Tại sao phải đưa ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.69 KB, 26 trang )
Bạn đang đọc: Tại sao phải đưa ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền – Tài liệu text
A / Đặt vấn đề
Cùng với quá trình dựng nớc và giữ nớc, nền văn hoá Việt Nam đã hình
thành và phát triển. Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên c-
ờng, nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh sức mạnh và in đậm
dấu ấn vản sắc của dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trờng tồn của
dân tộc Việt Nam .
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nớc và giữ nớc.
Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc
ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, chẳng những không bị đồng hoá
, mà còn quật cờng đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta mà giải
phóng cho ta .
Phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, dới sự lãnh đạo của Đảng, là nhân
lên sức mạnh của nhân dân ta để vợt qua khó khăn, thử thách, xây dựng và
phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ
đối ngoại, tạo ra thế và lực mới cho đất nớc ta đI vào thế kỷ XXI .
Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất n-
ớc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng văn minh, đòi hỏi chúng ta phảI xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền
tảng tinh thần của dân tộc ta, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội .
Đảng và Nhà nớc ta đang tiến tới xây dựng một nền kinh tế mở ,hội nhập
với Thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới hiện đại biến chuyển
nhanh chóng, đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá, sự hội nhập khu vực và thế
giới với một tốc độ rất nhanh, từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng giao lu giữa các
nền văn hoá. Trong khi chú trọng giữ gìn, phát huy các truyền thống văn hoá
tinh thần tốt đẹp của dân tộc, văn hóa Việt Nam cần từng bớc mở rộng giao lu
quốc tế, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới và thời đại. Nền văn của
chúng ta sẽ đa dạng hơn, phong phú hơn, tiên tiến hơn nhờ hấp thụ đợc những
yếu tố lành mạnh của văn hoá thế giới .
Trong nền kinh tế mở nh nớc ta hiện nay luôn luôn có sự trao đổi giao lu với
thế giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá. Chúng ta không thể
tránh khỏi việc du nhập những phong tục tập quán của các nớc, các dân tộc
trên thế giới. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta quên đi truyền thống của
đân tộc mình, cái gốc của mình. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
trong thời kỳ nền kinh tế mở là hết sức cần thiết. ĐIều đó giúp chúng ta hoà
nhập chứ không hoà tan, không bị mất đi cái gốc của mình. Chúng ta một mặt
tiếp thu những nét tinh hoa trong văn hoá của các nớc, một mặt giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc để làm cho đời sống tinh thần của chúng ta ngày càng
phong phú hơn.
* Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài :
Đất nớc ta đang trong thời kỳ tiến lên xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với
quốc tế. Tuy nhiên, việc hội nhập cũng có những mặt tích cực và tiêu cực .Nếu
chúng ta tiếp thu một cách không có chọn lọc, không có tính toán, chúng ta dễ
bị tiếp thu những cái không tốt, ảnh hởng đến đời sống văn hoá của nớc ta.
Mặt khác, chúng ta còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc, chạy theo
các nớc trên thế giới, bị ảnh hởng hoàn toàn bởi nền văn hoá của các nớc khác.
Chính vì thế, việc đặt ra những định hớng trong việc hội nhập, tiếp thu
những tinh hoa trong văn hoá của các nớc một cách có chọn lọc là điều hết sức
cần thiết. Trong đó, bản sắc dân tộc giữ một vai trò không nhỏ trong việc hội
nhập với thế giới. Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản
sắc riêng của mình. Chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, một
mặt để đem những tinh hoa của mình để giao lu với các nớc, một mặt giúp
chúng ta hoà nhập chứ không hoà tan .
Mỗi quốc gia đều có những bản sắc riêng của mình. Điều đó giúp chúng ta
phân biệt rõ mỗi một quốc gia. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một việc
tất yếu trong nền kinh tế mở hiện nay. Chúng ta có bản sắc dân tộc thì mới có
thể hội nhập, giao lu với thế giới, mới có cái để giao lu .Nếu không giữ gìn đ-
ợc bản sắc dân tộc, chúng ta sẽ lấy gì để hội nhập với thế giới, khi đó chúng ta
sẽ bị nền văn hoá các nớc khác chi phối, không còn bản sắc riêng của mình .
Với những lý do trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Cũng vì thế mà việc nghiên cứu đề tài Bản
sắc dân tộc trong nền kinh tế mở là điều tất yếu và cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
2
B / giảI quyết vấn đề .
Chơng I. Quan niệm về bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền
kinh tế mở .
I /. Bản sắc văn hoá dân tộc là gì ?
1. Khái niệm :
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam đợc vun đắp nên qua lịch sử hàng năm đấu tranh
dựng nớc và giữ nớc. Đó là lòng yêu nớc nồng nàn, ý chí tự cờng dân tộc, tinh
thần đoàn kết cá nhân – gia đình -làng xã – Tổ quốc ; lòng nhân ái, khoan dung
, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động ; sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống … Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm
đà trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo .
2. Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc :
Bản sắc văn hoá dân tộc giữ vị trí rất quan trọng :
a/. Chính bản sắc văn hoá dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại, đứng vững
và phát triển qua các biến động của lịch sử.
b/. Nhờ bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta biểu lộ đợc trọn vẹn sự hiện diện
của một bản sắc trong giao lu với quốc tế. Mục tiêu của giao lu là thông qua
giao lu với nền văn hoá mới, ta hội nhập với văn hoá thế giới. Chỉ giữ đợc bản
sắc văn hoá dân tộc thì ta mới có điều kiện giao lu bình đẳng với các nền văn
hoá thế giới. Còn sao chép, trở thành cái bóng, cái đuôi của ngời ta thì
không còn có gì mà hội nhập bình đẳng.
Trớc yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, trớc nguy cơ đồng nhât về văn
hoá thực chất là sự thống trị của văn hoá nớc lớn, nớc giàu thì bản sắc văn hoá
dân tộc có ý nghĩa cực kỳ lớn .
3. Bản sắc dân tộc – hệ giá trị .
Văn hoá, theo UNESCO, là tổng thể những nét đặc trng tiêu biểu nhất của
một xã hội thể hiện trên mặt vật chất và tinh thần, tri thức và tình cảm. Văn
hoá mang bản sắc dân tộc .
3
– Bản sắc dân tộc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển
của nó, giúp cho dân tộc đó giữ đợc tính duy nhất ( tính độc đáo ), tính
thống nhất, tính nhất quán so với bản thân mình .
– Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống – ý thức
thuộc về một dân tộc ( cội nguồn ), cách t duy, cách sống, cách dựng n-
ớc, giữ nớc, cách sáng tạo văn hoá, khoa học, văn nghệ .
– Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một
văn hoá. Hệ giá trị là những gì nhân dân quan tâm, tin tởng thuộc phạm
vi tốt và xấu, mong muốn hoặc không đáng tin tởng thuộc phạm vi tốt và
xấu, mong muốn hoặc không đáng mong muốn. Nó là những giá trị và
những niềm tin, mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm .
– Hệ giá trị biểu hiện trong t tởng triết học ( thế giới quan ) chính trị, văn
học, nghệ thuật, đạo đức, lối sống ( phong tục, tập quán ) .
– Hệ giá trị chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hớng cho sự lựa
chọn trong hành động của con ngời, cá nhân và cộng đồng .
Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính bền vững tơng đối, có sức mạnh
to lớn đối với cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá
trị này thờng không biến mất mà hoá thân vào các giá trị của thời sau, theo
quy luật kế thừa và tái tạo .
Di sản văn hoá là các giá trị văn hóa do lịch sử để lại. Các giá trị này sẽ trở
thành truyền thống khi đợc thế hệ sau lựa chọn, tiếp nhận, mô phỏng, làm
sống lại .
Đó là quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Sự thích nghi của các giá trị
cũ đối với sự thay đổi của thời đại, là biểu hiện của tính liên tục văn hoá .
II /. Bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở .
1. Chủ trơng của Đảng về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong
nền kinh tế mở .
4
Nói dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc không thể tách khỏi quan hệ với thế
giới. Chúng ta đang chứng kiến xu thế toàn cầu hoá đời sống loài ngời. Đó là
xu thế khách quan, tất yếu mang tính thời đại, trớc hết trong lĩnh vực kinh tế.
Xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau,
hiểu biết nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và hỗ trợ lẫn nhau. Đất nớc
ta nhất định nắm lấy xu thế này coi nh là một thời cơ lớn, ra sức tận dụng mọi
điều kiện có lợi do xu thế ấy tạo ra, đặc biệt để tranh thủ những khả năng vật
chất, kỹ thuật, công nghệ, những kinh nghiệm và tri thức hiện đại rất cần thiết
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay, không một quốc gia nào có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát
triển. Mặt khác, phải thấy toàn cầu hoá là một quá trình đầy mâu thuẫn phức
tạp. Mặt tất yếu kỹ thuật – kinh tế là mặt tích cực, có lợi, ta phải tận dụng.
Song, mặt khác không thể bỏ qua là mặt xã hội – kinh tế, mặt bản chất giai cấp
của quá trình toàn cầu hóa. Xét về mặt này, trên thế giới hiện nay đang có
những lực lợng nuôi tham vọng lớn toàn cầu hoá chủ nghĩa t bản, họ muốn áp
đặt hệ giá trị của riêng họ lên cả toàn cầu. Quên điều đó là ngây thơ về chính
trị và trong thực tiễn không tránh khỏi phải trả giá đắt .
Trong những điều kiện nêu trên về xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta
càng thấy đờng lối mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ của Đảng
ta nói chung và nói riêng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là hết sức đúng đắn và sáng
suốt .
Nghị quyết Hội Nghị Trung ơng 5 chỉ rõ : phơng hớng chung, đồng thời là
nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa nớc ta là phát huy chủ nghĩa yêu nớc
và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cờng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá nhân
loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng ngời, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân c, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con ngời, tạo nên trên đất nớc ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng văn minh, tiến bớc vững chắc lên chủ nghĩa xã hội .
Nghị quyết Trung ơng 5 Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa đáp ứng đúng những đòi hỏi bức xúc của
cuộc sống vừa là định hớng chiến lợc cơ bản cho sự nghiệp xây dựng, củng cố
và không ngừng tăng cờng nền tảng tinh thần xã hội ta trên con đờng phấn đấu
vì dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bớc vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội.
5
2. Quan điểm về bản sắc văn hoá dân tộc
Bản sắc văn hoá dân tộc luôn có sự biến động, bổ sung qua các thời kỳ lịch
sử. Có giá trị đợc hình thành từ xa xa và luôn luôn bền vững. Có giá trị đúng
lúc trớc, nhng nay không thích hợp. Lại có giá trị mới nhng phù hợp với
nguyện vọng dân tộc thì nhanh chóng có sức sống bền vững. Chẳng hạn, có
những giá trị mới từ 1976, cũng là mới hơn 30 năm nay, với lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, giá trị Không có gì quý hơn độc lập, tự do đã
nghiễm nhiên trở thành giá trị văn hoá rất quan trọng của dân tộc ta .
Bản sắc dân tộc nằm trong các lĩnh vực nh kiến trúc, hội hoạ, văn chơng,
âm nhạc … nhng đó là những vấn đề phức tạp, cần để các nhà chuyên môn
nghiên cứu, thảo luận. Song đạo lý dân tộc là loại văn hoá vô hình, nhng là
tinh tuý của bản sắc dân tộc, đợc vun đắp qua lịch sử lâu đời của dân tộc đợc
xác định là :
Lòng yêu nớc nồng nàn ; ý thức tự lập tự cờng, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng, gắn cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc ;
Lòng nhân ái, tính khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý ;
Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động ;
Sự tinh tế trong c sử, giản dị trong lối sống …
Cũng có ý kiến cho rằng, nhiều dân tộc trên thế giới cũng có những giá trị
tơng tự nh trên, vì sao ta lại coi đó là bản sắc của dân tộc mình ? Chúng ta cho
rằng, vấn đề quan trọng là những giá trị đó có đích thực là truyền thống của
chúng ta không ? Chứ không phải là ta đi tìm những gì chỉ có ta có mà dân tộc
khác không có. Quan trọng là ta xác định những chuẩn giá trị bản sắc dân tộc
Việt Nam. Bản sắc dân tộc đợc thể hiện cả trong nội dung và hình thức .
Khi nói tới bản sắc dân tộc luôn luôn gắn bó với nhau nh trên đã trình bày.
Khi nói tới bản sắc văn hoá dân tộc cần tránh những khuynh hớng không đúng.
Đó là : đóng cửa, thu mình, chỉ kh kh giữ bản sắc truyền thống, không
sáng tạo mới, không mở cửa giao lu, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới
trở thành dân tộc hẹp hòi, cực đoan, kiêu ngạo. Hoặc là mở toang cửa
không chọn lọc, bản sắc dân tộc bị chèn ép, lu mờ, trở thành nền văn hoá
thiếu bản sắc. Hoặc phục hồi tất cả kể cả những cáI lạc hậu, lỗi thời trong quá
khứ, không còn thích hợp trong xã hội mới …
Chơng II: Tại sao phải đa ra vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
trong thời kỳ nền kinh tế mở .
6
I /. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .
1. Điều kiện xã hội :
Thực trạng đời sống văn hoá nớc ta hiện nay không phải là vấn đề dễ đánh giá
. Có ngời quá bi quan với tình hình cho là trong khi đời sống kinh tế có khá lên
từ đổi mới đến nay thì đời sống tinh thần lại sa sút nh cha bao giờ có. Ngợc
lại, có ngời quá lạc quan cho mọi sự đều tốt đẹp, những hiện tợng tiêu cực là
tự nhiên và không đáng kể. Thật ra, bức tranh không chỉ có một màu, hoặc
toàn tối hoặc toàn sáng .
Trớc hết, cần khẳng định đời sống văn hoá xã hội ta so với thời kỳ trớc có b-
ớc tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội – kinh tế và tính tích
cực công dân đợc khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại trong
cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng
dân trí đợc nâng cao, sở trờng, năng lực cá nhân con ngời đợc khuyến khích,
tôn trọng. Những nét mới nổi bật ấy trong đời sống đợc phản ánh qua hoạt
động khởi sắc, phong phú, đa dạng trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, phát
thanh, truyền hình, giáo dục, văn học, nghệ thuật, v.v… Trong sự phong
phú, đa dạng và bộn bề của đời sống và hoạt động văn hoá, chủ nghĩa Mác –
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh đợc Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo vẫn là
nền tảng t tởng và kim chỉ nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng hớng. Kinh
tế thị trờng và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt
động xã hội, phát triển giao lu hàng hoá, du lịch và các sản phẩm văn hoá,
giúp nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kến thức tiếp nhận từ bốn ph-
ơng. Các mặt trái của kinh tế thị trờng và mở cửa, dù tác động dữ dội, đã
không thể ngăn nổi nhân dân ta duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp, nh
thấy tõ nhất vaò những dịp kỷ niệm lớn, hớng về cội nguồn, về cách mạng và
kháng chiến, tởng nhớ các anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa những ngời có
công, giúp đỡ những ngời hoạn nạn …
Đơng nhiên, bức tranh không chỉ toàn màu sáng. Nghị quyết Trung ơng 5 đã
nghiêm khắc chỉ ra những mảng tối cùng nguyên nhân chủ quan. Đó là trạng
thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin lý tởng ở một số ngời, kể cả một
bộ phận đảng viên, cán bộ. Đó là những hiện tợng suy thoái đạo đức, đặc biệt
là nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, gian lận thơng mại trớc sự tấn công của
thói ích lỷ, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh động tiền và chủ
nghĩa thực dụng. Đó là một số hiện tợng nhức nhối trớc đây không hề có trong
quan hệ gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn
7
giá trị và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là trong một bộ phận dân c, kể cả một số
thanh niên, học sinh, sinh viên sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân tộc, về
các giá trị truyền thống mà lịch sử và cách mạng đã xây nên trong khi đó lại
phục hồi không phân biệt tốt xấu các vốn cổ dân tộc đồng thời đi liền với tâm
lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù quáng, phi lý, kệch cỡm. Đó là các tệ nạn
xã hội có chiều gia tăng, sự đam mệ nhu cầu vật chất cùng những dục vọng
thấp hèn, lối sống bất chấp đạo lý, d luận xã hội và pháp luật đang xô đẩy một
số ngời đi vào con đờng phạm tội. Tất cả những hiện tợng trên đang làm vẩn
đục môi trờng xã hội – văn hoá, gây bất bình trong nhân dân, làm xói mòn nền
tảng tinh thần xã hội, tạo miếng đất màu mỡ cho sự xâm nhập những sản phẩm
văn hóa độc hại ngoại lai .
2. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .
Trớc tình hình xã hội đã phân tích ở trên, việc tập trung xâu dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có tầm quan
trọng đặc biệt không chỉ cho hiện tại mà cả tơng lai Tổ quốc ta. Nhng nên văn
hóa thế nào là tiên tiến ? Thế nào là đậm đà bản sắc dân tộc ?
a>. Nền văn hoá tiên tiến
Đọc Nghị quyết Trung ơng 5, ta có thể hiểu nền văn hoá tiên tiến có mấy đặc
trng :
Một là, yêu nớc .
Hai là, tiến bộ .
Ba là, có nội dung cốt lõi là lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, t tởng Hồ Chí Minh .
Bốn là, nhân văn : tất cả vì con ngời …
Năm là, tiên tiến không chỉ trong nội dung t tởng mà cả trong hình thức
biểu hiện, trong các phơng tiện chuyển tải nội dung .
Đất nớc ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hớng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động tối đa
tiềm năng vật chất và tinh thần của cả dân tộc, của tất cả các thành phần kinh
tế. Chủ nghĩa yêu nớc ở đây là một động lực cực kỳ to lớn. Nền văn hóa tiên
tiến do đó trớc hết phải là một nền văn hoá yêu nớc. Có thể coi yêu nớc là tién
bộ đặc trng bao quát nhất củavăn hoá tiên tiến .Yêu nớc là ý chí đa đất nớc
thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng văn minh – đó là một nội dung t tởng lớn của nền văn hoá tiên tiến.
Gắn liền với yêu nớc là tiến bộ. Nền văn hoá tiên tiến phải là nền văn hoá kết
8
tinh tất cả những gì là tiến bộ, là chân, là thiện, là mỹ của dân tộc, của thời
đại, của loài ngời .
Nếu đặc trng bao quát nhất của nền văn hoá tiên tiến là yêu nớc, thì hạt nhân
cốt lõi của nền văn hoá tiên tiến là lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
dới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, t tởng Hồ Chí Minh. Nói văn hóa không
thể không nói hệ t tởng. Vì hệ t tởng chi phối quan niệm về giá trị, chi phối
đạo đức, lối sống và hành vi con ngời. Đành rằng hệ t tởng không đồng nhất
với văn hoá, không thể quy toàn bộ các giá trị văn hoá vào hệ t tởng ; nhng xét
chung và xét cho cùng, trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng có cốt
tuỷ là hệ t tởng giai cấp. Vì vậy, thật sai lầm nếu đồng nhất hệ t tởng với văn
hoá, bởi căn hoá có nội hàm rộng hơn nhiều so với hệ t tởng. Song, cũng
phạm sai lầm nghiêm trọng nếu phủ nhận vai trò hệ t tởng đối với văn hoá,
nhất là khi nói đến cả một nền văn hoá, cả một dòng văn hoá. C. Mác và Ph.
Ăngghen chỉ rõ : Lịch sử t tởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng
minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất ? Những t
tởng thống trị cua tmột thời đại bao giờ cũng chỉ là những t tởng của giai cấp
thống trị.
Là hệ t tởng mang bản chất giai cấp ( công nhân ) nh mọi hệ t tởng, nhng
khác với bất cứ hệ t tởng nào khác, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cách
mạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hoá nhân loại, hớng vào giải
phóng toàn xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con ngời, khắc phục triệt
để tình trạng con ngời bị tha hoá, tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn
thiện con ngời. Chủ nghĩa cộng sản trong bản chất của nó nh C. Mác nói, là
chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Nguyễn ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nớc
truyền thống của dân tộc và những hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá lớn
Đông Tây, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin nh một bớc ngoặt quyết định hình
thành t tởng Hồ Chí Minh. Sự gặp gỡ thần kỳ này đã sản sinh ta một nhân cách
, hơn thế, một mẫu hình văn hoá mới, mẫu hình văn hoá của tơng lai nh nhà
thơ Xô Viết Mandenxtam với một tình cảm đặc biệt đã sớm khám phá từ năm
1923 khi tiếp xúc với Bác. Nh vậy, thật là chính xác và tự nhiên khi Nghị
quyết Trung ơng 5 nêu lên mục tiêu nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con ngời,
vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện con ngời trong mối
quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. ở đâylà
tính nhân văn cao cả, trong đó giai cấp, dân tộc và nhân loại, cá nhân và xã
hội, xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trờng chủ nghĩa Mác – Lênin, t t-
ởng Hồ Chí Minh – hệ t tởng thấu suốt nền văn hoá mà chúng ta xây dựng .
Tính chất tiên tiến của nền văn hoá còn phảI thể hiện cả trong hình thức biểu
hiện, trong những cơ sở vật chất kỹ thuật, phơng tiện để chuyển tảI nội dung.
Ví dụ : trong phong cách văn chơng, trong công nghệ truyền hình, điẹn ảnh,
9
trong kiểu dáng kiến trúc, trong thiết kế những công trình tợng đàI, những khu
vui chơi giải trí, v.v… ở đây, tiên tiến thờng có nghĩa là hiện đại, song không
phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không đợc nhầm lẫn hiện
đại với chủ nghĩa hiện đại tắc tị, bệnh hoạn, nhất là trong nghệ thuật, văn
thơ .
b>. Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc .
Tính chất tiên tiến của nền văn hoá Việt Nam không tách rời bản sắc dân
tộc.Nói đến văn hoá là nói đến dân tộc. Văn hoá bắt rễ sâu trong đời sống dân
tộc qua trờng kỳ lịch sử. Văn hoá là bộ mặt tinh thần của dân tộc. Bản sắc dân
tộc của văn hoá, nh ngời ta thờng nói, là cái căn cớc, cái chứng chỉ của một
dân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai, thiéu nó, anh không tồn tại nh một giá trị. Lịch
sử mấy nghìn năm dựng nớc và giữ nớc đã hun đúc cho dân tộc ta biết bao giá
trị truyền thống tốt đẹp. Đó là chủ nghĩa yêu nớc, lòng nhân ái bao dung,
trọng nghĩa tình, đaọ lý, là tính cố kết, cộng đồng … Nhờ sức mạnh những giá
trị đó, dân tộc Việt Nam đã chiến thắng bao thử thách khắc nghiệt của thiên tai
, địch hoạ để tồn tại và phát triển nh ngày hôm nay. Bảo vệ và phát huy bản sắc
dân tộc của văn hoá trớc hết là bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần đó.
Cố nhiên bản sắc dân tộc có cả nội dung và hình thức. Cùng với những giá trị
tinh thần, bản sắc dân tộc của văn hoá còn đợc đặc trng bởi các phơng thức
biểu hiện độc đáo. Đó là tiếng nói của dân tộc, là tâm lý, là phong tục tập
quán, là cách cảm nghĩ của dân tộc, là những hình thức nghệ thuật truyền
thống ,v.v… Nớc ta có 54 dân tộc. Trong nền văn hóa đa dân tộc của nớc ta,
mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc riêng của mình. Giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc của tất cả các dân tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo nên sự phong phú đa dạng trong tính thống
nhất của nền văn hóa Việt Nam .
II /. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc .
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là chăm lo cho sự trờng tồn và
phát triển sức sống của dân tộc. Song đIều này khác hẳn xu hớng phục cổ nh
đã xảy ra gần đây ở nhiều nơI trong ma chay, cới xin, lễ hội. Trong bàI nói tại
Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ :
Nói khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tôt thì
phải loại dần ra. Xem ra thì năm nay tơng đối khá, còn nh năm ngoái, thì
khôi phục vốn cũ, thì khôi phục cả đồng bóng, rớc xách thần thánh. Vì khôi
phục nh thế, nên ở nông thôn nhiều nơi quên cả sản xuất, cứ trống mõ bì
bõm, ca hát lu bù …. Trong vốn cổ dân tộc, chúng ta giữ lấy và phát huy
những di sản nào, từ bỏ những di sản nào, điều đó không thể không đặt ra khi
10
Trong nền kinh tế tài chính mở nh nớc ta lúc bấy giờ luôn luôn có sự trao đổi giao lu vớithế giới trên mọi nghành nghề dịch vụ, trong đó có nghành văn hoá. Chúng ta không thểtránh khỏi việc gia nhập những phong tục tập quán của những nớc, những dân tộctrên quốc tế. Tuy nhiên, không cho nên vì thế mà tất cả chúng ta quên đi truyền thống lịch sử củađân tộc mình, cái gốc của mình. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộctrong thời kỳ nền kinh tế tài chính mở là rất là thiết yếu. ĐIều đó giúp tất cả chúng ta hoànhập chứ không hoà tan, không bị mất đi cái gốc của mình. Chúng ta một mặttiếp thu những nét tinh hoa trong văn hoá của những nớc, một mặt giữ gìn và pháthuy bản sắc dân tộc để làm cho đời sống niềm tin của tất cả chúng ta ngày càngphong phú hơn. * Tính tất yếu của việc điều tra và nghiên cứu đề tài : Đất nớc ta đang trong thời kỳ tiến lên kiến thiết xây dựng nền kinh tế tài chính mở, hội nhập vớiquốc tế. Tuy nhiên, việc hội nhập cũng có những mặt tích cực và xấu đi. Nếuchúng ta tiếp thu một cách không có tinh lọc, không có giám sát, tất cả chúng ta dễbị tiếp thu những cái không tốt, ảnh hởng đến đời sống văn hoá của nớc ta. Mặt khác, tất cả chúng ta còn lo lắng bị đánh mất truyền thống cuội nguồn dân tộc, chạy theocác nớc trên quốc tế, bị ảnh hởng trọn vẹn bởi nền văn hoá của những nớc khác. Chính cho nên vì thế, việc đặt ra những định hớng trong việc hội nhập, tiếp thunhững tinh hoa trong văn hoá của những nớc một cách có tinh lọc là điều hết sứccần thiết. Trong đó, bản sắc dân tộc giữ một vai trò không nhỏ trong việc hộinhập với quốc tế. Mỗi một vương quốc đều có những truyền thống cuội nguồn, những bảnsắc riêng của mình. Chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, mộtmặt để đem những tinh hoa của mình để giao lu với những nớc, một mặt giúpchúng ta hoà nhập chứ không hoà tan. Mỗi vương quốc đều có những bản sắc riêng của mình. Điều đó giúp chúng taphân biệt rõ mỗi một vương quốc. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một việctất yếu trong nền kinh tế tài chính mở lúc bấy giờ. Chúng ta có bản sắc dân tộc thì mới cóthể hội nhập, giao lu với quốc tế, mới có cái để giao lu. Nếu không giữ gìn đ-ợc bản sắc dân tộc, tất cả chúng ta sẽ lấy gì để hội nhập với quốc tế, khi đó chúng tasẽ bị nền văn hoá những nớc khác chi phối, không còn bản sắc riêng của mình. Với những nguyên do trên, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ tầm quan trọng của việc giữgìn và phát huy bản sắc dân tộc. Cũng vì vậy mà việc nghiên cứu và điều tra đề tài Bảnsắc dân tộc trong nền kinh tế tài chính mở là điều tất yếu và thiết yếu trong giai đoạnhiện nay. B / giảI quyết yếu tố. Chơng I. Quan niệm về bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nềnkinh tế mở. I /. Bản sắc văn hoá dân tộc là gì ? 1. Khái niệm : Bản sắc dân tộc gồm có những giá trị vững chắc, những tinh hoa của cộngđồng những dân tộc Nước Ta đợc vun đắp nên qua lịch sử dân tộc hàng năm đấu tranhdựng nớc và giữ nớc. Đó là lòng yêu nớc nồng nàn, ý chí tự cờng dân tộc, tinhthần đoàn kết cá thể – mái ấm gia đình – làng xã – Tổ quốc ; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính siêng năng, phát minh sáng tạo trong lao động ; sự tinh tếtrong ứng xử, tính giản dị và đơn giản trong lối sống … Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậmđà trong những hình thức biểu lộ mang tính dân tộc độc lạ. 2. Vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc : Bản sắc văn hoá dân tộc giữ vị trí rất quan trọng : a /. Chính bản sắc văn hoá dân tộc bảo vệ cho dân tộc sống sót, đứng vữngvà tăng trưởng qua những dịch chuyển của lịch sử vẻ vang. b /. Nhờ bản sắc văn hoá dân tộc, tất cả chúng ta biểu lộ đợc toàn vẹn sự hiện diệncủa một bản sắc trong giao lu với quốc tế. Mục tiêu của giao lu là thông quagiao lu với nền văn hoá mới, ta hội nhập với văn hoá quốc tế. Chỉ giữ đợc bảnsắc văn hoá dân tộc thì ta mới có điều kiện kèm theo giao lu bình đẳng với những nền vănhoá quốc tế. Còn sao chép, trở thành cái bóng, cái đuôi của ngời ta thìkhông còn có gì mà hội nhập bình đẳng. Trớc nhu yếu của thời kỳ tăng trưởng mới, trớc rủi ro tiềm ẩn đồng nhât về vănhoá thực ra là sự thống trị của văn hoá nớc lớn, nớc giàu thì bản sắc văn hoádân tộc có ý nghĩa cực kỳ lớn. 3. Bản sắc dân tộc – hệ giá trị. Văn hoá, theo UNESCO, là toàn diện và tổng thể những nét đặc trng tiêu biểu vượt trội nhất củamột xã hội biểu lộ trên mặt vật chất và niềm tin, tri thức và tình cảm. Vănhoá mang bản sắc dân tộc. – Bản sắc dân tộc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử vẻ vang sống sót và phát triểncủa nó, giúp cho dân tộc đó giữ đợc tính duy nhất ( tính độc lạ ), tínhthống nhất, tính đồng nhất so với bản thân mình. – Bản sắc dân tộc biểu lộ trong toàn bộ những nghành nghề dịch vụ của đời sống – ý thứcthuộc về một dân tộc ( cội nguồn ), cách t duy, cách sống, cách dựng n-ớc, giữ nớc, cách phát minh sáng tạo văn hoá, khoa học, văn nghệ. – Bản sắc dân tộc biểu lộ trong giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của mộtvăn hoá. Hệ giá trị là những gì nhân dân chăm sóc, tin tởng thuộc phạmvi tốt và xấu, mong ước hoặc không đáng tin tởng thuộc khoanh vùng phạm vi tốt vàxấu, mong ước hoặc không đáng mong ước. Nó là những giá trị vànhững niềm tin, mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. – Hệ giá trị biểu lộ trong t tởng triết học ( thế giới quan ) chính trị, vănhọc, nghệ thuật và thẩm mỹ, đạo đức, lối sống ( phong tục, tập quán ). – Hệ giá trị chuyển thành những chuẩn mực xã hội, nó định hớng cho sự lựachọn trong hành vi của con ngời, cá thể và hội đồng. Hệ giá trị có tính không thay đổi rất lớn và có tính bền vững và kiên cố tơng đối, có sức mạnhto lớn so với hội đồng. Trong sự văn minh và tăng trưởng của xã hội, những giátrị này thờng không biến mất mà hoá thân vào những giá trị của thời sau, theoquy luật thừa kế và tái tạo. Di sản văn hoá là những giá trị văn hóa do lịch sử vẻ vang để lại. Các giá trị này sẽ trởthành truyền thống cuội nguồn khi đợc thế hệ sau lựa chọn, tiếp đón, mô phỏng, làmsống lại. Đó là quan hệ giữa truyền thống cuội nguồn và tân tiến. Sự thích nghi của những giá trịcũ so với sự đổi khác của thời đại, là biểu lộ của tính liên tục văn hoá. II /. Bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế tài chính mở. 1. Chủ trơng của Đảng về yếu tố giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trongnền kinh tế tài chính mở. Nói dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc không hề tách khỏi quan hệ với thếgiới. Chúng ta đang tận mắt chứng kiến xu thế toàn cầu hoá đời sống loài ngời. Đó làxu thế khách quan, tất yếu mang tính thời đại, trớc hết trong nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính. Xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện kèm theo cho những vương quốc, dân tộc xích lại gần nhau, hiểu biết nhau, bổ trợ cho nhau, làm nhiều mẫu mã và tương hỗ lẫn nhau. Đất nớcta nhất định nắm lấy xu thế này coi nh là một thời cơ lớn, ra sức tận dụng mọiđiều kiện có lợi do xu thế ấy tạo ra, đặc biệt quan trọng để tranh thủ những năng lực vậtchất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm tay nghề và tri thức tân tiến rất cần thiếtcho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong xu thế toàn cầu hoá hiệnnay, không một vương quốc nào hoàn toàn có thể đứng khác biệt mà hoàn toàn có thể sống sót và pháttriển. Mặt khác, phải thấy toàn cầu hoá là một quy trình đầy xích míc phứctạp. Mặt tất yếu kỹ thuật – kinh tế tài chính là mặt tích cực, có lợi, ta phải tận dụng. Song, mặt khác không hề bỏ lỡ là mặt xã hội – kinh tế tài chính, mặt thực chất giai cấpcủa quy trình toàn thế giới hóa. Xét về mặt này, trên quốc tế lúc bấy giờ đang cónhững lực lợng nuôi tham vọng lớn toàn cầu hoá chủ nghĩa t bản, họ muốn ápđặt hệ giá trị của riêng họ lên cả toàn thế giới. Quên điều đó là ngây thơ về chínhtrị và trong thực tiễn không tránh khỏi phải trả giá đắt. Trong những điều kiện kèm theo nêu trên về xu thế toàn cầu hoá lúc bấy giờ, chúng tacàng thấy đờng lối lan rộng ra quan hệ quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ của Đảngta nói chung và nói riêng trong kiến thiết xây dựng và tăng trưởng nền văn hóa Việt Namvừa tiên tiến và phát triển vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là rất là đúng đắn và sángsuốt. Nghị quyết Họp Báo Hội nghị Trung ơng 5 chỉ rõ : phơng hớng chung, đồng thời lànhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa nớc ta là phát huy chủ nghĩa yêu nớcvà truyền thống cuội nguồn đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cờng xây dựngvà bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thiết kế xây dựng và tăng trưởng nền văn hoá ViệtNam tiên tiến và phát triển đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá nhânloại, làm cho văn hoá thấm sâu vào hàng loạt đời sống và hoạt động giải trí xã hội, vàotừng ngời, từng mái ấm gia đình, từng tập thể và hội đồng, từng địa phận dân c, vàomọi nghành nghề dịch vụ hoạt động và sinh hoạt và quan hệ con ngời, tạo nên trên đất nớc ta đời sốngtinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học tăng trưởng Giao hàng đắc lực sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì tiềm năng dân giàu, nớc mạnh, xã hộicông bằng văn minh, tiến bớc vững chãi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Trung ơng 5 Xây dựng và tăng trưởng nền văn hoá Nước Ta tiêntiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa cung ứng đúng những yên cầu bức xúc củacuộc sống vừa là định hớng chiến lợc cơ bản cho sự nghiệp thiết kế xây dựng, củng cốvà không ngừng tăng cờng nền tảng ý thức xã hội ta trên con đờng phấn đấuvì dân giàu nớc mạnh, xã hội công minh, văn minh, tiến bớc vững chãi lênchủ nghĩa xã hội. 2. Quan điểm về bản sắc văn hoá dân tộcBản sắc văn hoá dân tộc luôn có sự dịch chuyển, bổ trợ qua những thời kỳ lịchsử. Có giá trị đợc hình thành từ xa xa và luôn luôn vững chắc. Có giá trị đúnglúc trớc, nhng nay không thích hợp. Lại có giá trị mới nhng tương thích vớinguyện vọng dân tộc thì nhanh gọn có sức sống vững chắc. Chẳng hạn, cónhững giá trị mới từ 1976, cũng là mới hơn 30 năm nay, với lời lôi kéo củaChủ tịch Hồ Chí Minh, giá trị Không có gì quý hơn độc lập, tự do đãnghiễm nhiên trở thành giá trị văn hoá rất quan trọng của dân tộc ta. Bản sắc dân tộc nằm trong những nghành nghề dịch vụ nh kiến trúc, hội hoạ, văn chơng, âm nhạc … nhng đó là những yếu tố phức tạp, cần để những nhà chuyên mônnghiên cứu, bàn luận. Song đạo lý dân tộc là loại văn hoá vô hình dung, nhng làtinh tuý của bản sắc dân tộc, đợc vun đắp qua lịch sử vẻ vang truyền kiếp của dân tộc đợcxác định là : Lòng yêu nớc nồng nàn ; ý thức tự lập tự cờng, niềm tin đoàn kết, ý thứccộng đồng, gắn cá thể – mái ấm gia đình – làng xã – Tổ quốc ; Lòng nhân ái, tính khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý ; Đức tính chịu khó, phát minh sáng tạo trong lao động ; Sự tinh xảo trong c sử, giản dị và đơn giản trong lối sống … Cũng có quan điểm cho rằng, nhiều dân tộc trên quốc tế cũng có những giá trịtơng tự nh trên, vì sao ta lại coi đó là bản sắc của dân tộc mình ? Chúng ta chorằng, yếu tố quan trọng là những giá trị đó có đích thực là truyền thống lịch sử củachúng ta không ? Chứ không phải là ta đi tìm những gì chỉ có ta có mà dân tộckhác không có. Quan trọng là ta xác lập những chuẩn giá trị bản sắc dân tộcViệt Nam. Bản sắc dân tộc đợc bộc lộ cả trong nội dung và hình thức. Khi nói tới bản sắc dân tộc luôn luôn gắn bó với nhau nh trên đã trình diễn. Khi nói tới bản sắc văn hoá dân tộc cần tránh những khuynh hớng không đúng. Đó là : đóng cửa, thu mình, chỉ kh kh giữ bản sắc truyền thống cuội nguồn, khôngsáng tạo mới, không Open giao lu, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giớitrở thành dân tộc hẹp hòi, cực đoan, kiêu ngạo. Hoặc là mở toang cửakhông tinh lọc, bản sắc dân tộc bị chèn ép, lu mờ, trở thành nền văn hoáthiếu bản sắc. Hoặc phục sinh tổng thể kể cả những cáI lỗi thời, lỗi thời trong quákhứ, không còn thích hợp trong xã hội mới … Chơng II : Tại sao phải đa ra yếu tố giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộctrong thời kỳ nền kinh tế tài chính mở. I /. Tính tất yếu của việc thiết kế xây dựng nền văn hoá Nước Ta tiêntiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 1. Điều kiện xã hội : Thực trạng đời sống văn hoá nớc ta lúc bấy giờ không phải là yếu tố dễ nhìn nhận. Có ngời quá bi quan với tình hình cho là trong khi đời sống kinh tế tài chính có khá lêntừ thay đổi đến nay thì đời sống niềm tin lại sa sút nh cha khi nào có. Ngợclại, có ngời quá sáng sủa cho mọi sự đều tốt đẹp, những hiện tợng xấu đi làtự nhiên và không đáng kể. Thật ra, bức tranh không chỉ có một màu, hoặctoàn tối hoặc toàn sáng. Trớc hết, cần chứng minh và khẳng định đời sống văn hoá xã hội ta so với thời kỳ trớc có b-ớc tân tiến rõ ràng. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội – kinh tế tài chính và tính tíchcực công dân đợc khơi dậy và phát huy thay cho tâm ý thụ động, ỷ lại trongcơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằngdân trí đợc nâng cao, sở trờng, năng lượng cá thể con ngời đợc khuyến khích, tôn trọng. Những nét mới điển hình nổi bật ấy trong đời sống đợc phản ánh qua hoạtđộng khởi sắc, đa dạng và phong phú, phong phú trên những nghành nghề dịch vụ báo chí truyền thông, xuất bản, phátthanh, truyền hình, giáo dục, văn học, nghệ thuật và thẩm mỹ, v.v… Trong sự phongphú, phong phú và bộn bề của đời sống và hoạt động giải trí văn hoá, chủ nghĩa Mác – Lênin, t tởng Hồ Chí Minh đợc Đảng ta vận dụng và tăng trưởng phát minh sáng tạo vẫn lànền tảng t tởng và mục tiêu bảo vệ cho xã hội tăng trưởng đúng hớng. Kinhtế thị trờng và Open với bên ngoài làm sôi động nền kinh tế tài chính và những hoạtđộng xã hội, tăng trưởng giao lu hàng hoá, du lịch và những mẫu sản phẩm văn hoá, giúp nhân dân ta lan rộng ra chân trời hiểu biết và kến thức đảm nhiệm từ bốn ph-ơng. Các mặt trái của kinh tế thị trờng và Open, dù ảnh hưởng tác động kinh hoàng, đãkhông thể ngăn nổi nhân dân ta duy trì và tăng trưởng truyền thống cuội nguồn tốt đẹp, nhthấy tõ nhất vaò những dịp kỷ niệm lớn, hớng về cội nguồn, về cách mạng vàkháng chiến, tởng nhớ những anh hùng dân tộc, đền ơn đáp nghĩa những ngời cócông, giúp sức những ngời hoạn nạn … Đơng nhiên, bức tranh không chỉ toàn màu sáng. Nghị quyết Trung ơng 5 đãnghiêm khắc chỉ ra những mảng tối cùng nguyên do chủ quan. Đó là trạngthái xê dịch, thiếu tín nhiệm, giảm sút niềm tin lý tởng ở một số ít ngời, kể cả mộtbộ phận đảng viên, cán bộ. Đó là những hiện tợng suy thoái và khủng hoảng đạo đức, đặc biệtlà nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, gian lận thơng mại trớc sự tiến công củathói ích lỷ, chủ nghĩa cá thể, lối sống tiêu dùng, sức mạnh động tiền và chủnghĩa thực dụng. Đó là một số ít hiện tợng nhức nhối trớc đây không hề có trongquan hệ mái ấm gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn hữu, sự đảo lộn 1 số ít chuẩngiá trị và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là trong một bộ phận dân c, kể cả một sốthanh niên, học viên, sinh viên sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân tộc dân tộc, vềcác giá trị truyền thống cuội nguồn mà lịch sử vẻ vang và cách mạng đã xây nên trong khi đó lạiphục hồi không phân biệt tốt xấu những vốn cổ dân tộc đồng thời đi liền với tâmlý sùng ngoại đôi lúc đến mức mù quáng, không bình thường, kệch cỡm. Đó là những tệ nạnxã hội có chiều ngày càng tăng, sự đam mệ nhu yếu vật chất cùng những dục vọngthấp hèn, lối sống mặc kệ đạo lý, d luận xã hội và pháp lý đang xô đẩy mộtsố ngời đi vào con đờng phạm tội. Tất cả những hiện tợng trên đang làm vẩnđục môi trờng xã hội – văn hoá, gây bất bình trong nhân dân, làm xói mòn nềntảng niềm tin xã hội, tạo miếng đất phì nhiêu cho sự xâm nhập những sản phẩmvăn hóa ô nhiễm ngoại lai. 2. Xây dựng nền văn hoá Nước Ta tiên tiến và phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc. Trớc tình hình xã hội đã nghiên cứu và phân tích ở trên, việc tập trung chuyên sâu xâu dựng và pháttriển nền văn hoá Nước Ta tiên tiến và phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc, có tầm quantrọng đặc biệt quan trọng không chỉ cho hiện tại mà cả tơng lai Tổ quốc ta. Nhng nên vănhóa thế nào là tiên tiến và phát triển ? Thế nào là đậm đà bản sắc dân tộc ? a >. Nền văn hoá tiên tiếnĐọc Nghị quyết Trung ơng 5, ta hoàn toàn có thể hiểu nền văn hoá tiên tiến và phát triển có mấy đặctrng : Một là, yêu nớc. Hai là, văn minh. Ba là, có nội dung cốt lõi là lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dớiánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, t tởng Hồ Chí Minh. Bốn là, nhân văn : tổng thể vì con ngời … Năm là, tiên tiến và phát triển không riêng gì trong nội dung t tởng mà cả trong hình thứcbiểu hiện, trong những phơng tiện chuyển tải nội dung. Đất nớc ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế tài chính nhiều thành phần theo địnhhớng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục đích xâydựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội yên cầu kêu gọi tối đatiềm năng vật chất và niềm tin của cả dân tộc, của toàn bộ những thành phần kinhtế. Chủ nghĩa yêu nớc ở đây là một động lực cực kỳ to lớn. Nền văn hóa tiêntiến do đó trớc hết phải là một nền văn hoá yêu nớc. Có thể coi yêu nớc là tiénbộ đặc trng bao quát nhất củavăn hoá tiên tiến và phát triển. Yêu nớc là ý chí đa đất nớcthoát khỏi cảnh nghèo nàn, lỗi thời, phấn đấu vì dân giàu, nớc mạnh, xã hộicông bằng văn minh – đó là một nội dung t tởng lớn của nền văn hoá tiên tiến và phát triển. Gắn liền với yêu nớc là tân tiến. Nền văn hoá tiên tiến và phát triển phải là nền văn hoá kếttinh toàn bộ những gì là tân tiến, là chân, là thiện, là mỹ của dân tộc, của thờiđại, của loài ngời. Nếu đặc trng bao quát nhất của nền văn hoá tiên tiến và phát triển là yêu nớc, thì hạt nhâncốt lõi của nền văn hoá tiên tiến và phát triển là lý tởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hộidới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, t tởng Hồ Chí Minh. Nói văn hóa khôngthể không nói hệ t tởng. Vì hệ t tởng chi phối ý niệm về giá trị, chi phốiđạo đức, lối sống và hành vi con ngời. Đành rằng hệ t tởng không đồng nhấtvới văn hoá, không hề quy hàng loạt những giá trị văn hoá vào hệ t tởng ; nhng xétchung và xét cho cùng, trong xã hội có giai cấp, văn hóa khi nào cũng có cốttuỷ là hệ t tởng giai cấp. Vì vậy, thật sai lầm đáng tiếc nếu giống hệt hệ t tởng với vănhoá, bởi căn hoá có nội hàm rộng hơn nhiều so với hệ t tởng. Song, cũngphạm sai lầm đáng tiếc nghiêm trọng nếu phủ nhận vai trò hệ t tởng so với văn hoá, nhất là khi nói đến cả một nền văn hoá, cả một dòng văn hoá. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ : Lịch sử t tởng chứng tỏ cái gì, nếu không phải là chứngminh rằng sản xuất ý thức cũng biến hóa theo sản xuất vật chất ? Những ttởng thống trị cua tmột thời đại khi nào cũng chỉ là những t tởng của giai cấpthống trị. Là hệ t tởng mang thực chất giai cấp ( công nhân ) nh mọi hệ t tởng, nhngkhác với bất kể hệ t tởng nào khác, chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cáchmạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hoá trái đất, hớng vào giảiphóng toàn xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con ngời, khắc phục triệtđể thực trạng con ngời bị tha hoá, tạo điều kiện kèm theo tăng trưởng và không ngừng hoànthiện con ngời. Chủ nghĩa cộng sản trong thực chất của nó nh C. Mác nói, làchủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Nguyễn ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nớctruyền thống của dân tộc và những hiểu biết thâm thúy nhiều nền văn hoá lớnĐông Tây, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin nh một bớc ngoặt quyết định hành động hìnhthành t tởng Hồ Chí Minh. Sự gặp gỡ thần kỳ này đã sản sinh ta một nhân cách, hơn thế, một mẫu hình văn hoá mới, mẫu hình văn hoá của tơng lai nh nhàthơ Xô Viết Mandenxtam với một tình cảm đặc biệt quan trọng đã sớm mày mò từ năm1923 khi tiếp xúc với Bác. Nh vậy, thật là đúng chuẩn và tự nhiên khi Nghịquyết Trung ơng 5 nêu lên tiềm năng nền văn hóa tiên tiến và phát triển là tổng thể vì con ngời, vì niềm hạnh phúc và sự tăng trưởng phong phú và đa dạng, tự do, tổng lực con ngời trong mốiquan hệ hài hoà giữa cá thể và hội đồng, giữa xã hội và tự nhiên. ở đâylàtính nhân văn cao quý, trong đó giai cấp, dân tộc và quả đât, cá thể và xãhội, xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trờng chủ nghĩa Mác – Lênin, t t-ởng Hồ Chí Minh – hệ t tởng thấu suốt nền văn hoá mà tất cả chúng ta thiết kế xây dựng. Tính chất tiên tiến và phát triển của nền văn hoá còn phảI biểu lộ cả trong hình thức biểuhiện, trong những cơ sở vật chất kỹ thuật, phơng tiện để chuyển tảI nội dung. Ví dụ : trong phong thái văn chơng, trong công nghệ tiên tiến truyền hình, điẹn ảnh, trong mẫu mã kiến trúc, trong phong cách thiết kế những khu công trình tợng đàI, những khuvui chơi vui chơi, v.v… ở đây, tiên tiến và phát triển thờng có nghĩa là tân tiến, tuy nhiên khôngphải đã là văn minh thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không đợc nhầm lẫn hiệnđại với chủ nghĩa tân tiến tắc tị, bệnh hoạn, nhất là trong nghệ thuật và thẩm mỹ, vănthơ. b >. Nền văn hoá Nước Ta đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất tiên tiến và phát triển của nền văn hoá Nước Ta không tách rời bản sắc dântộc. Nói đến văn hoá là nói đến dân tộc. Văn hoá bắt rễ sâu trong đời sống dântộc qua trờng kỳ lịch sử vẻ vang. Văn hoá là bộ mặt ý thức của dân tộc. Bản sắc dântộc của văn hoá, nh ngời ta thờng nói, là cái căn cớc, cái chứng từ của mộtdân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai, thiéu nó, anh không sống sót nh một giá trị. Lịchsử mấy nghìn năm dựng nớc và giữ nớc đã hun đúc cho dân tộc ta biết bao giátrị truyền thống cuội nguồn tốt đẹp. Đó là chủ nghĩa yêu nớc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đaọ lý, là tính cố kết, hội đồng … Nhờ sức mạnh những giátrị đó, dân tộc Nước Ta đã thắng lợi bao thử thách khắc nghiệt của thiên tai, địch hoạ để sống sót và tăng trưởng nh ngày ngày hôm nay. Bảo vệ và phát huy bản sắcdân tộc của văn hoá trớc hết là bảo vệ và phát huy những giá trị niềm tin đó. Cố nhiên bản sắc dân tộc có cả nội dung và hình thức. Cùng với những giá trịtinh thần, bản sắc dân tộc của văn hoá còn đợc đặc trng bởi những phơng thứcbiểu hiện độc lạ. Đó là lời nói của dân tộc, là tâm ý, là phong tục tậpquán, là cách cảm nghĩ của dân tộc, là những hình thức thẩm mỹ và nghệ thuật truyềnthống, v.v… Nớc ta có 54 dân tộc. Trong nền văn hóa đa dân tộc của nớc ta, mỗi dân tộc bạn bè đều có bản sắc riêng của mình. Giữ gìn và phát huy bảnsắc dân tộc của toàn bộ những dân tộc bạn bè sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cảcộng đồng dân tộc Nước Ta, tạo nên sự nhiều mẫu mã phong phú trong tính thốngnhất của nền văn hóa Nước Ta. II /. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là chăm sóc cho sự trờng tồn vàphát triển sức sống của dân tộc. Song đIều này khác hẳn xu hớng phục cổ nhđã xảy ra gần đây ở nhiều nơI trong ma chay, cới xin, liên hoan. Trong bàI nói tạiHội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958, quản trị Hồ Chí Minh chỉ rõ : Nói Phục hồi vốn cũ, thì nên Phục hồi cái gì tốt, còn cái gì không tôt thìphải loại dần ra. Xem ra thì năm nay tơng đối khá, còn nh năm ngoái, thìkhôi phục vốn cũ, thì Phục hồi cả đồng bóng, rớc xách thần thánh. Vì khôiphục nh thế, nên ở nông thôn nhiều nơi quên cả sản xuất, cứ trống mõ bìbõm, ca hát lu bù …. Trong vốn cổ dân tộc, tất cả chúng ta giữ lấy và phát huynhững di sản nào, từ bỏ những di sản nào, điều đó không hề không đặt ra khi10
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục
Để lại một bình luận