Văn mẫu 12: Viết bài nghị luận văn học Sóng của Xuân Quỳnh chi tiết từng khổ

25 Tháng 11, 2020

Sóng được xem là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Bài thơ ra đời năm 1967 và cùng một số bài thơ về đề tài tình yêu của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt,… Sóng đã góp phần tạo nên một mạch chảy thật ngọt ngào và khác biệt trong nền thơ ca kháng chiến hừng hực lửa chiến đấu. Qua bài nghị luận văn học sóng càng khẳng định tài năng và vị thế của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh trong thi đàn hiện đại Việt Nam thế kỉ XX

nghị luận văn học sóng

1, Sơ lược về thể thơ và hoàn cảnh ra đời

Nhan đề bài thơ đã có ý nghĩa định hướng về một hình tượng xuyên suốt. Song có lẽ cái khác biệt đáng kể nhất ở đây là con sóng của Xuân Quỳnh được nhìn bằng nhãn quan phụ nữ. Và Xuân Quỳnh cũng là người mượn sóng để bộc bạch tình yêu của người phụ nữ thành công nhất: thi sĩ đã tạo hình một con sóng mang tính nữ, mang lại những cảm nhận bài thơ sóng hết sức mãnh liệt cho đông đảo bạn đọc thời kì đó.

Cũng phải chú ý quan tâm về thời gian bài thơ Sóng sinh ra. Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào, năm 1967 – thời gian cuộc cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt và tình yêu lứa đôi thuần tuý chưa phải là đề tài thông dụng của thơ ca, nhất lại là lời nói của một cái tôi cá thể đích thực, khao khát kiếm tìm bản thể và chứng minh và khẳng định phái tính. Gần như một “ bông hoa lạ ”, Sóng ngay lập tức có được sức sống tự nhiên trong lòng bạn đọc .

2, Nghị luận văn học sóng: Khổ thơ đầu tiên

Khổ thơ mở màn rõ ràng không phải chỉ nhằm mục đích tạo hình tượng sóng mà hướng tới cắt nghĩa “ bản thể sóng ”, cũng đồng thời là “ bản thể tình yêu ”, là dòng nội tâm đầy trộn lẫn của kẻ đang yêu :
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ .
Đặc tính của sóng được Xuân Quỳnh khái quát thật đơn giản và giản dị mà cũng thật ấn tượng vì nó tiềm ẩn những nhận thức giật mình. Bản thể sóng hoá ra gồm bao nhiêu đối cực, tưởng xích míc hoá ra thống nhất, luân chuyển không ngừng để mãi vẫn là mình .
Giữa những đối cực, nhà thơ đặt một liên từ tinh xảo : “ và ”. Những từ ngữ đặt ra ngoài văn cảnh là đối nghĩa, nhưng ở đây, lại là hai mặt của một thực thể, tạo hình con sóng sôi động. Nhưng vì là con sóng êm ả dịu dàng, nên nó không huỷ diệt, không đe doạ. Nó càng không phải con sóng thần, mà là con sóng thơ, sóng yêu, vì vậy nó đổ về bản năng người phụ nữ muôn đời
Tự sâu xa, sóng là một bản thể mang khát vọng được người đồng cảm và đồng cảm được người :
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể .

nghị luận văn học sóng

3, Nghị luận văn học sóng: Khổ thơ thứ hai và ba

Qua nghị luận 2 khổ thơ đầu bài sóng ta thấy được, với tuổi trẻ, băn khoăn sâu thẳm nhất, dữ dội nhất về bản thể chẳng thể nào nằm ngoài khao khát tình yêu, thứ tình cảm kì lạ khiến mỗi cá nhân tự phá vỡ cái tôi của mình, nhập vào một cái tôi khác để được “là mình” trọn vẹn:

Ôi con sóng thời xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ .
Trước đại dương bát ngát sóng vỗ, người con gái đã tâm lý về con sóng, về tình yêu của mình và câu hỏi về cội nguồn của sóng. “ Em nghĩ về biển lớn – từ nơi nào sóng lên ” thực ra cũng là câu hỏi về cội nguồn của tình yêu, là nơi tình yêu khởi đầu. Tình yêu khởi đầu từ nơi đâu, từ khi nào đó là câu hỏi muôn đời của những người khi đến với tình yêu nhưng có ai hoàn toàn có thể cắt nghĩa được rõ ràng và khá đầy đủ
Phân tích hình tượng sóng trong thơ Xuân Quỳnh

Khổ thơ thứ ba

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?”

Câu hỏi về khởi nguồn con sóng, khởi nguồn của tình yêu không phải là sự do dự hoài nghi mà đúng hơn là cách để người con gái chứng minh và khẳng định tình yêu của mình .
Sóng và mức mạnh của sóng là nổi huyền bí muôn đời, đâu hoàn toàn có thể thuận tiện cắt nghĩa, làm thế nào hoàn toàn có thể giải đáp được câu hỏi về cội nguồn của tình yêu. Điều mà trước đây nhà thơ Xuân Diệu đã từng do dự “ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu ” thì nay, một lần nữa lại được Xuân Quỳnh giãi bày bộc bạch ; tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời vậy, làm thế nào chớp lấy và hiểu được hết .
Thậm chí nghiên cứu và phân tích, lí giải những qui luật tự nhiên là điều con người hoàn toàn có thể làm được như nghiên cứu và phân tích, lý giải quy luật tâm lí, nhất là tâm lí của người đang yêu thì không thuận tiện chút nào, vì thế câu hỏi của Xuân Quỳnh vẫn chỉ là một câu hỏi kinh ngạc :
Xuân Quỳnh muốn trải qua một qui luật của tự nhiên để lí giải quy luật của tình yêu. Dù yếu tố ấy đã không ít lần được nói đến nhưng Xuân Quỳnh vẫn có một cách nói, cách lí giải độc lạ của mình. Điều cần chú ý quan tâm là câu kết của hai khổ thơ đều là những câu hỏi tu từ ; hỏi để mà chứng minh và khẳng định rõ hơn khát vọng tình yêu của mình .

“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.

4, Nghị luận văn học sóng: Khổ thơ thứ tư

Cảm xúc thơ làm Open một quan hệ tương chiếu : em – sóng. Từ khổ thơ thứ năm, em sẽ song hành cùng với sóng, không riêng gì song hành vì tương hợp, mà có lúc em và sóng hoà nhập trọn vẹn .
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, sôi động nhất của bài thơ. Nó là khổ thơ không riêng gì của xúc cảm, mà đặc biệt quan trọng hơn, nó khắc họa một thân thể sóng đang dạt dào niềm hạnh phúc, cồn cào nỗi nhớ nhung và khao khát. Không gian “ dưới lòng sâu ”, “ trên mặt nước ” mất đi tính khái quát, trở nên đơn cử, thân thiện như căn phòng niềm hạnh phúc khi nó dẫn đến một liên tưởng ngẫu hứng đầy hữu lí : con sóng “ không ngủ được ” .

nghị luận văn học sóng

5, Nghị luận văn học sóng: Khổ thơ thứ năm

Những khổ thơ tiếp theo cho thấy một Xuân Quỳnh “ già ” hơn, triết lí hơn, thấp thoáng nét lo âu, và nếu xét ở sức tạo hình, gợi hình, ngôn từ thơ không dào dạt như những khổ đầu. Cũng bởi Xuân Quỳnh không chỉ là một phụ nữ tân tiến, mà còn mang đậm truyền thống phụ nữ phương Đông, vì vậy nhà thơ luôn ý niệm tình yêu gắn với lòng chung thuỷ :
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương .
Ở đoạn thơ này, Xuân Quỳnh diễn đạt nổi nhớ trong tình yêu – nỗi nhớ của con sóng nhưng thực ra cũng là để diễn đạt nổi nhớ trong tình yêu. Tình yêu thường gắn liền với những nỗi nhớ, với xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh miêu tả thật tha thiết, sâu đậm đã bao trùm cả khoảng trống bát ngát :

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”.

Tuyển tập 5 đề nghiên cứu và phân tích Tây Tiến dễ “ trúng tủ ” nhất dành cho 2 k3

6, Nghị luận văn học sóng : Khổ thơ thứ sáu

Nó lan tỏa cả tầng sâu và bề rộng :

“Con sóng dưới lòng đất
Con sóng trên mặt nước”

Nó khắc khoải trong mọi thời hạn cả ngày, cả đêm, thậm chí còn cả trong mơ. Đó là một nỗi nhớ cồn cào, da diết không thể nào nguôi, không thể nào yên ; nó cuồn cuộn, dạt dào như những đợt sóng biển triền miên vô tận :

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Một nỗi nhớ thường trực mà như ở bài thơ “ Con tàu ” – Xuân Quỳnh đã tâm sự :

“Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ”.

Xuân Quỳnh đã rất tinh xảo khi miêu tả và nâng cao cung bậc nỗi nhớ trong tình yêu. Nếu bốn câu thơ đầu diễn đạt nỗi nhớ của con sóng :

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.

Thi hai câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ của người con gái được Xuân Quỳnh nâng lên ở một cung bật cao hơn :

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.

7, Nghị luận văn học sóng : Khổ thơ thứ bảy

Cũng chính cho nên vì thế mà tình yêu, nỗi nhớ ở đây trở nên thâm thúy hơn, thật hơn và từ nỗi nhớ hình ảnh con sóng ở đây còn được nhà thơ Xuân Quỳnh nâng lên trở thành hình tượng cho lòng thủy chung sắc son của người con gái. Mặc dù phải trải qua muôn vàn khó khăn vất vả cách trở nhưng con sóng vẫn đến được với bến bờ xa :

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Điều đó cũng giống như tình cảm, tấm lòng của người con gái :

“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

8, Nghị luận văn học sóng : Khổ thơ thứ tám

Kết thúc dòng tâm trạng, nhà thơ quay trở lại với suy ngẫm của riêng mình :

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mưa vẫn bay về xa”

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

nghị luận văn học sóng

Xuân Quỳnh đến với tình yêu bằng một niềm tin to lớn, niềm tin ấy xuất phát từ lòng tin ở mình, ở người, ở những quy luật của tự nhiên. Triết lý trong thơ Xuân Quỳnh là triết lý của một trái tim dạt dào yêu thương, muốn tìm thêm lí lẽ và cơ sở để cũng cố lòng tin của mình vào tình yêu .

Xuất phát từ lòng tin ấy, Xuân Quỳnh kết thúc bài thơ bằng những cảm nhận tinh tế, bằng sự trôi chảy của thời gian, của đời người đồng thời thể hiện một khát vọng mãnh liệt về sự bất tử của tình yêu:

8, Nghị luận văn học sóng : Khổ thơ thứ chín

Cuộc đời tuy dài nhưng không phải là vô cùng, thời hạn vẫn không ngừng đi qua tới ngày sau vô tận “ như biển kia dẫu rộng ” nhưng những chân mây mái miết vẫn bay về xa thế thì “ Cuộc đời ” và cả “ Biển kia ” cũng vậy, cũng hạn hẹp trong cái số lượng giới hạn của mình, không hề lâu bền vĩnh viễn. Chỉ có sóng mới mãi mãi “ ngàn năm vẫn vỗ ” và như thế vượt khỏi cái hữu hạn để hòa vào cái vô hạn bền vững và kiên cố muôn đời, là khát khao không nguôi của sóng :
Đến đây, ý hàm ẩn của khổ thơ ở đầu cuối và cũng là của cả bài thơ hiện rõ : khát vọng được hòa vào những lớp sóng vô hồi trên đại dương, để được vĩnh viễn cũng là khát vọng của tình yêu cá thể hạn hẹp muốn hòa vào biển lớn tình yêu, to lớn muôn đời và như vậy, tình yêu mới lâu bền hơn vững chắc .

Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là một tác phẩm đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Qua bài nghị luận văn học sóng ta thấy được thành công của bài thơ chính là ở những cảm xúc rất thật, rất chân thành của nhân vật trữ tình. Cuối cùng cũng phải kế đến sự tài hoa trong ngòi bút của Xuân Quỳnh với cách sử dụng thể thơ năm chữ cùng với các biện pháp nghệ thuật tinh tế.

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận