Hoàng thành Thăng Long – Wikipedia tiếng Việt

Hoàng thành Thăng Long (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành một trong những di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

Vào lúc 20 giờ 30 ngày 31/7/2010 theo giờ địa phương tại Brasil, tức 6 giờ 30 ngày 1/8/2010 theo giờ Nước Ta, Ủy ban di sản quốc tế ( WHC ) thuộc Tổ chức Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc ( UNESCO ) đã trải qua nghị quyết công nhận khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long – TP. Hà Nội là di sản văn hóa quốc tế. Những giá trị điển hình nổi bật toàn thế giới của khu di sản này được ghi nhận bởi 3 đặc thù điển hình nổi bật : chiều dài lịch sử vẻ vang văn hóa suốt 13 thế kỷ ; tính liên tục của di sản với tư cách là một TT quyền lực tối cao, và những tầng di tích lịch sử di vật phong phú, nhiều mẫu mã, sinh động. [ 1 ]

Các giá trị điển hình nổi bật toàn thế giới[sửa|sửa mã nguồn]

Họa đồ kinh thành Đông Kinh thời Lê với sông Nhị chảy ở phía đông, tháp Báo Thiên ở giữa, vương phủ chúa Trịnh chếch ở phía nam tháp, hồ Tây ở phía bắc và thành Đông Kinh gồm hai vòng lũy nằm giữa hồ Tây và tháp Báo Thiên

Theo tiêu chí (II): Những di tích trên mặt và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt là Phật giáo và Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, quy hoạch các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.

Theo tiêu chí (III): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long-Đông Kinh-Hà Nội với các Vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các Vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội.

Theo tiêu chí (VI): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội minh chứng rõ nét về một di sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới. Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một quốc gia sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới bao gồm hai cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Việt Nam.

Lịch sử tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]

Giai đoạn Tiền Thăng Long[sửa|sửa mã nguồn]

Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ, lần đầu tiên vùng đất sau là kinh thành Thăng Long nắm giữ vai trò một trung tâm quyền lực chính trị. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Cuối thế kỷ IX, chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng. Đầu thế kỷ X, các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết lẫn nhau, tạo ra thế loạn chia cắt Ngũ Đại Thập Quốc. Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến ra chiếm đóng phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên đất Tĩnh Hải quân, ông đã cho xây dựng chính quyền dựa trên danh xưng của chính quyền đô hộ nhà Đường, nhưng thực chất là một chính quyền độc lập và do người Việt quản lý.

Năm 931, Dương Đình Nghệ đem quân từ Ái châu ra Đại La đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nước Nam Hán. Lý Tiến bỏ chạy, Dương Đình Nghệ giải phóng thành Đại La giành quyền tự chủ cho quốc gia Việt được 6 năm thì bị Kiều Công Tiễn giết hại. Năm 938, Ngô Quyền hạ thành Đại La, hủy hoại Kiều Công Tiễn. Sau đó, ông chỉ huy trận Bạch Đằng, đánh bại quân Nam Hán, giết chết Hoằng Thao. Mùa xuân năm 939, ông xưng là Ngô Vương, không đóng đô ở Đại La mà về Cổ Loa. Sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, những Triều đại Đinh, Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư. Đại La lúc này do Đô hộ phủ sĩ sư Lưu Cơ quản lý và tu sửa Hoàng thành quay về hướng nam ( hướng về kinh đô Hoa Lư thay vì hướng về phương bắc như chính quyền sở tại đô hộ đã làm ) do đó mà vị quan này được coi là người ” giao chìa khóa ” thành Đại La cho Lý Thái Tổ. [ 2 ] [ 3 ]

Giai đoạn Lý – Trần từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1011, tại kinh đô Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô để thiên đô về thành Đại La và đổi tên kinh thành này là Thăng Long. Lý Thái Tổ cùng những quần thần đã mau lẹ thiết kế xây dựng những khu công trình cơ bản của Kinh thành Thăng Long. Đến đầu năm 1011 thì hoàn thành xong. Khi mới thiết kế xây dựng, Kinh thành Thăng Long được thiết kế xây dựng theo quy mô Tam trùng thành quách gồm : vòng ngoài cùng gọi là La thành hay kinh thành, vòng thành thứ hai là Hoàng Thành, giữa hai lớp thành này là nơi sinh sống của dân cư, lớp thành còn lại là Tử cấm thành hay Cấm thành hay Long Phượng thành là nơi ở của nhà vua. Các thời sau đều theo cách ấy mà phân loại .
Rồng thời Lý trên những phù điêu bằng đất sét, khai thác tại khu vực số 18 Hoàng Diệu năm 2003

Mục Chiếu dời đô của sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: … Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền), ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp đất Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.

Ngay từ năm 1010, khi mới định đô Thăng Long, Lý Thái Tổ đã khai công thiết kế xây dựng Hoàng Thành và hàng loạt hoàng cung ở trong Hoàng Thành. Hoàng thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa : Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc. Tuy còn những quan điểm khác nhau, nhưng địa thế căn cứ vào sử liệu và di tích lịch sử còn lại, hoàn toàn có thể xác lập cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông và thành phố kinh doanh sinh động của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Một Cột và chợ Tây Nhai ( chợ Ngọc Hà ). Cửa Đại Hưng ở khoảng chừng gần Cửa Nam lúc bấy giờ. Cửa Diệu Đức nhìn ra trước sông Tô Lịch, khoảng chừng đường Phan Đình Phùng lúc bấy giờ. Những cung điện chính còn thấy trong sử sách như : điện Càn Nguyên là nơi thiết triều đặt trên núi Nùng tức núi Long Đỗ, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và điện Giảng Võ. Bên trái Open Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, bên phải Open Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, chính Bắc dựng điện Cao Minh. Thềm những quan chầu vua gọi là Long Trì có hiên chạy dọc chạy xung quanh. Đằng sau điện Càn Nguyên là điện Long An và điện Long Thụy làm nơi nhà vua nghỉ ngơi. Bên trái xây điện Nhật Quang, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng sau là cung Thúy Hoa là nơi ở của những phi tần .
Sơ đồ phỏng dựng ( mang tính tìm hiểu thêm ) khu Hoàng thành Thăng Long thời Lý cùng chú giải 1 số ít tên cung điện chính .Năm 1029, Lý Thái Tông kiến thiết xây dựng lại hàng loạt khu cấm thành sau khi nơi đây bị tàn phá bởi vụ Loạn tam vương. Trên nền cũ điện Càn Nguyên, Lý Thái Tông cho dựng điện Thiên An làm nơi thiết triều. Hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và điện Thiên Phúc. Phía trước điện Thiên An là sân Rồng có đặt một quả chuông lớn. Hai bên tả hữu sân rồng có đặt gác chuông. Phía đông, tây sân Rồng là điện Văn Minh và điện Quảng Vũ, phía trước sân rồng là điện Phụng Tiên, trên Điện có lầu Chính Dương là nơi báo canh báo khắc. Sau điện Thiên An là điện Thiên Khánh hình Bát Giác. Sau điện Thiên Khánh là điện Trường Xuân. Trên điện Trường Xuân có gác Đồ Long. Từ điện Thiên Khánh nối với điện Thiên An ở phía sau đều có bắc cầu gọi là cầu Phượng Hoàng .Năm 1203, vua Lý Cao Tông mở màn một đợt thiết kế xây dựng mới. Cung điện mới được xây ở phía tây tẩm điện. Bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Chính Nghi, ở trên xây điện Kính Thiên, thềm gọi là Lệ Giao. ở giữa Open Vĩnh Nghiêm, bên phải Open Việt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau xây điện Thắng Thọ. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh dựng hiên chạy dọc thềm gọi là Kim Tinh. Bên trái gác Nguyệt Bảo là tòa Lương Thạch, phía tây xây gác Dục Đường ( phòng tắm ). Phía sau xây gác Phú Quốc, thềm gọi là Phượng Tiêu. Phía sau dựng cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư trên ao xây đình Ngoạn Y. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ nước thông với sông. [ 4 ] Ngoài ra những hoàng cung khác cũng được kiến thiết xây dựng liên tục, không đòi nào không có không mấy năm không có. Mỗi hoàng cung thường đều có tường bao xung quanh và làm cửa thông với hoàng cung khác. Ngoài hoàng cung, những vị vua nhà Lý còn cho thiết kế xây dựng nhiều khu công trình văn hóa tín ngưỡng khác để Giao hàng cho vua và hoàng tộc như : đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo ( nơi vua Lý Huệ Tông đã tu hành ), đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói bạc, hồ ao làm cảnh cũng được lập khá nhiều trong Hoàng thành. Năm 1049, đào hồ Kim Minh Vạn Tuế, đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và xây cầu Vũ Phượng đi vào, 10 năm sau lại xây thêm điện Hồ Thiên bát giác ở đấy. Năm 1051 đào hồ Thụy Thanh, hồ Ứng Minh. Năm 1098, đào hồ Phượng Liên và xây tại đây điện Sùng Uyên, bên trái lập điện Huy Dương, đình Lai Phượng bên phải dựng điện Ánh Thiềm, đình Át Vân, phía trước xây lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa .

Nhiều vườn ngự cũng được dựng nên trong Hoàng thành. Mùa thu năm 1048, mở luôn 3 vườn ngự: vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh và vườn Xuân Quang. Năm 1065, mở thêm vườn Thượng Lâm. Giữa thế kỷ XIV lại dựng một vườn ngự nữa nối liền với hậu cung. Theo sử cũ còn ghi giữa vườn có đào một cái hồ lớn: “Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và nhiều thứ kỳ hoa diệu thảo khác thêm vào đấy là chim quý thú lạ. Bốn mặt khai cho sông nước thông vào, gọi hồ ấy là Lạc Thanh Trì. Về phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng một tòa điện gọi là điện Lạc Thanh. Lại đào các hồ nhỏ khác, bắt người ở Hải Đông chở nước mặn chứa vào hồ ấy, để nuôi các loài hải sản như đồi mồi cá biển và các loại ba ba. Rồi bắt người Hóa Châu bắt cá sấu thả vào đấy. Lại có hồ Thanh Ngư để nuôi cá Thanh Phụ (cá diếc đuôi đỏ vảy biếc)… Lại làm dãy hành lang ở tây điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc, dựng dãy Trường Lang từ gác Nguyên Huyền đến cửa Đại Triều phía tây.

Giai đoạn Lê – Mạc từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi thắng lợi giặc Minh, Lê Thái Tổ vẫn đóng đô ở Thăng Long nhưng đổi tên là Đông Kinh. Về cơ bản Đông Kinh thời Lê không khác nhiều Thăng Long đời Lý Trần Hồ, Lê Thái Tổ thay thế sửa chữa lại hoàng thành do cuộc cuộc chiến tranh chống quân Minh để lại .Từ năm 1490 cho đến thế kỷ XVI kinh thành mới có nhiều biến hóa. Trong thời hạn này tường hoàng thành cũng như Đại La thành luôn được xây đắp lan rộng ra thêm ra. Năm 1490, để đề phòng những nạn loạn đảng như Lê Nghi Dân đang đêm trèo tường vào giết Lê Nhân Tông ở trong cung, Lê Thánh Tông cho xây lại Hoàng Thành lan rộng ra thêm 8 dặm nữa. Công việc thiết kế xây dựng trong 8 tháng mới xong. Trong Hoàng Thành Lê Thánh Tông cũng cho xây thêm hoàng cung và lập vườn Thượng lâm để nuôi bách thú. Năm 1512, Lê Tương Dực giao Vũ Như Tô đứng ra trông nom việc dựng hơn 100 nóc hoàng cung nguy nga, lại khai công làm Cửu Trùng Đài mà như sử cũ miêu tả là tuy chưa hoàn thành xong mà bóng rợp nửa hồ Tây. Năm 1514, Lê Tương Dực lan rộng ra Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng ( mỗi trượng là 3 m60 ) phủ bọc cả điện Tường Quang, Quán Trấn Vũ và chùa Kim Cổ Thiên Hoa .Từ năm 1516 đến năm 1527 là năm nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, kinh thành Đông Kinh chìm trong loạn lạc. Hầu hết những hoàng cung kho tàng đền chùa cũng như phường phố bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Trong nửa cuối thế kỷ XVI, cục diện Nam Bắc triều với một bên là nhà Mạc và một bên là Lê-Trịnh diễn ra kinh khủng với lợi thế ngày càng thuộc về phe Nam triều. Họ Trịnh lần lượt chiếm được nhiều tỉnh phía bắc như Tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Thành Phố Bắc Ninh … và đánh đến tận Thăng Long. Nhà Mạc phải rời bỏ kinh thành chạy lánh nạn nơi này nơi khác. Đông Kinh ngày một điêu tàn .Đến năm 1585, không chịu nổi kiếp sống lưu vong trường kỳ như vậy, Mạc Mậu Hợp quyết định hành động trở lại Đông Kinh. Một đợt kiến thiết xây dựng đại quy mô được khởi động .Năm 1599, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng tiến về tiếp quản Thăng Long. Hoàng Thành được tu sửa trong một tháng để đón vua Lê ra. Rồi từ ấy trở đi những hoàng cung mới xây ở đều nằm trong phủ Chúa Trịnh .

Giai đoạn từ kinh thành Thăng Long sang tỉnh TP.HN[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1788, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đem đại quân 29 vạn người sang chiếm Thăng Long không tốn một hòn đạn mũi tên. Đầu năm 1789, Quang Trung Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba đánh tan quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, triều Hậu Lê kết thúc, Quang Trung định đô ở Phú Xuân. Thăng Long chỉ còn là Bắc thành. Năm 1802 sau khi tàn phá xong Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế. Kinh đô vẫn được đặt ở Phú Xuân. Thăng Long vẫn mang tên gọi là Thăng Long nhưng chữ ” Long ” là rồng bị chuyển thành chữ ” Long ” nghĩa là thịnh vượng ý rằng nhà vua không còn ở đấy. Đồng thời những gì còn sót lại của Hoàng Thành sau những trận đại tiêu diệt cuối thế kỷ XVIII cũng lần lượt bị những đời vua nhà Nguyễn chuyển nốt vào Phú Xuân Giao hàng cho công cuộc xây dưng kinh thành mới. Chỉ duy có điện Kính Thiên và Hậu Lâu được giữ lại làm hành cung cho những vua Nguyễn mỗi khi Ngự giá Bắc thành. [ 5 ]Năm 1805, Gia Long cho phá bỏ tường của Hoàng Thành cũ vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành mà Hoàng Thành Thăng Long thì to lớn quá. Gia Long cho kiến thiết xây dựng thành mới theo kiểu Vauban của Pháp. Về quy mô thì nhỏ hơn thành cũ nhiều .Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Thành Phố Hà Nội. Cái tên này sống sót cho đến năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Thành Phố Hà Nội cho Pháp. Người Pháp đổi TP.HN thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là TP. hà Nội của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành TP.HN bị phá đi trọn vẹn để lấy đất làm văn phòng và trại lính cho người Pháp. Ngoại trừ cửa Bắc và cột cờ những gì còn sót lại của thành TP. Hà Nội đến ngày hôm nay chỉ là di chỉ khảo cổ và phục dựng .

Giai đoạn tỉnh thành TP.HN thời Nguyễn[sửa|sửa mã nguồn]

Thành TP.HN do Gia Long thiết kế xây dựng cũng làm theo thể thức những tỉnh thành khác và điều hầu hết là không được to rộng hơn Phú Xuân. Năm 1804, hoàng thành cũ bị phá và năm sau đó một thành chu vi nhỏ hơn ( 5 km ) được xây theo kiểu Vauban của Pháp. Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Bốn bức tường thành tương ứng với bốn con phố lúc bấy giờ là : phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý Nam Đế ở phía Đông, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía Tây .Tường thành xây bằng gạch hộp chân thành xây băng đá xanh và đá ong. Tường cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng. Thành mở ra 5 cửa là : cửa Đông ( tương ứng với phố cửa Đông giờ đây ), cửa Tây ( tương ứng với phố Bắc Sơn lúc bấy giờ ), cửa Bắc ( nay vẫn còn ), cửa Tây Nam ( tương ứng với đoạn giao phố Đường Chu Văn An và Nguyễn Thái Học giờ đây ), cửa Đông Nam ( tương ứng với đoạn giao phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học giờ đây ). Đường vào cửa xây vòm xuyên qua tường thành dài 23 m. Trên mỗi cửa có lầu canh gọi là thú lâu. Xung quanh tường thành là một dải đất rộng 6-7 m rồi đến một con hào rộng 15 – 16 m, sâu 5 m thông với sông Tô Lịch và sông Hồng. Hào lúc nào cũng có nước nhưng thường chỉ cao khoảng chừng 1 m .Phía ngoài những cổng thành có xây một hàng tường đắp liền trên bờ hào gọi là Dương mã thành, dài 2 trượng 9 thước, cao 7 thước 5 tấc. Các Dương mã thành đều cố một cửa bên gọi là Nhân Môn. Từ ngoài thành đi vào đều phải đi qua Nhân Môn rồi mới đến cổng thành. Phía trong thành được sắp xếp như sau :Ở TT thành là điện Kính Thiên được kiến thiết xây dựng từ thời Lê trên núi Nùng. Điện dựng trên những cột gỗ lim lớn người ôm không xuể. Thềm điện có hai đôi rồng đá rất đẹp cũng từ thời Lê. Sau điện này bị người Pháp tàn phá và xây trên nền cũ tòa nhà Con Rồng để làm trụ sở pháo binh Pháp. Sau năm 1954 nhà con Rồng lại trở thành trụ sở của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Nước Ta. Đây cũng chính là nơi diễn ra cuộc họp Bộ Chính trị lan rộng ra ngày 21 tháng 3 năm 1975 hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 75-76 .Phía đông thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đầu triều Nguyễn. Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan đảm nhiệm những kho ấy .Năm 1812 dựng Cột cờ Thành Phố Hà Nội ở phía nam thànhNăm 1835, vì cho rằng thành TP. Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành TP.HN chỉ còn cao chừng 5 mNăm 1848, Vua Tự Đức cho phá dỡ những hoàng cung thời nhà Hậu Lê còn lại trong thành, những đồ chạm khắc mỹ thuật bằng gỗ, đá đều đưa về Huế để trang trí những hoàng cung trong đó, chỉ còn sót lại rồng đá ở điện Kính Thiên … [ 6 ]

Các di tích lịch sử[sửa|sửa mã nguồn]

Phạm vi di sản quốc tế được công nhận là 20 ha ( trên tổng số 140 ha của Hoàng thành [ 7 ] ) gồm khu khảo cổ ở số 18 đường Hoàng Diệu và khu vực được số lượng giới hạn bởi 4 tuyến đường Điện Biên Phủ, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng và Hoàng Diệu. [ 8 ] Các di tích lịch sử tiêu biểu vượt trội của khu di tích lịch sử :

Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu[sửa|sửa mã nguồn]

Di tích này gồm có tầng dưới cùng là một phần bên phía đông của thành Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường, tầng trên là hoàng cung nhà Lý và nhà Trần, tiếp theo là một phần TT của đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần của TT tòa thành tỉnh TP.HN thế kỷ XIX .Bề mặt Lý – Trần ở tầng hai có rất nhiều hiện vật được phát hiện, như những nền hoàng cung, có size một chiều hơn 60 mét, chiều kia 27 mét. Có 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. Có tượng rồng, phượng mà được những nhà nghiên cứu mỹ thuật khẳng định chắc chắn là mô típ hoa văn thời Lý. Rồi đến những những tầng lớp bên trên, thời Lê, Nguyễn đều tìm được nhiều hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. Khi thực thi khai thác ở hố B16 thuộc địa điểm dự kiến thiết kế xây dựng toà nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học đã phát hiện một toà thành tháp 3 tầng lầu, 4 mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tích quy hoạnh xê dịch 1000 mét vuông thuộc mạng lưới hệ thống những hoàng cung Thăng Long xưa. Theo nhìn nhận thì đây là khu công trình tiên phong, có tầm cỡ và giá trị nhất được tìm thấy từ trước đến nay. Việc phát hiện ra thành tháp này được coi là dẫn chứng rõ ràng nhất về sự hoành tráng của kinh thành Thăng Long từ thời Lý-Trần. Mặc dù trước đây những nhà khảo cổ đã đoán định được di chỉ này nằm trong khu vực hoàng thành, thậm chí còn là cấm thành Thăng Long suốt từ thời Lý, Trần đến Lê nhưng do thực thi khai thác quá nhanh khiến cho nhiều những tầng lớp kiến trúc không bộc lộ rõ. [ 9 ]
Giếng nước thời Trần, gạch ghép kiểu lá nem rất vững chắcGiai đoạn đầu, tại những hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10, A11, A12, A13 trong những lớp đất ở độ sâu trung bình xấp xỉ – 1,50 m so với ” cốt ” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích cỡ, chỉ khoảng chừng bằng hoặc to hơn đầu ngón chân cái, chứng tỏ đã được tinh lọc. Hiện vật thu được trong những lớp đất này được xác lập có niên đại thời Lý. Các ô sỏi này thường có hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng chừng 1,30 m và ăn sâu xuống những lớp dưới, dày xấp xỉ 1,00 m. Điều này chứng tỏ đây là những hố đào có chủ đích để đầm – nhồi sỏi cuộn với đất sét. Đáy của những hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa những hiện vật được xác lập có niên đại Đinh – Tiền Lê .Các ô sỏi nói trên Open trong những hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có toàn bộ 40 ô sỏi, xếp thành 04 hàng dọc ( hai hàng phía đông có 10 ô trong một hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 09 ô ). Có lẽ đây chính lá những hố sỏi gia cố dưới những chân tảng đá kê dưới chân những cột. Nói đúng mực, theo ngôn từ kiến trúc – thiết kế xây dựng, đó là những móng trụ. Kết quả đo đạc đã giúp khẳng định chắc chắn đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 04 hàng chân cột. Khoảng cách giữa những cột Quân với những cột Cái là khoảng chừng 3,00 m. Khoảng cách giữa những cột Cái là khoảng chừng 6,00 m. Từ Bắc xuống Nam đã xác lập được 10 vì, nghĩa là tối thiểu kiến trúc này có 09 gian. Tuy nhiên, chưa thể khẳng định chắc chắn về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này còn tăng trưởng lê dài về phía Bắc, ngoài khu vực khai thác. Bước gian của kiến trúc này rất lớn, khoảng chừng 5,80 m – 6,00 m. Trên thực tiễn, bước gian của những di tích lịch sử kiến trúc bằng gỗ truyền thống hiện còn đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn .Chưa lý giải được nguyên do của sự chênh lệch về số lượng những móng trụ của những hàng móng trụ phía Tây nhưng ở đây chắc như đinh đã có 04 móng trụ sỏi gia cố cho 01 chân tảng cột Cái và 03 chân tảng cột Quân. Khoảng cách giữa hai hàng móng trụ sỏi ở đầu cuối chỉ là 4,1 m chứng tỏ đây chính là khoảng trống của chái phía Nam. Cách tim của những móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía Đông khoảng chừng 4,5 m và chạy dài suốt chiều rộng của ” toà nhà nhiều gian ” nói trên còn thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây-xếp bằng gạch ( trọn vẹn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa ), lòng cống rộng 0,17 m – sâu 0,20 m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên thành của rãnh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước trung bình của gạch ở đây là 0,36 m x 0,20 m x 0,05 m ). Về phía Đông, sát cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0,76 m chạy dọc suốt chiều dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0, 38 m x 0,38 m x 0,07 m. Có chỗ còn lát lẫn cả gạch in hoa .
Một phần của khu di tích lịch sử 18 Hoàng Diệu .Cách tim của những móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía tây khoảng chừng 2, 5 m cũng xuất lộ một cống thoát nước khác. Dấu vết của cống phía tây bị đứt quãng ở góc Tây Nam ” toà nhà nhiều gian “, khu vực bị mất 04 móng trụ gia cố chân tảng. Gạch xây-xếp cống thoát nước này là loại chuyên được dùng, được sản xuất chỉ để dùng làm cống-rãnh. Các viên dùng lát đáy có mặt cắt hình thang cân. Những viên dựng hai bên thành có hình bình hành. Với hình dáng đặc biệt quan trọng như vậy nên chỉ cần đào rãnh, đặt những viên gạch chuyên được dùng này xuống là thành cống. Cách tim của những hố sỏi gia cố chân tảng cột Quân phía nam khoảng chừng 4,5 m lại cũng xuất lộ một đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên được dùng tương tự như. Các đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên được dùng phía tây và phía nam ” toà nhà nhiều gian ” nếu còn nguyên vẹn sẽ ” bắt ” vuông góc chái Tây Nam. Các đường cống này chính là những rãnh thoát nước mưa của ” toà nhà nhiều gian “. Các cống này đều không có nắp để hoàn toàn có thể hứng nước mưa rơi thẳng xuống từ hàng ngói lợp ở đầu cuối của mái. Nghĩa là những rãnh thoát nước mưa này chính là số lượng giới hạn của mặt phẳng mái. Nói cách khác, số đo giữa những rãnh thoát nước này cho biết về chiều rộng và chiều dài của khu công trình kiến trúc. Khoảng cách từ tim rãnh thoát nước phía Tây đến tim rãnh thoát nước phía Đông là 17,65 m. Đó chính là kích cỡ chiều rộng của ” toà nhà nhiều gian ” này. Chiều dài của kiến trúc này hiện chưa chứng minh và khẳng định được. Nhưng nếu giả định ” toà nhà nhiều gian ” có 09 gian thì size này sẽ là khoảng chừng 67 m. Theo số đo, phế tích này cho thấy một khu công trình kiến trúc to lớn theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên chưa thể xác lập công suất của kiến trúc này. Chỉ biết rằng ” toà nhà nhiều gian ” này chạy dài theo trục Bắc – Nam, mở cửa ra cả hai hướng Đông và Tây .

Về phía Tây của toà nhà nhiều gian, cách tim các móng trụ sỏi gia cố hàng chân tảng cột Quân phía tây 4, 90m, đã tìm thấy những móng trụ gia cố chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như sỏi ở các hố đã nêu trên) còn có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1 lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. Hình dạng của các hố đào cũng khác, có hố tròn (đường kính từ 1,10 m đến 1,30 m), có hố vuông (1,20 m x 1,20 m). Bố cục của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tròn quây quanh một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung bình giữa tim của các móng trụ tròn là khoảng 1,30 m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tròn ngoại tiếp hình lục giác, cách tim các móng trụ tròn một khoảng 1,30 m.

Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây của toà nhà nhiều gian. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm), không thật đều, xê xích từ 8 m đến 12 m. Theo các nhà khảo cổ, một cụm móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu lầu lục giác nhỏ, được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn. Theo GS. Trần Quốc Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại hình kiến trúc này, gọi là các Trà đình. Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.

Ngay gần chái phía Nam của toà nhà nhiều gian thuộc phạm vi hố A19 có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rõ ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3,40 m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy dài theo trục Đông – Tây (vuông góc với toà nhà nhiều gian). Số đo bước gian đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3,30m – 5,45m – 5,30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được vì một số móng trụ sỏi đã bị mất và vì kiến trúc này còn tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực khai quật. Các nhà khảo cổ cho rằng đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3 gian hai chái. Ở phía Nam hố A20 đã xuất lộ một cụm phế tích rõ ràng hơn.

Khác với những phế tích vừa miêu tả, cụm phế tích này còn cả chân tảng đá đặt nguyên vị trí ( in situ ) trên hố gia cố. Thực tế này đã chứng minh và khẳng định đúng chuẩn về công suất của những hố sỏi. Hố gia cố chân tảng ở đây hình vuông vắn ( 1,30 m x 1,30 m ). Vật liệu gia cố hỗn hợp cả sỏi nhỏ, gạch, đá vụn. Tất cả còn 09 chân tảng, xếp hàng 04 hàng. Theo trục Đông – Tây, những chân tảng cách đều nhau một khoảng chừng 5,75 m .

Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lý. Đường kính trong của vành hoa sen này là 0,49 m. Trên mặt nhiều chân tảng còn rất rõ dấu vết cho biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0,43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây) một số chân tảng cũng còn giữ nguyên một số viên gạch (0,38m x 0,15 m x 0,11 m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này cho thấy có lẽ đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông – Tây. Đặc biệt, cụm phế tích này còn giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1, 00m tính từ tim chân tảng. Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0,39 m x 0,20m x 0,05 m) cao hơn mặt sân 0,36 m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch vuông (0,38 m x 0,38m x 0,06 m). Theo các nhận định ban đầu cho rằng các phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan mật thiết với nhau, bao gồm: một tòa nhà nhiều gian có chiều rộng 17,65 m, chạy dài ít nhất 09 gian (khoảng 67 m) và một dãy các lầu lục giác. Điều đáng quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường còn rất rõ một số mảng nền lát gạch vuông (0,38 m x 0,38m x 0,08 m), nối liền từ mép rãnh thoát nước phía Tây tòa nhà nhiều gian với các lầu lục giác.

Chiều rộng của nền gạch này đo được 2,60 m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đã được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0, 39 m x 0,18 m x 0,06 m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của lầu lục giác.

Gạch làm bằng đất sét trang trí hoa cúc

Căn cứ vào dấu vết của nền lát gạch vuông này, các nhà khảo cổ nhận định khả năng tòa nhà nhiều gian và các lầu lục giác có cùng một niên đại khởi dựng.

Về niên đại: Để định niên đại cho các dấu tích kiến trúc đã xác định ở khu A, các nhà khảo cổ dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hợp, kết hợp với việc phân tích địa tầng. Trước hết các nhà khảo cổ tập trung vào các trụ móng sỏi có chuẩn niên đại tương đối. Như đã trình bày, ở khu A20 còn có 8 trụ móng sỏi còn nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đều bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đẹp tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Lý ở tháp Tường Long (Hải Phòng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)… Chiều rộng của nền gạch này đo được 2, 60m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đã được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0,39 m x 0,18 m x 0,06 m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của lầu lục giác.

Đồng thời tại khu vực hố A20 có khá nhiều các di vật lá đề và gốm sứ thời Lý. Các loại gạch có thềm hiên nhà đều còn nguyên vẹn và dáng hình, sắc màu đều giống hệt như các viên gạch xây các tháp Lý vừa dẫn. Từ các tư liệu trên đây chúng tôi tin rằng đây là dấu tích kiến trúc của thời Lý. Niên đại này được củng cố khi so sánh mặt bằng của hai kiến trúc này là tương đương với địa tầng chuẩn Lý – Trần ở Đoan Môn đều ở độ sâu khoảng 2 m. Khi đó có các móng trụ có niên đại tương đối ta có thể so sánh tìm hiểu niên đại của các móng trụ khác. Ta sẽ thấy, móng trụ sỏi ở kiến trúc nhiều gian, ở lầu lục giác giống hệt về kỹ thuật, vật liệu, kích thước với các trụ móng sỏi Lý ở khu A20 [10].

Về địa tầng những trụ móng đó cùng độ sâu 1,80 m – 2,20 m với những kiến trúc ở A20, tức là đều nằm trong khoảng chừng niên đại khoảng chừng thời Lý. Hơn nữa xét về mặt kỹ thuật kiến thiết xây dựng, những móng trụ ở đây cũng đều thuộc kỹ thuật của thời Lý và thời Trần. Trong thời Lý, kỹ thuật gia cố sỏi đặc biệt quan trọng thấy rõ ở chùa Lạng ( Hưng Yên ), tháp Chương Sơn ( Tỉnh Nam Định ), tháp Phổ Minh ( Tỉnh Nam Định ) .

Các trụ móng sỏi ở thời Lý thường được gia cố rất chặt chẽ. Điều này khác với các trụ móng sỏi thời muộn hơn (có thể là thời Lê), có gia cố sỏi nhưng sơ sài hơn rất nhiều và ở độ sâu cao hơn. Nói cách khác các trụ móng sỏi Lê nằm ở mặt bằng cao hơn mặt bằng Lý – Trần. Hơn nữa, như đã nói trên, phủ trên mặt bằng của khu vực của các trụ móng thời Lý là một lớp di vật có niên đại Lý nên có thế tin rằng hầu hết các trụ móng ở đây đều thuộc thời Lý. Điều này còn được khẳng định thêm khi phát hiện một hồ nước cổ hình chữ nhật phía Nam khu kiến trúc nhiều gian bị lấp đầy vật liệu Lý, Trần. Điều này chứng tỏ hồ nước này đã bị lấp trong thời Trần. Hồ nước này đả phá vào móng kiến trúc lầu lục giác và một phần móng trụ của ‘kiến trúc nhiều gian. Các nhà khảo cổ cho rằng hồ này được đào vào đầu thời Trần và bỏ đi vào khoảng cuối thời Trần. Do đó ta cũng thấy các trụ móng sỏi đã xuất lộ ở cùng mặt bằng đều thuộc thời Lý.

Kiến trúc truyền thống Việt là những khu công trình có hệ chịu lực bằng khung gỗ, với cấu kiện cơ bản là mạng lưới hệ thống cột. Vì vậy, người Việt chỉ chú trọng gia cố nền mà không cần đến móng. Sức nặng của khu công trình được phân tán qua hệ cột nên chân những cột đá được gia cố bằng những chân tảng đá có kích cỡ lớn gấp nhiều lần đường kính cột. Hiện trạng khảo cổ học ( tầng văn hoá, hiện vật ) và hiệu quả khảo sát địa chất khu vực này được cho phép chứng minh và khẳng định có một dòng chảy cổ ( theo hướng Bắc – Nam ) ở phía Tây những phế tích nói trên. Nền đất tự nhiên chịu tải kém nên những khu công trình kiến trúc ở đây đều có mạng lưới hệ thống hố gia cố chân tảng. Đây là một thành tựu, một tân tiến kỹ thuật của người Việt trong thiết kế xây dựng. Với khảo cổ học kiến trúc ( hay khảo cổ học đô thị ), những phế tích nói trên còn phân phối những hiểu biết mới, có đặc thù triết lý về việc gia cố chân tảng, về phương pháp xác lập kích cỡ – quy mô của một kiến trúc qua những dấu vết của phế tích. Kỹ thuật này đã được thấy ở cố đô Hoa Lư thời Đinh – Tiền Lê. Ở kỹ thuật xây trụ móng được thực thi bằng những móng bè bằng gỗ lim cao 5 lớp tích hợp với lớp móng trụ đá ở bên trên. Đến thời Lý và thời Trần, kỹ thuật này giờ đây giải quyết và xử lý trọn vẹn bằng sỏi và gạch vụn, sành vụn. Móng trụ bằng sỏi thời Lý và thời Trần có quy mô và chắc như đinh nhất trong lịch sử dân tộc kiến trúc Nước Ta .Các phế tích kiến trúc ở khu A còn cần được điều tra và nghiên cứu kỹ hơn. Kiến giải của những nhà khảo cổ về một số ít phế tích chỉ là những đánh giá và nhận định bắt đầu. Tuy chưa thể chứng minh và khẳng định về quy mô và công suất của toàn bộ những khu công trình nhưng rõ ràng những phế tích này cho thấy một quần thể kiến trúc toà ngang dãy dọc khá phong phú và đa dạng. Dung mạo của một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long xưa đã hiển hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là hình ảnh của sách vở, chữ nghĩa. Cùng những phát hiện quan trọng về những dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những đồ vật dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Những mày mò này đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu và điều tra về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua những Triều đại. [ 11 ] Năm 1848, vua Tự Đức cho tháo dỡ hết những hoàng cung còn lại ở Thành Phố Hà Nội chuyển vào Huế .

Cột cờ TP. Hà Nội[sửa|sửa mã nguồn]

Cột cờ TP.HN trên một tấm bưu thiếp đầu thế kỷ XX Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt NamCột cờ TP.HN là di tích lịch sử được thiết kế xây dựng năm 1812 dưới triều vua Gia Long cùng lúc xây thành Thành Phố Hà Nội theo kiểu Vô-băng ( Vauban ). Cột cờ cao 60 m, gồm có chân đế, thân cột và vọng canh. Chân đế hình vuông vắn chiếm một diện tích quy hoạnh là 2007 m² và gồm 3 cấp thóp dần lên. Mỗi cấp đều có tường hoa với hoa văn bao quanh. Từ mặt đất lên tới chân cấp thứ 2 phải leo 18 bậc tại mặt phía Đông và mặt phía Tây. Muốn từ cấp 2 lên cấp 3 cũng phải leo 18 bậc ở hai cửa hướng Đông và Tây. Còn cấp thứ 3 có 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc ( với những tên ” Nghênh húc ” ( Đón ánh nắng ban mai ), ” Hồi quang ” ( ánh nắng phản chiếu ), ” Hướng Minh ” ( hướng về ánh sáng ) … ) và từ cạnh dưới lên tới cạnh trên phải qua tới 14 bậc cầu thang và nhiều kiến trúc khác …….
Đoan Môn khoảng chừng 1884 – 1885Đoan Môn là cửa vòm cuốn dẫn vào điện Kính Thiên. Đoan Môn gồm năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng chừng 1812 – 1814, vua Gia Long cho phá để xây Cột Cờ ( nay vẫn còn sừng sững ). Năm 2002, giới khảo cổ học Nước Ta được phép đào phía trong Đoan Môn đã tìm thấy ” lối xưa xe ngựa ” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lý. Nếu liên tục khai thác, sẽ hoàn toàn có thể thấy cả con đường từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên ở phía Bắc và cửa Tây Nam thành Thành Phố Hà Nội. [ 12 ]

Điện Kính Thiên[sửa|sửa mã nguồn]

Hành cung Long Thiên thời NguyễnBản đồĐiện Kính Thiên ( chữ Hán : 敬天殿 ) là di tích lịch sử TT, là hạt nhân chính trong tổng thể và toàn diện những địa điểm lịch sử vẻ vang của thành cổ TP.HN. Điện Kính Thiên chiếm vị trí TT của khu di tích lịch sử. Trước điện Kính Thiên là Đoan Môn rồi tới Cột Cờ TP. Hà Nội, phía sau có Hậu Lâu, Cửa Bắc, hai phía đông và tây có tường bao và Open nhỏ. Dấu tích điện Kính Thiên lúc bấy giờ chỉ còn là khu nền cũ. Phía nam nền điện còn có hàng lan can cao hơn một mét. Mặt trước, hướng chính nam của điện Kính Thiên xây mạng lưới hệ thống bậc lên bằng những phiến đá hộp lớn. Thềm điện gồm 10 bậc, 4 rồng đá chia thành 3 lối lên đều nhau tạo thành thềm rồng. Bốn con rồng đá được tạo tác vào thế kỷ 15 thời nhà Lê. [ 13 ] Điêu khắc rồng đá điện Kính Thiên là một di sản kiến trúc thẩm mỹ và nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu vượt trội cho nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc thời Lê sơ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau, miệng hé mở, ngậm hạt ngọc. Thân rồng uốn lượn mềm mại và mượt mà thành nhiều vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện ở trên. Trên sống lưng rồng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa. Hai thành bậc ở hai bên thềm điện là hai khối đá chạy dài, chính là hai con rồng được cách điệu hoá. Nền điện Kính Thiên và đôi rồng chầu đã phần nào phản ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa .
Điện Kính Thiên Năm 1886

Năm Ất hợi 1879 khi Trương Vĩnh Ký ra Hà Nội ông có vào điện Kính Thiên xem qua và kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi. Dù trong thời buổi suy tàn đó khi quân Pháp đã đánh chiếm thủ phủ Bắc Kỳ những cột gỗ lim theo bản tường trình tả có tầm vóc rất lớn, chu vi bằng một người ôm. Những điện đài phía sau điện Kính Thiên lúc đó đã hư hại nhiều nhưng vẫn để lại ấn tượng cho người khách Nam Kỳ.[14]

Từ Tổng hành dinh – Nhà D67 Khu A Bộ quốc phòng, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã đưa ra những quyết định hành động lịch sử vẻ vang lưu lại những mốc son của cách mạng Nước Ta. Đó là : Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 Cuộc Tổng tiến công năm 1972 Đánh thắng hai đại chiến của Mỹ mà đỉnh điểm là 12 ngày đêm cuối năm 1972. Tổng tiến công năm 1975, đỉnh điểm là chiến dịch Hồ Chí Minh .
Phòng họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong hầm ngầm D67Khu hầm lớn nhất nằm dưới khoảng chừng sân nối giữa điện Kính Thiên và nhà D67 dành cho Bộ Chính trị và Quân ủy TW gọi là hầm D67. Hai đường dẫn xuống hầm bắt nguồn từ hai phòng thao tác của tướng Giáp và tướng Dũng trong nhà D67, đường hầm rộng 1, 2 m, có 45 bậc thang bêtông, trát đá granite. Đi sâu xuống 10 m là mạng lưới hệ thống văn phòng của tổng hành dinh ngầm gồm bốn phòng rộng 50 mét vuông, chung một hiên chạy dọc bên phải. Phòng họp hình chữ nhật toàn khối, nền lát gạch, có một cửa ra vào. Các phòng bên dành cho ban thư ký và phòng để máy móc, điện đài. Cuối cùng là phòng chứa mạng lưới hệ thống thông hơi, lọc khí đồ sộ chạy điện được sản xuất tại Liên Xô. Các lối lên xuống của hai đường hầm và cửa ra vào có tới sáu cửa thép sơn xanh dày 12 cm, có nhiều tay nắm và mạng lưới hệ thống gioăng cao su đặc hoàn toàn có thể ngăn nước và khí độc .Toàn bộ mạng lưới hệ thống hầm ngầm đều liên hoàn đường điện máy phát. Hệ thống thông tin, liên lạc, phục vụ hầu cần, lương thực … đều khá đầy đủ. Đầu ra của hai cửa hầm này dẫn lên phòng thao tác của hai đại tướng tại nhà con rồng. Ngoài mạng lưới hệ thống hầm ngầm này, khu A thành cổ còn nhiều mạng lưới hệ thống hầm ngầm khác. Riêng những bộ phận đã được chuyển giao cho ban quản trị thành cổ là bốn khu hầm. Ngoài hầm của Bộ Chính trị vừa nói còn có hầm trước cửa nhà ” con rồng ” ( dưới nền điện Kính Thiên ), hầm gần khu thao tác của Cục Tác chiến và hầm của Ban cơ yếu có quy mô nhỏ hẹp, đơn thuần hơn nhưng cũng chống được bom và tên lửa hạng nặng. [ 15 ]Thượng tướng Lê Ngọc Hiền cho biết : những năm 1965 – 1966 Mỹ bắn phá miền Bắc, Bộ Tổng tham mưu lập kế hoạch bảo vệ bảo đảm an toàn cho cơ quan đầu não tại thành cổ với ba mức : báo động, xuống hầm và di tán. Hệ thống hầm ngầm sẽ được sử dụng ở mức báo động 2. Ông kể : ” Nhiệm vụ phong cách thiết kế, thiết kế xây dựng nhà, hầm được giao cho Bộ tư lệnh Công binh. Một số bộ phận như máy thông hơi, lọc khí, cửa sắt, điện đài … được nhập khẩu từ Liên Xô. Khoảng 300 cán bộ từ nhiều trung đoàn trình độ được huy động đào, xây hầm. “Hằng đêm, vào giờ giới nghiêm, thắp điện thao tác trong sự canh phòng cẩn mật. Hệ thống nhà, hầm được thiết kế xây dựng sáu tháng thì hoàn tất. Bộ Chính trị, Quân ủy TW dời khu vực thao tác từ nhà ” con rồng ” xuống nhà D67. Thời kỳ Mỹ ném bom nhiều lúc Bộ Chính trị mới phải thao tác dưới hầm ngầm .Tại hầm ngầm dành riêng cho Cục Tác chiến trong thành cổ TP. Hà Nội ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều máy điện thoại thông minh thời chiến .
Khung cảnh Hậu Lâu xưaLầu Tĩnh Bắc ( Tĩnh Bắc lâu ) là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính Thiên là hành cung của thành cổ TP. Hà Nội. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía bắc, xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu ( lầu phía sau ), hoặc là lầu Công chúa do cho rằng đây là nơi nghỉ ngơi của những cung nữ trong đoàn hộ tống vua Nguyễn ra ngự giá Bắc thành .

Tên Hán Việt là Chính Bắc Môn ( 正北門 ), là một trong năm cổng của thành TP.HN thời Nguyễn. Khi Pháp phá thành Thành Phố Hà Nội họ giữ lại cửa Bắc vì nơi đây còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882 khi Pháp hạ thành TP. Hà Nội lần thứ hai. Ngày nay trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc TP. Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. [ 16 ] [ 17 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận