Bác và Khương Tăng Hội. Theo “ Phật giáo sử luận ” của Nguyễn Lang, chương I, trang 14 : Trung tâm Luy Lâu là TT tiên phong của Phật giáo, lúc bấy giờ thuộc phủ Thận Thành, tỉnh TP Bắc Ninh ; TT này huấn luyện và đào tạo nên hai nhân vật nổi tiếng đương thời là Mâu Bác với tác phẩm “ Lý hoặc Luận ” thuộc luận học và Khương Tăng Hội với tác phẩm “ An Ban Thủ Ý ” thuộc thiền học. Hai vị đây đã phát huy chính pháp sáng rực một thời trong vòm trời Nước Ta.

Kế đến vào thời kỳ tự chủ nhà Đinh lấy móc câu từ 968 Tây Lịch trở về sau làm chuẩn đích, những hệ phái Phật giáo Nước Ta như Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông .. v .. v …. suốt dòng lịch sử vẻ vang đã cùng nhau tiếp nối đuôi nhau khai sơn phá thạch, vun xới cơ đồ phát huy chính pháp, đắp xây nền văn hiến Lạc Việt lưu truyền vĩnh cửu cho mai hậu.

Các hệ phái Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông nói trên đã đào luyện rất nhiều long tượng tinh anh, như Khuông Việt Ngô Chân Lưu .. v .. v …. thuộc hệ phái Vô Ngôn, như Quốc sư Pháp Thuận, Quốc sư Vạn Hạnh .. v .. v …. thuộc hệ phái Mật siáo, như Chúa Nguyễn Hoàng, Tổ Nguyên Thiều, Tổ Liễu Quán .. v .. v …. thuộc hệ phái Thiền Tịnh tuy nhiên tu, những vị đó đã từng lấy máu chép kinh, lấy xương làm bút viết lên những trang sử oai hùng trên con đường mở nước và phát huy chính pháp, nhất là Thiền Tịnh tuy nhiên tu đã vun bồi cho dòng máu Lạc Hồng, chuyển hóa sức sống Rồng Tiên, tô thắm nền văn hóa Việt Tộc sáng ngời muôn thuở.

Ngày nay, sau biến cố 75, con dân nước Việt ào ạt vượt biên giới ra quốc tế đi tìm đất sống và đã định cư khắp năm châu bốn biển. Trên con đường tìm đất tự do, họ cũng mang theo nền văn hóa Việt Tộc đã được hun đúc vật liệu Thiền Tịnh tuy nhiên tu để làm loại sản phẩm niềm tin cho giống nòi tăng trưởng.

Trong hội đồng Nước Ta hải ngoại đã có sẵn tài nguyên văn hóa Việt Tộc và cũng đã có sẵn vật liệu Thiền Tịnh tuy nhiên tu, tất cả chúng ta chỉ có trách nhiệm tiếp nối đuôi nhau tiền nhân, tích hợp chuyển hóa, khai thông sinh lộ, vun xới tài nguyên, tưới lên vật liệu Thiền Tịnh tuy nhiên tu, đắp xây vững chắc nền văn hóa Việt Tộc để chuyên chở giống nòi Lạc Việt trưởng thành và sống sót muôn đời trên mảnh đất tự do quê nhà mới lập. Ưu tiên cho hội đồng Nước Ta hải ngoại, những ai làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm vừa trình diễn trên thì mới xứng danh lưu danh kim cổ người con Phật chân chính, bậc tuấn kiệt hùng anh của con Lạc cháu Hồng.

Thích Thắng Hoan

Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục

Bình luận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *