Đặc trưng của văn hóa Việt Nam

Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hóa khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hóa Đông Sơn.

Cộng đồng văn hóa ấy phát triển cao so với các nền văn hóa khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hóa vùng Đông Nam Á, vì có chung chủng gốc Nam Á (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước.

Những con đường phát triển khác nhau của văn hóa bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả…) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hóa Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước “phôi thai” đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.

Giai đoạn văn hóa Văn Lang-Âu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao nhất của lịch sử văn hóa Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.

Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại hai xu hướng Hán hóa và chống Hán hóa, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hóa Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý-Trần và Lê, văn hóa Việt Nam được gây dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng to lớn của Phật giáo và Nho giáo.

Sau thời kì hỗn độn Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hóa dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hóa phương Tây bắt đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp thuộc là sự xen cài về văn hóa giữa hai xu hướng Âu hóa và chống Âu hóa, là sự đấu tranh giữa văn hóa yêu nước với văn hóa thực dân.

Giai đoạn văn hóa Việt Nam hiện đại được hình thành kể từ những năm 20-30 của thế kỷ này, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hóa Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới.

Có thể nói xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hóa dân tộc.

Văn hóa dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước…) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam.

Tuy nhiên, điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hóa và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ… Cùng cội nguồn văn hóa Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hóa Hán, nền văn hóa Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hóa Đông Á.

Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải thực hiện các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc.

Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế – xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công trình văn hóa-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn.

Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hóa Việt-Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hóa đặc sắc khác như Tà-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Môn-Khmer, H’Mông-Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên.

Khái quát về các lĩnh vực văn hóa chủ yếu:

Triết học và tư tưởng

Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hóa du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt chú tâm đến các mối quan hệ mà sản phẩm điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và biểu hiện cụ thể rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà.

Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hóa đã góp phần vào sự phát triển của xã hội và văn hóa Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học mà Phật giáo đặt ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết…) một cách độc đáo, riêng biệt.

Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng mà họ tiếp nhận cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thóat, phóng khoáng, gần gũi nhân dân và hòa với thiên nhiên hơn.

Ở các triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên cơ sở kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc.

Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp Việt Nam là tư tưởng nông dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu cho con người Việt Nam truyền thống. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua các cuộc kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa quân, mà đỉnh cao là người anh hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18.

Chính sách trọng nông ức thương, chủ yếu dưới triều Nguyễn, khiến cho ý thức thị dân chậm phát triển. Việt Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, thương nhân bị khinh rẻ, các nghề khác thường bị coi là nghề phụ, kể cả hoạt động văn hóa.

Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Trung Hoa suy thoái, thì văn hóa phương Tây bắt đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Giai cấp công nhân hình thành vào đầu thế kỉ 20 theo chương trình khai thác thuộc địa.

Tư tưởng Mác-Lênin được du nhập vào Việt Nam những năm 20-30 kết hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực biến đổi lịch sử đưa đất nước tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời đại này là Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng và danh nhân văn hóa được quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc yếu ớt chỉ tiến hành được một số cuộc cải cách bộ phận ở nửa đầu thế kỉ 20.

Như vậy, Việt Nam không có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế, nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng phù hợp với dân tộc mình.

Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp (dualisme), một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi.

Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng). Đó là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân bình, dựa dẫm các mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử.

Trong các bậc thang giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Nguyễn Trãi từng diễn tả quan niệm Nhân Nghĩa của người Việt – đối lập với cường bạo, nâng lên thành cơ sở của đường lối trị nước và cứu nước. Việt Nam hiểu chữ Trung là Trung với nước, cao hơn Trung với vua, trọng chữ Hiếu nhưng không quá bó hẹp trong khuôn khổ gia đình. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang.

Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập thế giới, sẽ phải phấn đấu khắc phục một số nhược điểm trong văn hóa truyền thống; kém tư duy lôgíc và khoa học kỹ thuật; đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa phương, hẹp hòi; tư tưởng bình quân; xu hướng phủ định cá nhân, san bằng cá tính; tệ ưa sùng bái và thần thánh hóa; thói chuộng từ chương hư danh, yếu về tổ chức thực tiễn…

Phong tục tập quán

Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, “có thực mới vực được đạo”, “trời đánh còn tránh bữa ăn”. Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.

Người Việt hay dùng các chất liệu vải có nguồn gốc thực vật, mỏng, nhẹ, thóang, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta (quần Tàu cải biến). Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung, phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xã hội “cái nết đánh chết cái đẹp”. Trang phục cũ cũng chú ý đến khăn, nón, thắt lưng.

Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước (nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệu chủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm “rộng nhà không bằng rộng bụng”. Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiên nhiên.

Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyền các loại là hình ảnh thân quen của cảnh quan địa lý-nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước.

Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Nam đều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót và tiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ.

Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo… Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới…), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe…).

Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa). Lễ hội có 2 phần, phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.

Tín ngưỡng và tôn giáo

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín ngưỡng phồn thực.

Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ (khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam) và thờ cả hành vi giao phối (người và thú, ngay ở Đông Nam Á cũng ít có dân tộc thờ việc này). Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí các nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn các trống đồng cổ.

Nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật và thực vật. Một cuốn sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) đã liệt kê được 75 nữ thần, chủ yếu là các bà mẹ, các Mẫu (không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài ra là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông v.v…).

Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hóa du mục, đặc biệt là thờ các loài vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu.

Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam (trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng (thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc đã sinh hay mất ở làng).

Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường).

Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống.

Phật giáo (Tiểu thừa) có thể đã được du nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế kỉ 2 sau Công nguyên. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thóat tục. Khi Phật giáo (Đại thừa) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm.

Thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa mang tính chất “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba tôn giáo cùng tồn tại). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiết với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn có tới 3 triệu tín đồ xuất gia và khoảng 10 triệu người thường xuyên vãn chùa lễ Phật.

Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới có thể xem là được tiếp nhận chính thức. Thế kỉ 15, do nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê.

Nho giáo, chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ – nhất là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống.

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ. Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão-Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo không tồn tại nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian.

Kitô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hóa phương Tây và của chủ nghĩa thực dân. Nó tranh thủ được cơ hội thuận lợi: chế độ phong kiến khủng hoảng, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi tinh thần cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài không hoà đồng được với văn hóa Việt Nam. Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng 5 triệu tín đồ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành.

Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.

Ngôn ngữ

Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn cả: tiếng Việt thuộc dòng Môn-Khmer của ngữ hệ Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được chứng minh có gốc Môn-Khmer và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường.

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngôn ngữ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm.

Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngôn ngữ văn hóa phương Tây.

Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hóa quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng.

Đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ cụ thể, phong phú, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển đổi, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học nghệ thuật. Tự điển tiếng Việt xuất bản năm 1997 gồm 38410 mục từ.

Văn học

Phát triển song song, tác động qua lại sâu sắc: Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam, có công lớn gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao… với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam.

Văn học viết ra đời từ khoảng thế kỉ 10. Cho đến đầu thế kỉ 20 cũng có hai bộ phận song song tồn tại: chữ Hán (có thơ, văn xuôi, thể hiện tâm hồn, hiện thực Việt Nam nên vẫn là văn chương Việt Nam) và chữ Nôm (hầu như chỉ có thơ, lưu truyền lại nhiều tác phẩm lớn).

Từ những năm 20 của thế kỉ 20, văn học viết chủ yếu sáng tác bằng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ, có sự cách tân sâu sắc về các hình thức thể loại như tiểu thuyết, thơ mới, truyện ngắn, kịch… và sự đa dạng về xu hướng nghệ thuật, đồng thời phát triển với tốc độ nhanh, nhất là sau Cách mạng tháng Tám đi theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân.

Có thể nói ở Việt Nam, hầu như cả dân tộc sính thơ, yêu thơ, làm thơ – từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến sau này nhiều cán bộ cách mạng – và một cô thợ cấy, một cụ lái đò, một anh lính chiến đều thuộc dăm câu lục bát, thử một bài vè.

Về nội dung, chủ lưu là dòng văn chương yêu nước bất khuất chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn chương phản phong kiến thường thông qua thân phận người phụ nữ. Phê phán các thói hư tật xấu của xã hội cũng là mảng đề tài quan trọng. Các thi hào dân tộc lớn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Văn học Việt Nam hiện đại phát triển từ lãng mạn đến hiện thực, từ âm hưởng chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh đang chuyển sang mở rộng ra toàn diện cuộc sống, đi vào đời thường, tìm kiếm các giá trị đích thực của con người.

Văn học cổ điển đã tạo nên những kiệt tác như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung óan ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)… Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây bút nữ độc đáo: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan.

Văn xuôi hiện đại có những tác giả không thể nói là thua kém thế giới: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Bên cạnh đó là những nhà thơ đặc sắc như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu… Tiếc rằng hiện nay chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và xứng đáng đất nước và thời đại.

Nghệ thuật

Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng…). Bộ hơi phổ biến là sáo, khèn, còn bộ dây độc đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy.

Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý, ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù.

Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ.

Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam nói chung đều mang tính biểu trưng, biểu cảm, dùng thủ pháp ước lệ, giầu chất trữ tình. Sân khấu truyền thống giao lưu mật thiết với người xem và tổng hợp các loại hình ca múa nhạc. Múa Việt Nam ít động tác mạnh mẽ mà đường nét uốn lượn mềm mại, chân khép kín, múa tay là chính.

Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời rất sớm có niên đại 10000 năm trước Công nguyên. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ nghệ thuật cao. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam chú trọng diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh.

Đã có 2014 di tích văn hóa, lịch sử được Nhà nước công nhận và 2 di tích là cố đô Huế, Vịnh Hạ Long được quốc tế công nhận. Kiến trúc cổ còn lại chủ yếu là một số chùa-tháp đời Lý-Trần; cung điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách-lăng tẩm đời Nguyễn và những ngọn tháp Chàm.

Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hóa phương Tây, nhất là sau khi nước nhà độc lập, các loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, nhiếp ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và cách mạng.

Cho nên đến giữa năm 1997, đã có 44 người hoạt động văn hóa-nghệ thuật được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, 130 người được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, 1011 người được tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, đặc biệt có hai người được nhận giải thưởng quốc tế về âm nhạc là Đặng Thái Sơn (Giải âm nhạc Chopin) và Tôn Nữ Nguyệt Minh (Giải âm nhạc Tchaikovski).

Tính đến đầu năm 1997, cả nước có 191 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và 26 xưởng phim, hãng phim, kể cả trung ương và địa phương. Đã có 28 phim truyện, 49 phim thời sự-tài liệu và khoa học được nhận giải thưởng quốc tế ở nhiều nước.

Văn hóa dân tộc cổ truyền hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đứng trước những thách thức gay gắt của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa. Nhiều ngành văn hóa nghệ thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cách tân.

Hơn bao giờ hết đặt ra vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, vấn đề lựa chọn các giá trị cũ, xây dựng các giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hóa mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc. Công cuộc đổi mới văn hóa đang tiếp tục..

Việt Nam có một nền văn hoá rực rỡ, truyền kiếp gắn liền với lịch sử vẻ vang hình thành và tăng trưởng của dân tộc bản địa .

Các nhà sử học thống nhất ý kiến ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á, vì có chung chủng gốc Nam Á (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả v.v…) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước “phôi thai” đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.

Múa lân

Giai đoạn văn hoá Văn Lang – Âu Lạc: (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước CN) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định.

Sau quá trình chống Bắc thuộc có đặc trưng hầu hết là song song sống sót hai khuynh hướng Hán hoá và chống Hán hoá, quá trình Đại Việt ( từ thế kỉ 10 đến 15 ) là đỉnh điểm thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua những triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc những triều Lý – Trần và Lê, văn hoá Việt Nam được kiến thiết xây dựng lại tổng lực và thăng hoa nhanh gọn có sự tiếp thu ảnh hưởng tác động to lớn của Phật giáo và Nho giáo .
Sau thời kì hỗn độn Lê – Mạc và Trịnh – Nguyễn chia cắt quốc gia, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hoá dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương Tây khởi đầu xâm nhập nước ta. Kéo dài cho tới khi kết thúc chính sách Pháp thuộc là sự xen cài về văn hoá giữa hai xu thế Âu hoá và chống Âu hoá, là sự đấu tranh giữa văn hoá yêu nước với văn hoá thực dân .
Giai đoạn văn hoá Việt Nam tân tiến được hình thành kể từ những năm 20 – 30 của thế kỷ này, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác – Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh quốc tế tân tiến, đồng thời giữ gìn, phát huy truyền thống dân tộc bản địa, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh điểm lịch sử dân tộc mới .
Có thể nói xuyên suốt hàng loạt lịch sử vẻ vang Việt Nam, đã có ba lớp văn hoá chồng lên nhau : lớp văn hoá địa phương, lớp văn hoá giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hoá giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc thù chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hoá địa phương vững chãi nên đã không bị tác động ảnh hưởng văn hoá ngoại lai đồng hoá, trái lại còn biết sử dụng và Việt hoá những ảnh hưởng tác động đó làm giầu cho nền văn hoá dân tộc bản địa .
Văn hoá dân tộc bản địa Việt Nam phát sinh từ một môi trường tự nhiên sống đơn cử : xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên ( nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước … ) đã tác động ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hoá vật chất và niềm tin của dân tộc bản địa, đến tính cách, tâm ý con người Việt Nam. Tuy nhiên điều kiện kèm theo xã hội và lịch sử dân tộc lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hoá và tâm ý dân tộc bản địa. Cho nên cùng là dân cư vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm độc lạ về văn hoá giữa Việt Nam với Vương Quốc của nụ cười, Lào, Indonesia, Ấn Độ v.v… Cùng cội nguồn văn hoá Khu vực Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu bền hơn của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hoá Hán, nền văn hoá Việt Nam đã biến hóa theo hướng mang thêm những đặc thù văn hoá Đông Á .
Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải làm những cuộc cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hoá điển hình nổi bật : tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi nghành. Các yếu tố hội đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở tăng trưởng chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc bản địa. Chiến tranh liên miên, đó cũng là nguyên do đa phần khiến cho lịch sử dân tộc tăng trưởng xã hội Việt Nam có tính không bình thường, toàn bộ những cấu trúc kinh tế tài chính – xã hội thường bị cuộc chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự tăng trưởng chín muồi. Cũng vì cuộc chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những khu công trình văn hoá-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn .
Việt Nam gồm 54 dân tộc bản địa cùng chung sống trên chủ quyền lãnh thổ, mỗi dân tộc bản địa một sắc thái riêng, cho nên vì thế văn hoá Việt Nam là một sự thống nhất trong phong phú. Ngoài văn hoá Việt – Mường mang tính tiêu biểu vượt trội, còn có những nhóm văn hoá rực rỡ khác như Tày – Nùng, Thái, Chàm, Hoa – Ngái, Môn – Khơme, H’Mông – Dao, nhất là văn hoá những dân tộc bản địa Tây Nguyên giữ được những truyền thống lịch sử khá phong phú và đa dạng và tổng lực cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên. Dưới đây là cái nhìn khái quát về những nghành văn hoá đa phần :

1. Triết học và tư tưởng

Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác với gốc văn hoá du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có tương quan nhiều với những hiện tượng kỳ lạ tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt quan trọng chú tâm đến những mối quan hệ mà mẫu sản phẩm nổi bật là thuyết âm khí và dương khí ngũ hành ( không trọn vẹn giống Trung Quốc ) và bộc lộ đơn cử rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà .
Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tác động tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hoá đã góp thêm phần vào sự tăng trưởng của xã hội và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt những nhà Thiền học đời Trần đã tâm lý và kiến giải hầu hết những yếu tố triết học mà Phật giáo đặt ra ( Tâm-Phật, Không-Có, Sống-Chết … ) một cách độc lạ, riêng không liên quan gì đến nhau. Tuy Nho học về sau thịnh vượng, nhiều danh nho Việt Nam cũng không nghiên cứu và điều tra Khổng-Mạnh một cách câu nệ, mù quáng, mà họ tiếp đón cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư tưởng họ có phần thanh thoát, phóng khoáng, thân mật nhân dân và hoà với vạn vật thiên nhiên hơn .
Ở những triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính hội đồng nguyên thuỷ vẫn sống sót trên cơ sở kinh tế tài chính nông nghiệp tự cấp tự cung tự túc. Cắm rễ sâu trong xã hội nông nghiệp Việt Nam là tư tưởng nông dân có nhiều nét tích cực và tiêu biểu vượt trội cho con người Việt Nam truyền thống lịch sử. Họ là nòng cốt chống ngoại xâm qua những cuộc kháng chiến và nổi dậy. Họ sản sinh ra nhiều tướng lĩnh có tài, lãnh tụ nghĩa quân, mà đỉnh điểm là người anh hùng áo vải Quang Trung-Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18 .
Chính sách trọng nông ức thương, đa phần dưới triều Nguyễn, khiến cho ý thức thị dân chậm tăng trưởng. Việt Nam xưa kia coi trọng nhất nông nhì sĩ, hoặc nhất sĩ nhì nông, thương nhân bị khinh rẻ, những nghề khác thường bị coi là nghề phụ, kể cả hoạt động giải trí văn hoá .
Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Nước Trung Hoa suy thoái và khủng hoảng, thì văn hoá phương Tây khởi đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Giai cấp công nhân hình thành vào đầu thế kỉ 20 theo chương trình khai thác thuộc địa. Tư tưởng Mác-Lênin được gia nhập vào Việt Nam những năm 20-30 tích hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực đổi khác lịch sử dân tộc đưa quốc gia tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tiêu biểu cho thời đại này là Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc bản địa, nhà tư tưởng và danh nhân văn hoá được quốc tế thừa nhận. Giai cấp tư sản dân tộc bản địa yếu ớt chỉ triển khai được một số ít cuộc cải cách bộ phận ở nửa đầu thế kỉ 20 .
Như vậy, Việt Nam không có một mạng lưới hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế. Nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng tương thích với dân tộc bản địa mình .
Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính hội đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ lê dài đã tạo ra tính cách đặc trưng của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp ( dualisme ), một cách tư duy đơn cử, thiên về kinh nghiệm tay nghề cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh động, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước ( vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng ). Đó là một cách hành vi theo xu thế xử lý dung hoà, quân bình, lệ thuộc những mối quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử dân tộc .
Trong những bậc thang giá trị ý thức, Việt Nam tôn vinh chữ Nhân, tích hợp ngặt nghèo Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa tương quan với thất đức. Nguyễn Trãi từng miêu tả ý niệm Nhân Nghĩa của người Việt – trái chiều với cường bạo, nâng lên thành cơ sở của đường lối trị nước và cứu nước. Việt Nam hiểu chữ Trung là Trung với nước, cao hơn Trung với vua, trọng chữ Hiếu nhưng không quá bó hẹp trong khuôn khổ mái ấm gia đình. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang .

Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập thế giới, sẽ phải phấn đấu khắc phục một số nhược điểm trong văn hoá truyền thống; kém tư duy lôgích và khoa học kỹ thuật; đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa phương, hẹp hòi; tư tưởng bình quân; xu hướng phủ định cá nhân, san bằng cá tính; tệ ưa sùng bái và thần thánh hoá; thói chuộng từ chương hư danh, yếu về tổ chức thực tiễn…

2. Phong tục tập quán

Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiên là ăn, có thực mới vực được đạo, trời đánh còn tránh bữa ăn. Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc là cách nấu ăn rực rỡ của Việt Nam. Nhưng phương pháp chế biến món ăn lại giầu tính tổng hợp, tích hợp nhiều vật liệu và gia vị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà .

Lễ hội đâm trâu

Người Việt hay dùng những vật liệu vải có nguồn gốc thực vật, mỏng mảnh, nhẹ, thoáng, tương thích xứ nóng, với những sắc màu nâu, chàm, đen. Trang phục phái mạnh tăng trưởng từ đóng khố ở trần đến áo cánh, quần ta ( quần Tàu cải biến ). Nữ giới xưa thông dụng mặc yếm, váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài văn minh. Nói chung, phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín kẽ trong một xã hội ” cái nết đánh chết cái đẹp “. Trang phục cũ cũng quan tâm đến khăn, nón, thắt lưng .
Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với thiên nhiên và môi trường sông nước ( nhà sàn, mái cong ). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật tư đa phần là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhất là hướng nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhà cũng không rộng quá để nhường diện tích quy hoạnh cho sân, ao, vườn cây. Vả lại, người Việt Nam quan niệm ” rộng nhà không bằng rộng bụng “. Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với vạn vật thiên nhiên .
Phương tiện đi lại truyền thống hầu hết là đường thuỷ. Con thuyền những loại là hình ảnh thân quen của cảnh sắc địa lý – nhân văn Việt Nam, cùng với dòng sông, bến nước .
Các phong tục hôn nhân gia đình, tang ma, lễ tết, tiệc tùng của Việt Nam đều gắn với tính hội đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ là nhu yếu đôi lứa mà còn phải cung ứng quyền hạn của gia tộc, mái ấm gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trải qua nhiều lễ từ giạm ngõ, đám cưới, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lại mặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viên của làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, bộc lộ thương xót và tiễn đưa người thân trong gia đình qua bên kia quốc tế, không riêng gì do mái ấm gia đình lo mà hàng xóm láng giềng tận tình trợ giúp .
Việt Nam là quốc gia của liên hoan quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo … Mỗi vùng thường có liên hoan riêng, quan trọng nhất là những tiệc tùng nông nghiệp ( cầu mưa, xuống đồng, cơm mới … ), những tiệc tùng nghề nghiệp ( đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe … ). Ngoài ra là những liên hoan kỉ niệm những bậc anh hùng có công với nước, những liên hoan tôn giáo và văn hoá ( hội chùa ). Lễ hội có 2 phần : phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn, phần hội là hoạt động và sinh hoạt văn hoá hội đồng gồm nhiều game show, cuộc thi dân gian .

3. Tín ngưỡng và tôn giáo

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm :

Lễ hội đền Đô

Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần xanh tươi để duy trì và tăng trưởng sự sống, nên đã phát sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó sống sót lâu bền hơn, dưới hai dạng bộc lộ : thờ sinh thực khí nam và nữ ( khác với ấn Độ chỉ thờ sinh thực khí nam ) và thờ cả hành vi giao phối ( người và thú, ngay ở Khu vực Đông Nam Á cũng ít có dân tộc bản địa thờ việc này ). Dấu tích trên còn để lại ở nhiều di vật tượng và chân cột đá, trong trang trí những nhà mồ Tây Nguyên, trong 1 số ít phong tục và điệu múa, rõ nhất là ở hình dáng và hoa văn những trống đồng cổ .
Nông nghiệp trồng lúa nước nhờ vào vào nhiều yếu tố tự nhiên đã đưa đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Ở Việt Nam, đó là tín ngưỡng đa thần và coi trọng nữ thần, lại thờ cả động vật hoang dã và thực vật. Một cuốn sách điều tra và nghiên cứu ( xuất bản năm 1984 ) đã liệt kê được 75 nữ thần, hầu hết là những bà mẹ, những Mẫu ( không những có Ông Trời, mà còn có Bà Trời tức Mẫu Cửu Trùng, ngoài những là Mẫu Thượng Ngàn, Bà chúa Sông v.v… ). Về thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật hoang dã, thiên về thờ thú hiền như hươu, nai, cóc, không thờ thú dữ như văn hoá du mục, đặc biệt quan trọng là thờ những loài vật thông dụng ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu. Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống Tiên Rồng ( Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng hoá một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hoá từ rắn, cá sấu ). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc lạ đầy ý nghĩa của dân tộc bản địa Việt Nam .
Trong tín ngưỡng sùng bái con người, thông dụng nhất là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam ( trong Nam bộ gọi là Đạo Ông Bà ). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần quản lý che chở cho cả làng ( thường tôn vinh những ngươì có công khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc những anh hùng dân tộc bản địa đã sinh hay mất ở làng ). Cả nước thờ vua tổ, có ngày giỗ tổ chung ( Hội đền Hùng ). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc bản địa : Thánh Tản Viên ( chống lụt ), Thánh Gióng ( chống ngoại xâm ), Chử Đồng Tử ( nhà nghèo cùng vợ ngoan cường thiết kế xây dựng cơ nghiệp giầu có ), bà Chúa Liễu Hạnh ( công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao niềm hạnh phúc thông thường ) .
Mặc dù có trường hợp dẫn tới mê tín dị đoan dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào những tôn giáo chính thống .
Phật giáo ( Tiểu thừa ) hoàn toàn có thể đã được gia nhập trực tiếp từ ấn Độ qua đường thủy vào Việt Nam khoảng chừng thế kỉ 2 sau CN. Phật giáo Việt Nam không xuất thế mà nhập thế, gắn với phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục. Khi Phật giáo ( Đại thừa ) từ Trung Quốc vào nước ta, tăng lữ Việt Nam mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần hình thành những tôn phái riêng như Thiền Tông Trúc Lâm tôn vinh Phật tại tâm. Thời Lý – Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn tiếp đón cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hoá mang đặc thù ” Tam giáo đồng nguyên ” ( cả ba tôn giáo cùng sống sót ). Qua nhiều bước thăng trầm, đạo Phật trở nên thân thiện với người Việt Nam, thống kê năm 1993 cho biết vẫn có tới 3 triệu Fan Hâm mộ xuất gia và khoảng chừng 10 triệu người liên tục vãn chùa lễ Phật .
Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, đến năm 1070 Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử mới hoàn toàn có thể xem là được đảm nhiệm chính thức. Thế kỉ 15, do nhu yếu kiến thiết xây dựng quốc gia thống nhất, chính quyền sở tại tập trung chuyên sâu, xã hội trật tự, Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê. Nho giáo, hầu hết là Tống Nho, bám chắc vào chính sách chính trị – xã hội, vào chính sách học tập khoa cử, vào những tầng lớp nho sĩ, dần sở hữu đời sống ý thức xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng không liên quan gì đến nhau – nhất là về chính trị – đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả mạng lưới hệ thống .
Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam khoảng chừng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô vi mang tư tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức con người và tín ngưỡng nguyên thuỷ. Nhiều nhà nho cũ mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão – Trang. Nhưng từ lâu Đạo giáo như một tôn giáo không sống sót nữa, chỉ còn để lại di sản trong tin ngưỡng dân gian .
Ki-tô giáo đến Việt Nam vào thế kỉ 17 như một khâu môi giới trung gian của văn hoá phương Tây và của chủ nghĩa thực dân. Nó tranh thủ được thời cơ thuận tiện : chính sách phong kiến khủng hoảng cục bộ, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi ý thức cho một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời hạn dài không hoà đồng được với văn hoá Việt Nam. Trái lại, nó buộc phải để giáo dân lập bàn thờ cúng trong nhà. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc bản địa, nó mới đứng được ở Việt Nam. Năm 1993 có khoảng chừng 5 triệu Fan Hâm mộ công giáo và gần nửa triệu tín đố Tin Lành .
Các tôn giáo bên ngoài gia nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian địa phương mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thông dụng. Tính đa thần, dân chủ, hội đồng được biểu lộ ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ rằng chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong những chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam .

4. Ngôn ngữ

Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn cả : tiếng Việt thuộc dòng Môn-Khơme của ngữ hệ Khu vực Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt – Mường ( hay tiếng Việt cổ ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt văn minh, có nhiều từ được chứng tỏ có gốc Môn-Khơme và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường .
Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới những triều đại phong kiến, ngôn từ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời hạn tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và tăng trưởng. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán – Việt. Và được Việt hoá bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt tăng trưởng đa dạng và phong phú đi đến sinh ra mạng lưới hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm .
Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị vô hiệu, thay thế sửa chữa bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn từ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn thuần về hình thể cấu trúc, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt văn minh thực sự hình thành, tiếp đón thuận tiện những tác động ảnh hưởng tích cực của ngôn từ văn hoá phương Tây. Chữ quốc ngữ là loại sản phẩm của 1 số ít giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với 1 số ít người Việt Nam dựa vào bộ vần âm Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được triển khai xong, phổ cập, trở thành công cụ văn hoá quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ .
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được vị thế duy nhất, tăng trưởng dồi dào, là ngôn từ đa năng dùng trong mọi nghành, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực đời sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, 1 số ít dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng .
Đặc điểm của tiếng Việt : đơn âm nhưng vốn từ đơn cử, đa dạng chủng loại, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt phù hợp, uyển chuyển, sôi động, dễ quy đổi, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận tiện cho phát minh sáng tạo văn học thẩm mỹ và nghệ thuật. Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1997 gồm 38410 mục từ .

5. Văn học

Phát triển song song, ảnh hưởng tác động qua lại thâm thúy : Văn học Việt Nam Open khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam, có công lớn gìn giữ tăng trưởng ngôn từ dân tộc bản địa, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Sáng tác dân gian gồm truyền thuyết thần thoại, sử thi, thần thoại cổ xưa, cổ tích, truyện cười, câu đố, tục ngữ, ca dao … với nhiều sắc tố những dân tộc bản địa ở Việt Nam .
Văn học viết sinh ra từ khoảng chừng thế kỉ 10. Cho đến đầu thế kỉ 20 cũng có hai bộ phận song song sống sót : chữ Hán ( có thơ, văn xuôi, bộc lộ tâm hồn, hiện thực Việt Nam nên vẫn là văn chương Việt Nam ) và chữ Nôm ( phần nhiều chỉ có thơ, lưu truyền lại nhiều tác phẩm lớn ). Từ những năm 20 của thế kỉ 20, văn học viết đa phần sáng tác bằng tiếng Việt qua chữ quốc ngữ, có sự cải cách thâm thúy về những hình thức thể loại như tiểu thuyết, thơ mới, truyện ngắn, kịch … và sự phong phú về khuynh hướng thẩm mỹ và nghệ thuật, đồng thời tăng trưởng với vận tốc nhanh, nhất là sau Cách mạng tháng Tám đi theo đường lối chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng về đời sống chiến đấu và lao động của nhân dân .
Có thể nói ở Việt Nam, phần nhiều cả dân tộc bản địa sính thơ, yêu thơ, làm thơ – từ vua quan, tướng lĩnh, sư sãi, sĩ phu đến sau này nhiều cán bộ cách mạng – và một cô thợ cấy, một cụ lái đò, một anh lính chiến đều thuộc dăm câu lục bát, thử một bài vè .
Về nội dung, chủ lưu là dòng văn chương yêu nước quật cường chống ngoại xâm ở mọi thời kỳ và dòng văn chương phản phong kiến thường trải qua thân phận người phụ nữ. Phê phán những thói hư tật xấu của xã hội cũng là mảng đề tài quan trọng. Các thi hào dân tộc bản địa lớn đều là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn .
Văn học Việt Nam tân tiến tăng trưởng từ lãng mạn đến hiện thực, từ âm hưởng chủ nghĩa anh hùng trong cuộc chiến tranh đang chuyển sang lan rộng ra ra tổng lực đời sống, đi vào đời thường, tìm kiếm những giá trị đích thực của con người .
Văn học cổ xưa đã tạo nên những siêu phẩm như Truyện Kiều ( Nguyễn Du ), Cung oán ngâm khúc ( Nguyễn Gia Thiều ), Chinh phụ ngâm ( Đặng Trần Côn ), Quốc âm thi tập ( Nguyễn Trãi ) … Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có những cây bút nữ độc lạ : Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan .
Văn xuôi văn minh có những tác giả không hề nói là thua kém quốc tế : Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nam Cao … Bên cạnh đó là những nhà thơ rực rỡ như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu … Tiếc rằng lúc bấy giờ chưa có những tác phẩm lớn phản ánh vừa đủ, trung thực và xứng danh quốc gia và thời đại .

6. Nghệ thuật

Việt Nam có khoảng chừng 50 nhạc cụ dân tộc bản địa, trong đó bộ gõ là phổ cập nhất, phong phú nhất và có nguồn gốc truyền kiếp nhất ( trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng … ). Bộ hơi phổ cập là sáo khèn, còn bộ dây độc lạ nhất có đàn bầu và đàn đáy .

Nhạc cụ dân tộc

Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú và đa dạng khắp Trung, Nam, Bắc : từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý. Ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù .
Nghệ thuật sân khấu truyền thống có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một mô hình sân khấu truyền thống lịch sử rực rỡ có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, Open cải lương ở Nam bộ với những điệu vọng cổ .
Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam nói chung đều mang tính biểu trưng, biểu cảm, dùng thủ pháp ước lệ, giầu chất trữ tình. Sân khấu truyền thống cuội nguồn giao lưu mật thiết với người xem và tổng hợp những mô hình ca múa nhạc. Múa Việt Nam ít động tác can đảm và mạnh mẽ mà đường nét uốn lượn mềm mại và mượt mà, chân khép kín, múa tay là chính .
Ở Việt Nam, thẩm mỹ và nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất sét sinh ra rất sớm có niên đại 10000 năm trước CN. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy tăng trưởng đến trình độ thẩm mỹ và nghệ thuật cao. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam chú trọng miêu tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh vấn đề .
Đã có năm trước di tích lịch sử văn hoá, lịch sử vẻ vang được Nhà nước công nhận và 2 di tích lịch sử là cố đô Huế, Vịnh Hạ Long được quốc tế công nhận. Kiến trúc cổ còn lại đa phần là 1 số ít chùa – tháp đời Lý – Trần ; cung điện-bia đời Lê, đình làng thế kỉ 18, thành quách – lăng tẩm đời Nguyễn và những ngọn tháp Chàm .
Thế kỉ 20, tiếp xúc với văn hoá phương Tây, nhất là sau khi nước nhà độc lập, những mô hình thẩm mỹ và nghệ thuật mới như kịch nói, nhiếp ảnh, điện ảnh, ca múa nhạc và mỹ thuật tân tiến sinh ra và tăng trưởng mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh hiện thực đời sống và cách mạng. Cho nên đến giữa năm 1997, đã có 44 người hoạt động giải trí văn hoá-nghệ thuật được nhận Trao Giải Hồ Chí Minh, 130 người được phong thương hiệu Nghệ sĩ nhân dân, 1011 người được Tặng Ngay thương hiệu Nghệ sĩ xuất sắc ưu tú, đặc biệt quan trọng có hai người được nhận phần thưởng quốc tế về âm nhạc là Đặng Thái Sơn ( Giải âm nhạc Chopin ) và Tôn Nữ Nguyệt Minh ( Giải âm nhạc Tchaikovski ). Tính đến đầu năm 1997, cả nước có 191 đoàn thẩm mỹ và nghệ thuật chuyên nghiệp và 26 xưởng phim, hãng phim, kể cả TW và địa phương. Đã có 28 phim truyền hình, 49 phim thời sự – tài liệu và khoa học được nhận phần thưởng quốc tế ở nhiều nước .
Văn hoá dân tộc bản địa truyền thống hiện đứng trước sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đứng trước những thử thách nóng bức của kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá. Nhiều ngành văn hoá thẩm mỹ và nghệ thuật đang có phần chững lại, tìm đường và tự cải cách. Hơn khi nào hết đặt ra yếu tố bảo tồn và tăng trưởng văn hoá dân tộc bản địa, yếu tố lựa chọn những giá trị cũ, kiến thiết xây dựng những giá trị mới. Bảo tồn nhưng vẫn phải là một nền văn hoá mở. Hiện đại nhưng không xa rời dân tộc bản địa. Công cuộc thay đổi văn hoá đang liên tục …

Hàng năm, có lẽ rằng không có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội, nhỏ thì một ngày, lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì tiệc tùng vui không kể xiết. Có những tiệc tùng trở nên tiêu biểu vượt trội, nức tiếng gần xa như hội : Đền Hùng-tỉnh Phú Thọ, hội Cổ Loa, Lệ Mật, Phù Đổng của TP.HN, hội Liễu Đôi ( Nam Hà ), Thành Phố Bắc Ninh có hội Đồng Kỵ, hội Lim … Bắc Giang có hội Yên Thế, Xương Giang, Thổ Hà, Vạn Vân, những hội làng ở Hà Tây, Hội đền Kiếp Bạc ( Thành Phố Hải Dương ), hội chùa Dâu, Bà Chúa Kho ( Thành Phố Bắc Ninh ), hội chùa Keo ( Tỉnh Thái Bình ) và hội đua ghe ngo của đồng bào Khơme Nam Bộ, hội vùng núi Sam ( Châu Đốc – An Giang ) …
Lễ hội ở nước ta thường được tổ chức triển khai vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, vạn vật thiên nhiên xanh tươi, lòng người hân hoan. Lễ hội là chứng tỏ tính cố kết của hội đồng, là vật chứng cho nét đẹp văn hoá ngàn đời của ông cha ta. Theo thống kê của Bộ VH, TT&DL thì nước ta hiện có hơn 8.000 tiệc tùng trong năm. Mỗi tiệc tùng mang một nét tiêu biểu vượt trội và giá trị riêng, nhưng khi nào cũng hướng tới một một đối tượng người dùng rất thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế … Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ thời điểm ngày hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống lịch sử quê nhà, quốc gia của mình. Đặc biệt, liên hoan ở nước ta gắn bó với làng xã, địa điểm, vùng đất như một thành tố không hề thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân .
Phần lớn những liên hoan ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử dân tộc, tưởng niệm người có công với nước trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên những trò đi dạo ở tiệc tùng thường mang nhiều tính can đảm và mạnh mẽ của ý thức thượng võ như : thi bắn nỏ, đấu vật ( hội Cổ Loa ) đấu vật, đấu võ, chạy thi ( hội hoa Vị Khê, Tỉnh Nam Định ), thi bắn nỏ, ném còn ( ở vùng đồng bào dân tộc bản địa phía Bắc ) v.v… Có tiệc tùng lại gọi theo những game show dân gian như hội rước voi, rước chúa gái, hội đánh phết, ném còn, hội chọi gà, chọi trâu, hội đâm đuống … Sự đa dạng chủng loại của tiệc tùng ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc bản địa nhưng cũng vừa là một trong những mẫu sản phẩm du lịch mê hoặc hành khách trong và ngoài nước .

Quy trình của lễ hội

Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều triển khai theo ba bước sau :

Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần…

Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.

Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.

Thời gian mở hội

Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.

Một số đặc điểm của lễ hội

Tính thiêng

Muốn hình thành một liên hoan, khi nào cũng phải tìm ra được một nguyên do mang tính ” thiêng ” nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi tự nhiên dừng lại, không trôi nữa ; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng … Cũng có khi tiệc tùng chỉ hình thành nhằm mục đích ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở nghành này hay nghành khác ( có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc … ). Song, những người đó khi nào cũng được ” thiêng hóa ” và đã trở thành ” Thần thánh ” trong tâm lý của dân cư .
Nhân dân tin yêu những người đó đã trở thành Thần thánh, không riêng gì hoàn toàn có thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm : chữa bệnh, làm nghề, sản xuất, đánh giặc … mà còn hoàn toàn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn vất vả phong phú hơn, phức tạp hơn của đời sống .
Chính tính ” Thiêng ” ấy đã trở thành chỗ dựa niềm tin cho nhân dân trong những thời gian khó khăn vất vả, cũng như tạo cho họ những kỳ vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến .

Tính “cộng đồng”

Lễ hội chỉ được sinh ra, sống sót và tăng trưởng khi nó trở thành nhu yếu tự nguyện của một hội đồng. Cộng đồng lớn thì khoanh vùng phạm vi của tiệc tùng cũng lớn. Bởi thế mới có tiệc tùng của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước .

Tính địa phương

Lễ hội được sinh ra và sống sót đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế liên hoan ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của tiệc tùng chính là điều chứng tỏ tiệc tùng gắn bó rất ngặt nghèo với đời sống của nhân dân, nó phân phối những nhu yếu niềm tin và văn hóa của nhân dân, không riêng gì ở nội dung liên hoan mà còn ở phong thái của liên hoan nữa. Phong cách đó biểu lộ ở lời văn tế, ở phục trang, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng …

Tính cung đình

Đa phần những nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong những tiệc tùng của người Việt, là những người đã giữ những chức vị trong triều đình thời xưa. Bởi thế những nghi thức diễn ra trong tiệc tùng, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu … đều mô phỏng hoạt động và sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó bộc lộ ở cách bài trí, phục trang, động tác đi lại … Điều này làm cho liên hoan trở nên sang chảnh hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, phân phối tâm ý, những khao khát nguyện vọng của dân cư .

Tính đương đại

Tuy mang nặng sắc thái truyền thống, liên hoan, trong quy trình hoạt động của lịch sử dân tộc, cũng từ từ tiếp thu những yếu tố đương đại. Những game show mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro … đã tham gia vào liên hoan, giúp cho việc tổ chức triển khai liên hoan được thuận tiện hơn, cung ứng nhu yếu mới .
Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải từ từ qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được hội đồng gật đầu, không hề là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý …

Nghệ thuật diễn xướng

Có thể nói rằng, hàng loạt tiệc tùng là một sân khấu đặc biệt quan trọng. Tại sân khấu này, có ba nhân vật chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng ( Thầy Đồng đền ở Đền, Ông chủ tế ở đình … ) người có năng lực trải qua những Thần linh, sự nhập vai của những Thần linh ( những hiện tượng kỳ lạ lên đồng ). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân, những Fan Hâm mộ của tôn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm hứng tôn giáo, tín ngưỡng nhạy bén, chuẩn bị sẵn sàng tham gia, tham gia vào cuộc trình diễn này. Nhân vật thứ ba tuy không Open trên sân khấu, nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực của Lễ hội. Đó là những Thần linh, đối tượng người dùng thờ cúng của những Lễ hội .
Trong những lễ Hầu đồng, lên đồng là một nghi thức đặc biệt quan trọng. Trong đó, người lên đồng được những Thần linh ” nhập ” vào. Khi đó, những người lên đồng không còn giữ nguyên bản thân, mà trở thành những nhân vật Thần linh được pháp luật là tương thích với họ ( hợp ” căn ” ). Người lên đồng múa, hát và nói năng hệt như tính cách những vị thần nhập vào họ, theo ý niệm dân gian. Người nhập vai vào vai cô bé Thượng Ngàn, nhí nhảnh, ưa làm dáng, hát theo những làn điệu miền núi. Người nhập vai ông Hoàng Bảy, một võ tướng có nét mặt oai vệ, có giọng nói cương nghị, múa kiếm. Còn Ông Hoàng Mười, một ông quan lớn, hào hoa phong nhã, đĩnh đạc, giọng nói sang sảng, thường mang theo bầu rượu túi thơ và múa với cây hèo thúc ngựa …

Nghệ thuật tạo hình và trang trí

Nghệ thuật tạo hình và trang trí sống sót trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu. Cờ hội với năm sắc ngũ hành – năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của ngoài hành tinh theo ý niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự quan tâm. Các loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ phức tạp. Tượng gỗ với cách tạo hình dân gian và truyền thống lịch sử. Và, trong ngày hội làng, những đội tế với cách ăn mặc đặc biệt quan trọng, đã gây ấn tượng so với người dự hội. Thực ra, phục trang của đội tế, từ chủ tế đến những thành viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó cũng là yếu tố tâm ý mê hoặc so với những người trong đội tế. Dường như trong phục trang đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt quan trọng dành cho họ và họ được đứng ở một vị trí khác hẳn ngày thường. ở những Đền phủ, thẩm mỹ và nghệ thuật trang trí đặc biệt quan trọng được coi trọng. Màu sắc và những đồ trang sức đẹp của người lên đồng chính là yếu tố quan trọng để phân biệt những giá đồng. Nếu Cô Gái Thượng Ngàn chỉ dùng trang phục sắc xanh ( miền núi ) với những loại trang sức đẹp như vòng bạc, hoa tai thường được đồng bào những dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ông Hoàng Mười, một vị quan văn hào hoa, phong nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn …
Cách bài trí Điện thờ cũng đặc biệt quan trọng. Khác với chùa chiền thường trang trí đơn giản và giản dị, gợi cảnh thú nhàn, xa lánh thế tục, những đền phủ ưa trang hoàng lộng lẫy, tỏa nắng rực rỡ gần với cảnh lộng lẫy của những hoàng cung thế tục. Trong điện thờ, những vị Thánh được thờ ở một vị trí riêng, vừa tương thích với thứ bậc của họ trong mạng lưới hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa tương thích với tính cách của những vị theo ý niệm truyền thống cuội nguồn .

Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa

Trong tiệc tùng có diễn ca, trống chiêng và múa. Có thể suy đoán, những điệu múa cờ, múa chiêng, múa trống .
Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ Open ở phần hội. Ngay ở phần lễ, những loại nghệ thuật và thẩm mỹ màn biểu diễn này đã xuất hiện như một yếu tố không hề thiếu được, và ở một số ít liên hoan, những mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ này đã chiếm vai trò chủ yếu. Chẳng hạn, ở huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, có một loại hoạt động và sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội làng. Đó là hội Dô, với loại hát Dô độc lạ. Với những lao lý ngặt nghèo về lề lối hoạt động và sinh hoạt, hát Dô là một hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức triển khai khá quy củ với những làn điệu, chuyên nghiệp đa dạng và phong phú. Loại hình hát nghi lễ còn khá thông dụng trên khắp địa phận vùng đồng bằng Bắc Bộ .
Có thể tạm kể ra đây một vài ví dụ về sự tham gia của những thẩm mỹ và nghệ thuật ca múa nhạc và lễ thức :

Hội trong chùa: Về nghệ thuật ca hát, có các loại hình: đọc, tụng, canh, kệ, vãn… Trong đó riêng thể loại canh đã có hàng trăm bài bản, hình thức. Về âm nhạc có chuông, khách, mõ (đá hoặc gỗ đồng).

Hội làng: Về nghệ thật ca hát, có các loại hình: đọc văn tế. Về âm nhạc, có chuông, đàn bát âm (phục vụ cho tế). Về múa, có tế, múa Lân, múa Rồng (rước kiệu). Đặc biệt, ở Triều Khúc, trong hội làng, múa tham gia vào ngay trong lúc hành lễ với các điệu múa “Con đĩ đánh bồng”, “Múa cờ”…

Lễ Hầu Đồng (lễ đền): Về nghệ thuật ca hát, có loại hát Chầu văn (có hát văn thờ) tham gia vào quá trình hành lễ, hát văn hầu đồng, phục vụ cho các giá đồng. Về múa, có các loại hình múa lên đồng. Về âm nhạc, có đàn nguyệt, trống chầu, sênh tiền…

Về thành phần, ca múa nhạc trong Lễ hội truyền thống cuội nguồn Việt Nam gồm có 2 phần chính : Nhạc nghi lễ, và những tổng hợp ca múa .

Nhạc nghi lễ

1. Nhạc thờ cúng ( trong mái ấm gia đình, chùa, điện, miếu ) gồm ba loại sau đây : nhạc tế, nhạc nhà chùa và nhạc điện miếu .
Trong khi làng mở hội, ngoài sân đình có ca hát, đi dạo vui chơi, đối đáp giao duyên như hát ví, hát đúm, hát trống quân, quan họ … thì trong đình có tế thần .
Trong khi tế có dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế đều có nhạc bát âm phụ họa cùng với chiêng trống. Hiện nay tại TP. Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, phổ cập 1 số ít bài bản chính cho nhạc bát âm gồm : Lưu Thủy, Ngũ Đối, Kim Tiền …
Trong dàn nhạc bát âm Giao hàng cho tế thần, tiếng Kèn dăm ( Kèn bóp ) dữ thế chủ động dẫn nhịp, có tính năng khá lớn. Bài bản cũng tùy từng địa phương chế tác sử dụng. Nhưng cần phân biệt rõ Kèn dăm trong dàn nhạc bát âm Tế Thần khác hẳn thứ kèn bóp ” Già nam ” trong phường nhạc hiếu ( nhạc tang ma ) và nhất là phi phân biệt với loại kèn bóp ” so na ” ship hàng cho Nhạc tuồng
Hiện nay, nhiều nơi dàn nhạc tế đã có vai trò rất quan trọng, như ở Lệ Mật, Việt Hưng ( Gia Lâm, TP. Hà Nội ), đội nhạc bát âm còn xếp đội hình thành những chữ ” Thượng công lưu nhất ” rất độc lạ, lại tăng thêm phần ngoạn mục và tinh xảo xen kẽ những tuần tế. Tại Triều Khúc ( Thanh Trì, TP.HN ), dàn nhạc tế còn Giao hàng cho múa Bồng truyền thống lịch sử. Vai trò của dàn nhạc bát âm quán xuyến suốt từ đầu tới cuối buổi tế thần, tích hợp với những tuần đổ hồi chiêng trống .
Trong khi niệm kinh thờ phật, không có ca nhạc, chỉ dùng chiêng mõ điểm xuyết trong những câu kinh kệ. Chỉ tới khi lập đàn chay, chạy đàn … nhà chùa mới sử dụng toàn thể bộ gõ gồm : trống cái, trống la, thanh la, tiu bộc, với tiết tấu ồn ào sôi động gây không khí náo nhiệt, tôn kính cho những người dự lễ, cuốn khúc theo sư tổ chạy đàn. Trong chùa thờ phật khi nào cũng cần sự yên tĩnh, trầm tư mặc tưởng nên từ trước tới nay, ngoài chuông mõ không dùng nhạc khí nào khác .
Các Điện thường thờ thần. Theo ý niệm tín ngưỡng dân gian, trần gian chia làm ba giới : Thiên đình, Âm Phủ và Thủy Phủ. Các vị thần chấn thủ ba nơi này mang những thương hiệu Tứ Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Thập Tam Hoàng Thái Tử, Ngũ Vị Vương Quan … Các vị đó có trách nhiệm che trở cho loài người chống hạng hồ ly tinh quấy nhiễu dương gian. Nhưng muốn đạt tới những vị đó, người đời phải mượn trung gian là những Đạo sỹ, Phù thủy, ông Đồng Bà Cốt. Rồi từ việc mượn người trung gian để cầu xin những vị Thần linh phù hộ che chở cho đến việc tự nhận mình là ” Con công đệ tử “. Từ đó đã hình thành một loại tín ngưỡng rất phức tạp, trong đó ca nhạc đóng vai trò quan trọng, đó là hát chầu văn. Giai điệu Hát văn quyến rũ, mê hoặc. Nhịp điệu dồn dập, khỏe mạnh sung sướng. Tới cao trào, bóng thường hay múa gươm hoặc bơi thuyền. Cung văn phi chuyển sang ” nhịp một ” sôi sục kích động. Trống thanh la gõ rộn ràng và ” Hòa khoan ” theo làn điệu ” Chèo đò ” tương thích với động tác chèo thuyền của bóng .
2. Nhạc rước :
Tiếng trống rước vang rất xa làm náo nức lòng người, thúc dục tới xem hội. Bộ trống rước gồm một trống cái do hai người khiêng và bộ trống con thường gồm 4 hoặc 6 chiếc. Người đánh trống lớn sau khi đổ hồi, đánh dõng dạc từng tiếng một, điểm hòa vào bộ trống con. Người đánh trống con đeo trống qua vai, đánh bằng hai dùi nhỏ theo nhịp bước, theo từng khổ pháp luật, có trống cái điểm. Rứt khổ trống cái đổ ba tiếng liền. Theo nhịp trống, dàn nhạc bát âm tấu Lưu Thủy – Kim Tiền, có tiếng mõ và sênh tiền hòa theo
Nhịp trống rước khoan thai hơn nhịp tiến của bộ trống quân nhạc : đổ vào nhịp mạnh, rung vào những phần nhịp và nhịp yếu, tiếng trống con tích hợp với tiếng chũm chọe, sênh tiền, tiu, mõ. Tiếng trống cái đệm vào nhịp yếu từng tiếng một và cắt khổ trống .
Dàn nhạc bát âm thường gồm có nhị, hồ, nguyệt, sáo, tiêu, mõ, sênh tiền, tiu bộc và có dùng kèn dăm ( kèn bóp ). Gần đây còn thêm đàn tứ và đàn tam .

Hát múa

Lúc ở trong đình đang tế thần, ngoài sân đình cũng tổ chức triển khai những cuộc thi hát và múa, địa thế căn cứ đặc thù của từng địa phương. Trong hội làng tại những cửa Đình, giáo phường xưa cử những đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc phối hợp với tế Thần và chúc tụng, mua vui vui chơi cho dân làng. Tên hát cửa đình Open. Hát cửa đình vừa là hình thức, vừa là phong thái màn biểu diễn của đào kép, cung ứng nhu yếu nghệ thuật và thẩm mỹ của dân làng trong những ngày hội, ngoài việc Giao hàng nghi lễ. Hát Cửa Đình thường lê dài cả ngày, cả đêm, có khi lê dài suốt mấy ngày liền. Cho nên, để ăn được điểm, thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre có ghi đấnh dấu, thưởng cho đào kép. Do đó những đào hát Cửa Đình lĩnh thưởng bằng thẻ gọi là hát thẻ ( chữ hán đọc thẻ là trù ), đọc theo chữ hán là ca trù. Danh từ ca trù bắt nguồn từ hát Thờ ở Cửa Đình. Giáo phường Lỗ Khê ( Đông Anh, TP.HN ) là nơi lưu giữ được gần như nguyên vẹn di tích lịch sử và hoạt động và sinh hoạt của giáo phường xưa, duy trì được nền nếp Hát Cửa Đình .
Ngoài ra còn một số ít điệu múa hoặc diễn đạt thành tích Thần Hoàng làng như điệu Múa rắn Lệ Mật cứu Công chúa nhà Lý, sau di dân sang khai hoang phía tây thành Thăng Long, xây dựng ” Thập tam trại “, hoặc một việc luyện quân của Phùng Hưng trước khi về đánh thành Tống Bình, TP.HN, hoặc chỉ mang cả tính nghệ thuật và thẩm mỹ lẫn động viên vui chơi như Múa Bồng, Múa Đèn, Múa Rồng và phổ cập nhất là Múa Sư tử .

Hát văn và Hầu đồng

Hát văn và Hầu đồng là những hoạt động và sinh hoạt mang tính tín ngưỡng và văn hóa của đạo thờ Mẫu của người Việt từ Bắc vào Nam, trong đó có ba TT điển hình nổi bật là TP. Hà Nội, Huế, và TP HCM. Cũng như những tín ngưỡng và tôn giáo khác, đạo thờ Mẫu cũng hình thành nên mạng lưới hệ thống nghi thức thờ cúng và tiệc tùng của nó. Dân gian ta có câu : ” Tháng tám giỗ Cha, Tháng ba giỗ Mẹ “, là để nói hai lần trong năm triển khai những nghi thức thờ cúng và liên hoan lớn nhất và quan trọng nhất của đạo thờ Mẫu. Tháng tám là ngày giỗ Vua cha Ngọc Hoàng, Đức Thánh Trần, … Còn tháng ba giỗ Mẹ là Mẫu Liễu Hạnh, và những Thánh Mẫu khác của đạo này .
Trong hai dịp ” Xuân thu nhị kỳ ” như vậy, một trong những lễ thức quan trọng của liên hoan là Hầu Đồng. Nó được tổ chức triển khai ở hầu hết những đền miếu, những Điện Mẫu trong chùa, trong những Điện Mẫu ở 1 số ít nhà riêng những Ông đồng và Bà đồng .
Hầu đồng là một lễ thức đặc trưng và tiêu biểu vượt trội nhất của tín ngưỡng dân gian thờ thánh Mẫu của dân tộc bản địa Việt. Lên đồng là hình thức nhập hồn tự nguyện và nhập hồn nhiều lần trong một buổi lễ, trong khung cảnh thờ cúng, âm nhạc và hát tụng, nhằm mục đích mục tiêu chữa bệnh, tẩy trừ rủi ro đáng tiếc, mưu cầu phúc lợi và phán truyền về định mệnh của con người. Lễ thức này mang đặc thù Saman giáo, một hình thức tôn giáo thông dụng ở nhiều dân tộc bản địa trên quốc tế từ thời xưa còn sống sót đến thời nay .
Trong thiên nhiên và môi trường tín ngưỡng dân gian kể trên đã hình thành và tăng trưởng một số ít hình thức diễn xướng Văn hóa – Nghệ thuật dân gian, đó là âm nhạc, hát và múa. Trong hát văn, lời văn rất nhiều mẫu mã, phong phú, thuộc mô hình những sáng tác văn học dân gian và trong bước đầu mang đặc thù của văn học chuyên nghiệp ( một số ít bài văn chầu, hát văn trong bước đầu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm hay Quốc ngữ … ). Văn chầu là những bài tụng ca thuộc thể văn vần, dưới hình thức thơ tuy nhiên thất lục bát hay lục bát, nội dung kể sự tích những Thần linh, nhiều lúc mang đặc thù hoang đường quái gở, mà về mặt nào đó, thân mật với văn học truyền kỳ của Việt Nam .
Bản thân cái hào hùng, huyền diệu, trữ tình của lời văn chầu không hề mê hoặc và hấp dẫn con người nếu như không đặt nó vào thiên nhiên và môi trường diễn xướng hòa giải với âm nhạc và nhảy múa. Nhạc chầu văn đã định hình và mang truyền thống riêng, hoạt động và sinh hoạt âm nhạc có lao lý, thể thức khắt khe về phương pháp trình diễn. Trong âm nhạc hát văn, có qui tụ khá nhiều những hình thức dân ca, nên nó thân mật với khá nhiều dân ca ở tiết tấu giai điệu lời ca. Cấu trúc của mô hình âm nhạc này vừa cân đối, hoàn hảo trong từng câu văn, từng làn điệu, nhưng mặt khác âm nhạc của nó cơ bản vẫn là cấu trúc mở, nghĩa là giai điệu của nó hoàn toàn có thể lặp lại để hoàn toàn có thể tiềm ẩn nội dung lời ca. Hình thức âm nhạc hát văn đến nay vẫn liên tục tăng trưởng về chuyên nghiệp, làn điệu, cách điệu dàn nhạc … Đặc biệt những thập kỷ gần đây, hát văn và âm nhạc hát văn đã có bộ phận dần tách ra thành mô hình âm nhạc và dân ca độc lập, tiềm ẩn nội dung mới, cung ứng những nhu yếu thẩm mỹ và nghệ thuật của con người tân tiến .

Hát, âm nhạc tích hợp với múa, thành loại múa Hầu đồng. Đây là hình thức múa tôn giáo mà múa và âm nhạc đã tạo ra sự phấn khích đưa con người hợp nhất với Thần linh, cũng như Thần linh trải qua những động tác nhảy múa của những Ông đồng, Bà đồng mà tái sinh, sôi động lại trong con người .
Múa Hầu đồng tiếp thu nhiều hình thức múa dân gian, như múa quạt, múa kiếm, đao, múa cung, múa nồi … nhưng đã cách điệu để tương thích với môi trường tự nhiên tín ngưỡng. Nhìn tổng quát, diễn xướng Hầu Đồng là một hình thức diễn xướng tổng hợp, một hình thức sân khấu tâm linh. Qua mô hình diễn xướng đặc trưng này, người ta đã hoàn toàn có thể tìm hiểu và khám phá những hình thức nguyên sơ của sân khấu dân gian .
Hầu đồng – Hát văn với đặc thù là một mô hình hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa hội đồng, có nguồn gốc phát sinh từ truyền kiếp, tối thiểu cũng từ thời Lý trở lại đây. Trong quy trình phát sinh và tăng trưởng lâu bền hơn ấy, Hát văn – Hầu đồng đã bị chi phối bởi nhiều khuynh hướng tăng trưởng khác nhau, như lịch sử hóa, địa phương hóa, tích hợp văn hóa, hiện đại hóa …
Xuất phát từ hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thô sơ của dân cư nông nghiệp, trong quy trình tăng trưởng nó chịu tác động ảnh hưởng của nhiều hình thức tín ngưỡng, phương thuật dân gian khác ( Saman giáo ), đặc biệt quan trọng là Đạo giáo nam Trung Quốc, để từ đó hình thành nên tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ. Tứ Phủ chịu sự chi phối của khuynh hướng lịch sử dân tộc hóa, gắn Thần linh của đạo này với lịch sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc bản địa. Tuy là những Thần linh siêu nhiên, nhưng nó vẫn thân thiện với đời sống con người, giúp con người vượt qua rủi ro đáng tiếc, vận hạn, mang lại cho họ tài lộc và sức khỏe thể chất, gắn với lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa, phân phối nhu yếu của đời sống niềm tin của dân cư, đó là lòng yêu nước – lòng yêu nước đã rất thiêng hóa .
Quê hương sinh ra của Hát văn và Hầu đồng là đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong quy trình lịch sử dân tộc, nó theo gót người Việt Nam vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hình thành những sắc thái địa phương trong Hát văn và Hầu đồng. Sự độc lạ về sắc thái này bộc lộ ở mạng lưới hệ thống Thần linh, nghi thức thờ cúng, những hình thức âm nhạc, hát văn và múa …
Khuynh hướng tích hợp văn hóa giữa những dân tộc bản địa cũng bộc lộ trong hát văn và hầu đồng, tạo nên một trong những nét độc lạ nhất của hình thức hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng – tôn giáo này. Xuất phát từ việc trong điện thần Tứ Phủ có 1 số ít vị thánh là người dân tộc bản địa Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm … nhất là những vị thánh hàng Chầu bà, nên khi những Ông đồng, Bà đồng hầu những vị thánh đó, thì từ phục trang đến nội dung văn chầu, những làn điệu bài hát văn, phương pháp nhảy múa … đều mang những sắc thái dân tộc bản địa. Thông qua hiện tượng kỳ lạ tích hợp văn hóa này của tín ngưỡng Tứ Phủ, ta thấy niềm tin bình đẳng, không hề có chút kỳ thị dân tộc .

Trò hội

Có thể chia trò hội thành mấy dạng chính :
Thi phẩm vật. Ví dụ : Thi pháo, thi xôi, thi bánh, hoặc có nơi thi lợn béo, trâu khỏe ( trong hội làng ) .
Thi tài. Ví dụ : Đánh vật, bơi chải, thổi cơm, hát thi, leo cầu tre, đánh cờ, cướp cầu, kéo co, đấu gậy … ( trong đó có những nơi có thi tài một số ít vấn đề tương quan tới sự tích Thần. Ví dụ : vừa hành quân, vừa thổi cơm ) .
Trò góp vui. Những trò này làm tăng không khí sinh động cho tiệc tùng. Rất phong phú và đa dạng và phong phú .
Nhiều trò hội không chỉ là bộc lộ của sự mưu trí, tài trí, khôn khéo và quả cảm hoặc ý thức thượng võ, lòng nhân hay sự yêu đời, nó còn toát lên tính tập thể, niềm tin cố kết hội đồng và cao hơn nữa còn gắn bó có tính máu thịt khi niềm sùng tín cho rằng sự hay dở của trò hội tương quan đến niềm hạnh phúc của hội đồng ( làng bản ) trong năm đó. Trò hội không những nghiêm trang mà còn chứa đựng sự hoảng sợ hệ trọng. Lấy thí dụ, cũng là trò kéo co nhưng ở Thạch Bàn ( Gia Lâm, TP.HN ) trong liên hoan của làng, trò này chia làm hai phe, được gọi là mạn đường và mạn chợ, trong đó được xem như phần gốc và phần ngọn, nếu phe phần gốc thắng thì người ta hoan hỉ tin rằng năm đó sẽ đại phúc .

Hội làng truyền thống người Việt là tiệc tùng nông nghiệp. Trò chơi là một bộ phận của liên hoan, nên phải Giao hàng cho nội dung của tiệc tùng. Vì vậy những game show này được coi là game show phong tục hay nghi lễ. Chẳng hạn như, những cuộc đua thuyền buổi đầu không phải là hoạt động giải trí ( hoặc là game show ) hướng về niềm tin thượng võ mà để triển khai một nghi lễ với Thủy Thần : Lễ cầu nước. Chỉ có hai thuyền dự đua được định danh : Một thuyền đực – hình tượng chim, gắn hình chim ở đầu thuyền ; Một thuyền cái – hình tượng cá, gắn hình cá ở đầu thuyền ; Với ý nghĩa đối ứng, giao hòa âm / dương ; chim ( trên cao ) / cá ( dưới thấp ) ; khô / ướt và thuyền trôi, mái chèo khuấy động trong nước với mục tiêu ” thức tỉnh thủy thần ” nhắc – hoặc cầu – thần đem nước tới đúng vụ làm mùa ( như ở Đào xá, Tam Thanh, Vĩnh Phú ) .
Như cuộc tung cầu – cướp cầu mà ngày này ta gọi là game show, cũng có một khởi nguyên nghi lễ cầu mùa nghề nông. Quả cầu bằng gỗ, sơn son, to bằng quả bưởi tượng trưng cho mặt trời ( đỏ, tròn ), được thờ trong hậu cung. Vào ngày Hội làng, người ta rước cầu trình Thánh rồi tung ra sân cho người trẻ tuổi hai giáp tranh cướp trong trò ” cướp cầu “. Cầu được truyền tay và ném vào hai hố ở hai đầu sân đình theo hướng đông – tây. Vậy là quả cầu bay theo hướng đông tây. Đó là hình ảnh mô phỏng sự quản lý và vận hành của mặt trời ban ngày ( đông – tây ) và đêm hôm ( tây – đông ), theo ý niệm cổ của nhân dân. game show phong tục này cốt thực thi mục tiêu của lễ cầu ánh sáng trong tục thờ Mặt trời của dân cư nông nghiệp ruộng nước. Đây là game show phổ cập ở Vĩnh Phú, Hà Bắc, Nam Hà …

Ý nghĩa của trò hội:

Thứ nhất, đại diện thay mặt cho hội đồng : Những người tham gia thuộc hai bên là đại diện thay mặt cho hai nhóm xã hội ( giáp – hội đồng nhỏ trong làng ). Lúc này game show là việc làm nghĩa vụ và trách nhiệm, tráng lệ, mang tính thiêng của hội đồng .
Thứ hai, phản ánh tín ngưỡng cổ : Sùng bái giới tự nhiên ( Thần Mặt trời, Mặt trăng ) cầu sinh sôi giống loài …
Lễ hội là dịp con người được quay trở lại nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc bản địa đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm lý mỗi người. Lễ hội biểu lộ sức mạnh hội đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là vương quốc dân tộc bản địa. Họ thờ chung vị thần, có chung tiềm năng đoàn kết để vượt qua gian khó, giành đời sống ấm no, niềm hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu yếu phát minh sáng tạo và tận hưởng những giá trị văn hoá vật chất và niềm tin của mọi những tầng lớp dân cư ; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho những thế hệ sau biết giữ gìn, thừa kế và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống cuội nguồn quý báu của dân tộc bản địa theo cách riêng, phối hợp giữa yếu tố tâm linh và những game show đua tài, vui chơi …
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực là khơi dậy lòng yêu quê nhà quốc gia, ý thức tự hào dân tộc bản địa, ý thức hướng về cội nguồn, hội làng còn sống sót một số ít tập quán lỗi thời, những bộc lộ mê tín dị đoan, những tệ nạn xã hội. Ở 1 số ít nơi, tiệc tùng được tổ chức triển khai không phải để tôn vinh những giá trị truyền thống lịch sử mà để kinh doanh thương mại kiếm lời. Họ rào làng, bịt lối, bán vé vào cửa, bán vé vào lễ, gây phiền hà cho người đến liên hoan, trái ngược hẳn với tục lan rộng ra vòng tay đón bạn mười phương về chung vui hội làng thời xưa. Các tệ nạn mê tín dị đoan dị đoan như : lên đồng, bói toán, đội bát nhang, uống nước thánh, đốt vàng mã, cúng tế, rước xách linh đình lê dài ngày càng có khunh hướng gia tǎng. Hơn nữa, trong tiệc tùng đã mở màn Open những tệ nạn xã hội như : đánh bạc, cá cược, hút thuốc phiện …
Một mùa liên hoan mới đã về trên khắp nẻo làng quê Việt Nam. Chúng ta mong rằng những tiệc tùng ở Việt Nam vẫn giữ nguyên sức hấp dẫn, mê hoặc của nó, giảm trừ những hủ tục, tệ nạn xã hội. Bởi liên hoan là tinh hoa văn hóa Việt Nam, những giá trị văn hóa của liên hoan được bảo tồn và phát huy chắc như đinh góp thêm phần thiết kế xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và phát triển, đậm đà truyền thống dân tộc bản địa .

1. Vua Hùng – Thủy Tổ của người Việt.

Vua Hùng là nhân vật minh triết trong tâm khảm của người Việt. Ông được tôn là Vua, là minh chủ đồng thời là Thủy Tổ – Tổ của dân, của nước.Thờ cúng Hùng Vương/ Vua Hùng đã trở thành tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt.

Chủ nhân của tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng là người Việt ở Phú Thọ. Họ phụng thờ Vua Hùng như bậc Thánh Vương trong các đình, đền, miếu được xây dựng tại các làng, xã.Từ Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh- xã Hy Cương- thành phố Việt Trì là tâm điểm, tín ngưỡng này đã lan tỏa tới các tỉnh, thành trong cả nước và một số cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt đã thờ cúng Vua Hùng là Thủy Tổ khai sinh dân tộc, đất nước. Ý thức tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng đã thấm vào máu thịt của cộng đồng người Việt, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình tượng Vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng sông núi đất Việt. Thánh Tổ Hùng Vương do nhân dân tôn vinh được các triều đình quân chủ phong kiến và Nhà nước đương đại đồng thuận. Trên bình diện ý thức dân tộc ấy Thánh Tổ Hùng Vương được truy phong bằng các mỹ tự: Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, Viễn Sơn Thánh Vương, Ất Sơn Thánh Vương hay việc đồng nhất Hùng Vương với các vị thần núi ở các vùng miền khác trong phạm vi cả nước.

Thi gói bánh chưng tại Lễ hội Đền Hùng hằng năm luôn thu hút rất đông du khách xem và cổ vũ cho các đọi tham gia. Ảnh Phương Thanh
Thi gói bánh chưng tại Lễ hội Đền Hùng hằng năm luôn thu hút rất đông du khách xem và cổ vũ cho các đội tham gia. Ảnh Phương Thanh

2. Giỗ Tổ Hùng Vương – tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng.

Xuất phát từ đạo lý văn hóa “Ẩm hà tư nguyên/ Uống nước nhớ nguồn”;  Thờ cúng Vua Hùng/ Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tín ngưỡng văn hóa đặc trưng, mang tính bản địa sâu sắc của người Việt. Ngày giỗ Tổ không chỉ đơn thuần là ngày con cháu bốn phương hội tụ thắp hương cúng giỗ tổ tiên mà còn là ngày giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cùng biên cõi.

Trên khắp mọi nẻo đường, mọi vùng quê, chốn đầu non ngọn suối,trong tâm thức của người dân đất Việt đều khắc cốt ghi xương, sâu đậm ký ức thiêng liêng về một cội nguồn chung:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng 10 tháng 3
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

Với quan niệm văn hóa tâm linh “con cháu ở đâu thì ông bà, tổ tiên ở đấy”. Người Việt đã thờ cúng Vua Hùng như sự hiện diện đặc trưng bởi ý thức tự  cường của một quốc gia hưng thịnh. Theo “Nam Việt thần kỳ hội lục” chép năm 1763; thì tới thế kỷ XVIII ở nước ta mới có 73 làng thờ cúng Hùng Vương, vậy mà tới năm 2005 theo sách “Những di tích thờ Hùng Vương ở Việt Nam” của Cục Văn hoá thông tin cơ sở- Bộ Văn hoá Thông tin đã có 1417 nơi thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan thuộc triều Hùng.

Giỗ Tổ Hùng Vương- Tri ân công đức tổ tiên đã trở thành tín ngưỡng bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt và trở thành minh triết trong văn hoá Việt Nam.

3. Hướng về đất Tổ – cố kết cộng đồng dân tộc.

Thành kính tri ân công đức tổ tiên, ông cha ta đã ghi tạc câu đối treo tại lăng Hùng Vương:

“Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ
Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi còn biết khấn mồ Ông”.

Đó là tiếng nói chung, tiếng nói nhân bản, là sự tự ý thức về nguồn cội của các thế hệ con cháu các vua Hùng. Tất cả đều là đồng bào, là người trong một nước, cùng một Tổ, chung cội, chung giàn. Quan hệ đó đã đem lại tâm lý yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, thủy chung với nhau, cùng tồn tại và phát triển bền lâu; tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh đó đã đưa dân tộc ta lên đỉnh vinh quang của lịch sử, sánh vai với các cường quốc năm châu, bốn biển. Trải qua hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc xâm lược đô hộ; hàng trăm năm bị thực dân, đế quốc thống trị; đất nước này không những không bị diệt vong mà quốc gia Việt Nam vẫn vững vàng, tồn tại và phát triển; văn hoá Việt Nam không những không bị đồng hóa mà trái lại đã dung nạp và làm chuyển hoá văn hoá ngoại lai, tiếp thu sự tinh tuý của văn hoá ngoại lai để hoà đồng phát triển cùng văn hoá dân tộc. Đó là sự thể hiện sức mạnh phi thường của dân tộc, sức mạnh đó được hình thành và đang phát triển bởi văn hiến hàng ngàn năm của dân tộc; văn hiến đó là sức mạnh của con người, của tinh thần đoàn kết cộng đồng được hình thành bằng ý thức vững vàng về nguồn cội, về quốc gia, dân tộc…, từ một gia tài quý báu do tổ tiên để lại. Cộng đồng đó, dân tộc đó đã trao truyền cho nhau ngọn lửa thiêng đất Tổ – tình yêu quê hương đất nước – nguyện quyết chí bảo vệ, giữ gìn non sông đất nước như của thiêng vật báu, không cam chịu để cơ nghiệp của tiên tổ rơi vào tay kẻ địch.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, bao lần đất nước bị xâm lăng; bị thiên tai hủy hoại; song trong cuộc vật lộn cam go ấy, gian khổ ấy ý thức cộng đồng càng được hun đúc, cố kết thành chân lý:

“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”

Từ trong gian khó ấy, người Việt càng thấm thía với giá trị của lao động và hy sinh xương máu, của sức mạnh tiềm ẩn trong nền văn hoá dân tộc – văn hoá cội nguồn; càng thiết tha yêu quê hương đất nước, sống với người có thủy có chung; càng thấm thía  biết ơn công lao dựng nước của các vua Hùng. Hay nói đúng hơn, ý thức cộng đồng dân tộc được hun đúc và bồi đắp từ thời Hùng Vương dựng nước, từ trong gia đình, thân tộc, dòng họ, láng giềng, hàng xóm rồi cả nước. Ý thức đó được trao truyền cho nhau từ thế hệ nay sang thế hệ khác, đã tạo nên sức mạnh đoàn kết – sự cố kết cộng đồng- sức mạnh toàn dân tộc. Sức mạnh đó đã tạo thành nguồn lực hùng cường để dân tộc Việt Nam vững vàng bảo vệ và xây dựng đất nước qua hàng ngàn năm    lịch sử.

Giỗ Tổ Hùng Vương là sự khẳng định tín ngưỡng bản sắc văn hoá đặc trưng của người Việt và trở thành động lực tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Văn hoá ấy, nền tảng đạo lý ấy ngày càng được củng cố, phát triển đã trở thành lẽ sống, đạo đức, niềm tin cho các thế hệ người Việt và trở thành sức mạnh vô địch của cộng đồng Việt Nam vững bước trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh


Văn hóa truyền thống của Nhật Bản

Ý nghĩa của hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ

Văn hóa tuần trăng mật

Văn hoá tình dục 

( ST ) .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận