Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biên chứng – Viện Pháp Luật Ứng Dụng Việt Nam

Trong chủ nghĩa Mac-Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và hoạt động, tăng trưởng theo qui luật của những sự vật, hiện tượng kỳ lạ, quy trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy .Biện chứng gồm có biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, trong đó biện chứng khách quan là biện chứng của quốc tế vật chất ; còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người .Theo Ăngghen : “ Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong hàng loạt giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là sự phản ánh sự chi phối, trong hàng loạt giới tự nhiên … ”

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.

b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

Phép biện chứng đã tăng trưởng qua ba hình thức cơ bản : phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ xưa Đức và phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mac-Lênin .

Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” và “ngũ hành luận” của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học phật giáo, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, ‘nhân duyên”… Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ăngghen viết: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tụ phát, bẩm sinh, và Aristote, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thái căn bản nhất của tư duy biện chứng…Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất là đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Heraclite trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”. Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính ngây thơ, chất phác, tự phát và trừu tượng. Ăngghen nhận xét rằng: “Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần túy tự nhiên, chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, không phải dựa trên những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.

Từ cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên mở màn tăng trưởng mạnh, đi sâu vào nghiên cứu và phân tích, điều tra và nghiên cứu từng yếu tố riêng không liên quan gì đến nhau của quốc tế tự nhiên, dẫn tới sự sinh ra của giải pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, chiêu thức siêu hình trở thành giải pháp thống trị trong tư duy triết học và điều tra và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc điều tra và nghiên cứu đối tượng người dùng riêng không liên quan gì đến nhau sang điều tra và nghiên cứu quy trình thống nhất của những đối tượng người tiêu dùng đó trong mối liên hệ thì chiêu thức tư duy siêu hình không còn tương thích mà phải chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng .

Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Kant và hoàn thiện ở Hégel. Theo Ăngghen: “Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hégel”.

Các nhà triết học cổ xưa Đức đã trình diễn những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có mạng lưới hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hégel biểu lộ ở chỗ ông coi biện chứng là quy trình tăng trưởng khởi đầu của “ ý niệm tuyệt đôí ”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hégel, “ ý niệm tuyệt đối ” là điểm khởi đầu của sống sót, tự “ tha hóa ” thành giới tự nhiên và trở lại với bản thân nó trong sống sót ý thức. “ Tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn quốc tế hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm ”. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh điểm nhất là Hégel, đã thiết kế xây dựng phép biện chứng duy tâm với mạng lưới hệ thống phạm trù, qui luật chung, có logic ngặt nghèo của ý thức, ý thức. Lênin cho rằng : “ Hégel đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm ”. Ăngghen cũng nhấn mạnh vấn đề tư tưởng của Mác : “ đặc thù thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hégel tuyệt nhiên không ngăn cản Hégel trở thành người tiên phong trình diễn một cách bao quát và có ý thức những hình thái hoạt động chung của phép biện chứng. Ở Hégel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hài hòa và hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó ” .
Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ xưa Đức, cũng như trong triết học Hégel là hạn chế cần phải vượt qua. Mác và Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để phát minh sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là quá trình tăng trưởng cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử dân tộc triết học, là sự thừa kế trên niềm tin phê phán so với phép biện chứng cổ xưa Đức. Ăngghen tự nhận xét : “ “ … hoàn toàn có thể nói rằng hầu hết chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong ý niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử dân tộc ” .

Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: banquyen.vpludvn@gmail.com; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: nhantailieu.vpludvn@gmail.com. Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận