đề cương chi tiết ô nhiễm môi trường ở việt nam hiện nay – Tài liệu text

đề cương chi tiết ô nhiễm môi trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.53 KB, 21 trang )

Đề tài: ô
nhiễm môi
trường ở Việt
Nam hiện nay
Đề Tài : Thực Trạng Ô Nhiễm Môi Trường Ở Việt Nam Hiện Nay.
Xác định đối tượng nghiên cứu :
 Đối tượng nghiên cứu ở đây là “ Môi Trường Việt Nam hiện nay “
Các yêu cầu cần đáp ứng :
Tính cấp thiết của đề tài :
– Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên nghiêm
trọng hơn ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày,
chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông tin về việc môi
trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, tình trạng ô
nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Điều này khiến nọi người ai cũng phải
suy nghĩ…
Mục đích nghiên cứu :
– Bài nghiên cứu sẽ làm rõ những thực trạng về vấn đề ô nhiễm môi trường ở
Việt Nam hiện nay,đồng thời phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó
để từ đó đưa ra được các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường ở Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ nghiên cứu :
– Tìm kiếm và xử lý thông tin về vấn đề ô nhiễm môi trường Việt Nam hiện nay.
– Thực trạng ô nhiễm môi trường việt nam hiện nay.
– Đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu :
– Môi trường Việt Nam ( Đất,Nước,Không Khí,….).
– Thời Gian : Đầu thế kỉ XXI trở lại đây.
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu :
– Thu thập tài liệu qua Internet,qua sách báo,thực trạng hiện tại của môi trường
bằng quan sát.
– Sử dụng phương pháp tổng hợp,phân tích,xử lý số liệu,đánh giá,so sánh

Nội Dung :
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với các nước
phát triển mà còn là sự thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam.Thực trạng diễn ra ngành càng cấp bách và nan giải,chính vì vậy
chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng ô nhiễm môi trường hiện
nay ở nước ta.
Ô nhiễm môi trường nước :
 Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng
ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá
khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài
nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công
nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải
rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô
nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô
nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp
dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung
bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD)
có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp
nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa
xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần
tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong
vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm
công nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố
Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng
lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt,
nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ
sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn
tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu
lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4

là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
 Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở
Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý,
gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễm
nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập
trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác,
còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và
cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn
trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô
nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành
phố lớn là rất nặng.
– Thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 –
400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải,
chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước
thải; lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang
xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy
hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt
quá quy định cho phép .
– Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có
24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm thuộc diện phải di dời.
 Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá
tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy
hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.
 Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện
nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ
tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được

xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn
nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi
từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới
3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, do
lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh,
mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi
trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ
sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều
tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không
đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng
xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu
cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc;
thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt
Nam.
 Nguyên Nhân : Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình
trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của
người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong
hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền,
cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi
trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là
loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời
sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về
quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy
định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn
nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa
phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước

theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc
đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng
thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sách
đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu
tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt
0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi
trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có
khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước
ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)
Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí :
– Ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường
đô thị, công nghiệp và các làng nghề ở nước ta hiện nay. Ô nhiễm môi trường
không khí có tác động xấu đối với sức khoẻ con người (đặc biệt là gây ra các
bệnh đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và biến đổi khí hậu (hiệu
ứng “nhà kính”, mưa axít và suy giảm tầng ôzôn), Công nghiệp hoá càng
mạnh, đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không
khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều hướng xấu
càng lớn, yêu cầu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng.
Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí
– Ô nhiễm bụi : Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô
nhiễm bụi trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giao
thông lớn và ở gần các nhà máy, xí nghiệp cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn.Nồng độ
bụi trong các khu dân cư ở xa đường giao thông, xa các cơ sở sản xuất hay
trong các khu công viên cũng đạt tới xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.
– So sánh với tiêu chuẩn Việt Nam, tại hầu hết các khu vực của Hà Nội và TP.Hồ
Chí Minh, nồng độ bụi PM
10
các năm gần đây đều vượt quy chuẩn cho phép
(50 µg/m

3
),
Diễn biến nồng độ bụi PM
10
trung bình năm trong không khí xung quanh một số
đô thị từ năm 2005 đến 2009
Ghi chú : – Tp. Hồ Chí Minh: số liệu trung bình của 9 trạm tự động liên tục trong
thành phố
– Hà Nội, Đà Nẵng: số liệu từ một trạm tự động liên tục tại 1 vị trí của mỗi
thành phố
Nguồn: TTKTTV Quốc gia, 2010; Chi cục BVMT Tp. Hồ Chí Minh, 2010
 Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phép
từ 2 đến 3 lần, ở các nút giao thông thuộc các đô thị này nồng độ bụi lớn hơn
tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần, ở các khu đô thị mới đang diễn ra quá trình
thi công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi
thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 – 20 lần.
 Trên Hình V.5 giới thiệu diễn biến nồng độ bụi trong không khí từ năm 1995
đến hết năm 2002 ở các khu dân cư bên cạnh các khu công nghiệp.
 Xét Hình V.5 ta thấy, tuy công nghiệp và đô thị trong thời gian qua phát triển
nhanh, nhưng ô nhiễm bụi trong không khí ở các khu dân cư gần một số khu
công nghiệp cũ trong các năm gần đây (từ năm 1995 đến nay) có chiều hướng
giảm dần, có thể đây là kết quả của việc kiểm soát các nguồn thải công nghiệp
ngày càng tốt hơn. Riêng ở gần Cụm Công nghiệp Tân Bình (thành phố Hồ Chí
Minh) và Khu Công nghiệp Biên Hoà I thì có chiều hướng tăng lên. Ngược lại
ô nhiễm bụi ở khu dân cư thông thường trong đô thị ngày càng tăng hơn, có thể
là do hoạt động giao thông và xây dựng trong đô thị ngày càng gia tăng.
 Ô nhiễm khí SO
2
: Nói chung, nồng độ khí SO

2
trung bình ở các đô thị và khu
công nghiệp nước ta còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép.Trong các thành
phố, thị xã đã quan trắc thì ở các thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Biên Hoà,
Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Long An có nồng độ khí SO2 lớn nhất, nhưng vẫn
thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép tới 2 lần, ở các thành phố khác còn lại, như
Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long, Thanh Hoá, Vinh, Huế, Cần Thơ, Cà Mau, Mỹ
Tho, nồng độ khí SO
2
trung bình ngày đều dưới 0,1 mg/m3, tức là thấp hơn
trị số tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần.
 Ô NHIỄM KHÍ SO
2
, NO
2
VÀ CO : Nồng độ trung bình 1 giờ, cũng như trung
bình ngày của khí SO
2
, NO
2
và CO trong không khí ở gần hầu hết các đô thị
Việt Nam đều nhỏ hơn hoặc xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là chưa bị ô
nhiễm khí SO
2
, NO
2
và CO. Tuy vậy ở các nút giao thông chính và ở gần một
số khu công nghiệp, một số xí nghiệp nung gạch ngói, nồng độ các khí này đã
xấp xỉ bằng hoặc lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, có chỗ tới 2 – 4 lần. Thí dụ
như nồng độ khí SO

2
ở gần khu lò gạch thôn 6, thôn 7 xã Cẩm Hà, thị xã Hội
An, lớn hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần; ở các khu sản xuất vật liệu xây
dựng của tỉnh Hà Nam (Công ty Ba Nhất, Xi măng 77, Xí nghiệp Gạch ngói
Bình Lục, xã Mộc Bắc): lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 3 – 4 lần; ở gần các
Nhà máy Xi măng Sài Sơn, Gạch Vân Đình (Hà Tây): lớn hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 1,3 – 1,5 lần; ở Khu Công nghiệp Thái Nguyên và Khu Công nghiệp
Sông Công: lớn hơn tiêu chuẩn cho phép khoảng 1,2 lần; ở thị trấn Đông Triều
(Quảng Ninh), nồng độ khí SO2 xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.
 Ô nhiễm các khí CO, NO
2
: Ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ
2 – 5 mg/m
3
, nồng độ khí NO
2
trung bình ngày dao động từ 0,04 – 0,09mg/m
3
,
chúng đều nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô thị và khu công
nghiệp Việt Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm khí CO và khí NO
2
.
Tuy vậy, ở một số nút giao thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NO
2
đã vượt trị số tiêu chuẩn cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên
Phủ (thành phố Hồ Chí Minh) trị số trung bình ngày của năm 2001: 0,19, gấp
1,9 lần trị số tiêu chuẩn cho phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48 gấp 3,1 lần trị
số tiêu chuẩn cho phép; tương tự, năm 2002 nồng độ khí NO

2
= 0,191mg/m
3

khí CO = 12,67mg/m
3
.
Biểu đồ : Diễn biến nồng độ CO tại các tuyến đường phố của một số đô thị
2002-2006
Nguồn: Chi cục BVMT TP. Hồ Chí Minh, Cục BVMT, 2007
 Ô nhiễm chì (Pb) trong không khí đô thị : Thực hiện chỉ thị 24/2000/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, ở nước ta đã sử dụng xăng không pha chì từ ngày 1-
7-2001. Số liệu quan trắc ô nhiễm giao thông cho thấy nồng độ chì trong không
khí Hà Nội trung bình năm 2002 giảm đi khoảng 40 – 45% so với cùng thời kỳ
năm trước; tương tự, ở thành phố Hồ Chí Minh nồng độ chì giảm đi khoảng
50%.
 Nguyên Nhân gây ô nhiễm không khí :
 Nguồn ô nhiễm không khí từ hoạt động công nghiệp
• Công nghiệp hóa càng mạnh thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng càng lớn,
nguồn ô nhiễm không khí càng tăng. Ta thấy nhu cầu tiêu thụ xăng dầu
trong nước ngày càng tăng và dự báo trong 25 năm tới còn tiếp tục tăng cao
(Biểu đồ 3). Nếu các Tiêu chuẩn về chất lượng xăng dầu không được thắt
chặt thì chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí đô thị rất
nghiêm trọng. Tiêu thụ xăng dầu là một trong những nguyên nhân phát thải
các chất độc hại như CO, hơi xăng dầu (H
m
C
n
, VOC), SO
2

, chì, BTX. Phát
thải những chất này liên quan chặt chẽ đến chất lượng xăng dầu. Trong cơ
cấu tiêu thụ xăng dầu của quốc gia thì GTVT chiếm tỷ trọng lớn nhất (Biểu
đồ 4), là nguồn phát thải khí ô nhiễm lớn nhất trong đô thị.
Biểu đồ 3. Nhu cầu xăng dầu của Việt Nam những năm qua và dự báo cho
đến năm 2025
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006-2015
– Định hướng đến năm 2025, Bộ Công nghiệp, 7/2007
 Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải
– Hoạt động giao thông vận tải, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và hoạt
động xây dựng là những nguồn chính gây ô nhiễm không khí ở các khu đô thị.
Theo đánh giá của các chuyên gia, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thông
gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Xét các nguồn thải gây ra ô nhiễm không khí
trên phạm vi toàn quốc (bao gồm cả khu vực đô thị và khu vực khác), ước tính
cho thấy, hoạt động giao thông đóng góp tới gần 85% lượng khí CO, 95%
lượng VOCs.
– Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2007, ô nhiễm không khí ở đô thị do
giao thông gây ra chiếm 70%. Xét theo các nguồn thải gây ô nhiễm trên toàn
quốc, hoạt động giao thông đóng góp khoảng 85% lượng CO, 95% VOCs.
– Mô tô, xe máy là phương tiện giao thông phổ biến nhất, chiếm 95% về số
lượng và đáp ứng 90% nhu cầu đi lại tại các thành phố lớm. Hàng năm có
khoảng 3 triệu mô tô, xe máy và 150.000 ô tô mới tham gia giao thông. Mô tô,
xe máy lưu hành chưa được kiểm soát khí thải. Đa số mô tô, xe máy không
được bảo dưỡng, sửa chữa trong quá trình sử dụng nên mức phát thải và tiêu
hao lớn. Ý thức bảo vệ môi trường kém. Đa số dân không hiểu rõ tác hại của
khí thải và tác dụng của bảo dưỡng, sửa chữa đến giảm khí thải độc hại và tiết
kiệm tiêu hao nhiên liệu. Tính đến 2010 có 1.394.858 xe ô tô đang lưu hành
trong đó xe ô tô con 617.473, ô tô khách 163.514 và ô tô tải 660.324. Tổng số
xe mô tô, xe máy đang lưu hành xấp xỉ 33.000.000 chiếc.
– Bảng 3. Ước tính thải lượng các chất gây ô nhiễm từ các nguồn thải chính

của Việt Nam năm 2005 (Đơn vị: tấn/năm)
TT Ngành sản xuất CO NO2 SO2 VOCs
1 Nhiệt điện 4.562 57.263 123.665 1.389
3 Sản xuất công nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt 54,004 151,031 272,497 854
4 Giao thông vận tải 301.779 92.728 18.928 47.462
Cộng 360.345 301.022 415.090 49.705

Nguồn: Cục BVMT, 2006
 Biểu đồ 6 cho thấy tỷ lệ phát thải các khí ô nhiễm của các loại phương tiện
khác nhau. Xe máy là nguồn đóng góp chính các khí như CO, H
m
C
n
và VOCs.
Trong khi đó, xe tải lại thải ra nhiều SO
2
và NO
x
.
Biểu đồ 6. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do các phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ của Việt Nam
Nguồn: Hội thảo Nhiên liệu và xe cơ giới sạch ở Việt Nam, Bộ GTVT và
Chương trình môi trường Mỹ Á, 2004
 Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động xây dựng
Ở nước ta hiện nay hoạt động xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống, rất mạnh và
diễn ra ở khắp nơi, đặc biệt là ở các đô thị. Các hoạt động xây dựng như đào lấp đất,
đập phá công trình cũ, vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển, thường
gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô
nhiễm bụi, nồng độ bụi trong không khí ở các nơi có hoạt động xây dựng vượt trị số
tiêu chuẩn cho phép tới 10 – 20 lần.

 Nguồn ô nhiễm không khí từ sinh hoạt đun nấu của nhân dân
Nhân dân ở nông thôn nước ta thường đun nấu bằng củi, rơm, cỏ, lá cây và một tỷ lệ
nhỏ đun nấu bằng than. Nhân dân ở thành phố thường đun nấu bằng than, dầu hoả,
củi, điện và khí tự nhiên (Gas). Đun nấu bằng than và dầu hoả sẽ thải ra một lượng
chất thải ô nhiễm đáng kể, đặc biệt nó là nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường
không khí trong nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Trong những
năm gần đây nhiều gia đình trong đô thị đã sử dụng bếp gas thay cho bếp đun bằng
than hay dầu hoả.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường của các tỉnh thành năm 2002, và năm 2003, ở các
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, đặc biệt là ở các
thành phố và thị xã của các tỉnh phía Nam, một số gia đình có mức sống cao chuyển
từ đun nấu bằng than, dầu sang đun nấu bằng bếp gas ngày càng nhiều. Bếp gas gây ô
nhiễm không khí ít hơn rất nhiều so với đun nấu bằng than, dầu. Ngược lại, do giá dầu
hoả và giá điện tăng lên đáng kể, rất nhiều gia đình có mức thu nhập thấp đã chuyển
sang dùng bếp than tổ ong với số lượng lớn, bình quân mỗi gia đình tiêu thụ khoảng
2kg than/ngày, gây ra ô nhiễm không khí cục bộ nặng nề, nhất là lúc nhóm bếp và ủ
than.
1) Ô nhiễm môi trường đất :
 Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không khí và môi trường đất
cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Về môi trường đất, kết quả của một số khảo sát
cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng
lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước Long (Bình
Phước) hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần,
As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. (Cr,Cd,As: các chất hoá học độc hại) Thuốc bảo
vệ thực vật cũng gây ảnh hưởng đến đất. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực
vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg/ha/năm, tuy nhiên,
ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.
 Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2005 :
– Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật
trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng

đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp
gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý như
K2SO4, KCl, super photphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo kệt các
cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như ion Al3+,
Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.
– Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối
với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất- nước; tác dụng gây độc
không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong
môi trường đất. Theo các kết quả nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng
thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg
ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
trong đất.
– Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt đọng công nghiệp: kết quả của
một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công
nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước
Long hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần,
As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.
 Nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là :
1. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hóa học, phân tươi
2. Ô nhiễm đất do hóa chất BVTV
3. Ô nhiễm đất do nước thải sinh hoạt đô thị và khu công nghiệp, làng nghề thủ
công
……………………………………………………………………………………
2). Ngoài các loại ô nhiễm chính trên,Việt Nam chúng ta còn phải đối mặt với
1 số ô nhiễm khác cũng khá cấp bách hiện nay là :
 Ô Nhiễm Tiếng Ồn : Cùng với sự phát triển đô thị là sự tăng trưởng giao thông
vận tải trong đô thị. Giao thông vận tải là nguồn chính gây ô nhiễm tiếng ồn đô
thị.
– Kết quả quan trắc từ năm 2000 đến năm 2007 về mức ồn tương đương trung
bình ở bên cạnh đường giao thông trong giờ ban ngày (từ 6 giờ sáng đến 18 giờ

chiều) của các đường phố chính ở 13 thành phố, thị xã cho thấy phần lớn mức
ồn ở cạnh các đường giao thông là từ 70 đến 80dBA, về ban đêm mức ồn giao
thông nhỏ hơn 70dBA. Mức ồn giao thông cao nhất là 82 – 85 dBA và xảy ra ở
ngã tư Điện Biên Phủ – Đinh Tiên Hoàng (thành phố Hồ Chí Minh). Các đường
phố có mức ồn khoảng 80dBA là Quốc lộ 5 tại Sài Đồng (Hà Nội), đường
Nguyễn Trãi (Vinh), cạnh Nhà máy Ôxy Đồng Nai (Biên Hoà II), ngã tư Phú
Lợi thị xã Thủ Dầu Một, cổng Bệnh viện Quân đoàn 4 (Bình Dương). Đa số
các đường phố còn lại có mức ồn từ 65 đến 75dBA.
 Ô Nhiễm Ánh Sáng : Ô nhiễm ánh sáng là hiện tượng lạm dụng ánh sáng trên
mức cần thiết so với khả năng chịu đựng ánh sáng của con người và môi
trường. Ô nhiễm ánh sáng đang là nguy cơ đối với cuộc sống hiện đại.
Xã hội công nghiệp phụ thuộc khá nhiều vào ánh sáng nhân tạo vì nó là một
yếu tố quan trọng góp phần đắc lực trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Ánh sáng được dùng để chiếu sáng tại các địa điểm công cộng, văn phòng, nhà
máy, khu dân cư nhằm đáp ứng và phục vụ cho các hoạt động của xã hội như
học tập, làm việc, an ninh, vui chơi, giải trí Tuy nhiên, khi ánh sáng được sử
dụng không hiệu quả, gây ra hiện tượng sáng quá mức lại chính là nguyên nhân
của vấn đề ô nhiễm ánh sáng
Ô nhiễm ánh sáng gây ra các tác hại ở các dạng như: Lãng phí năng lượng và
tác động đến môi trường toàn cầu. Gây rối loạn các hệ sinh thái (Các loài sinh
vật vốn thích nghi với ánh sáng và bóng tối tự nhiên ), v.v…
 Biện Pháp Cải Tạo và Hạn Chế Ô nhiễm môi trường :
– Sau đây là một số biện pháp chính giúp cải tạo cũng như hạn chế nhất ảnh hưởng
xấu đối với môi trường hiện nay :
1. Giáo dục nhận thức của mọi người :
– Truyền thông nâng cao nhận thức và xây dựng văn hóa, đạo đức môi trường cho mọi
người dân đô thị, đặc biệt là đối với những người lái xe ô tô, xe máy và chủ các cơ sở
sản xuất. Chỉ bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo lại một cách hiệu
quả, chúng ta có thể biến mình thành những người bảo vệ môi trường tốt nhất.
2. Phát triển công nghiệp xanh

– Phát triển công nghệ sản xuất sạch hơn ở tất cả các khu công nghiệp và cơ sở công
nghiệp ở xung quanh thành phố (phát triển công nghiệp xanh);
3. Cải tạo, nâng cấp giao thông đô thị trở thành giao thông đô thị xanh
– Cải tạo quy hoạch hệ thống giao thông đô thị sao cho đáp ứng các chỉ tiêu: Tỷ lệ
diện tích giao thông động đạt 15-20% tổng diện tích xây dựng đô thị, tỷ lệ diện tích
giao thông tĩnh đạt 3-6%, mật độ đường đạt khoảng 6km/1km
2
;
– Phát triển giao thông công cộng (đạt trên 40%), giao thông đi bộ và đi xe đạp trong
thành phố;
– Thắt chặt các tiêu chuẩn môi trường có liên quan (tiêu chuẩn xăng dầu, tiêu chuẩn
khí thải của các phương tiện giao thông cơ giới);
– Tiến hành kiểm soát nguồn thải của các loại xe và cấm vận hành đối với các xe
không đạt tiêu chuẩn EURO2 về khí thải.
– Khuyến khích xe cộ sử dụng nhiên liệu sạch hơn (xe chạy bằng khí hóa lỏng (LPG),
khí tự nhiên nén (CNG), ethanol, dầu sinh học) và xe điện.
– Cấm hoặc giảm lượng xe cá nhân chạy ở khu vực trung tâm thành phố, chỉ dành cho
người đi bộ và xe công cộng.
4. Sử dụng năng lượng ánh sáng
Năng lượng ánh sáng là năng lượng tự nhiên thừa mứa nhất trên hành tinh của chúng
ta. Bằng việc sử dụng công nghệ thích hợp, con người sẽ có thừa năng lượng từ ánh
sáng mặt trời để sử dụng.
5. Giữ lượng carbon ổn định
Giữ khí CO2 không thoát ra khí quyển là cách hữu hiệu làm giảm thiểu hiện tượng
nóng lên của trái đất. ( VD : Trồng Rừng,Hạn chế dung năng lượng có thải ra CO2,
….)
6. Xây dựng nhà máy dây chuyền
Nhà Máy – Người Tiêu Dùng – Tái Chế – Nhà Máy Xử Lý Rác Thải. Mô hình dây
chuyền như vậy sẽ tránh khỏi được ô nhiễm môi trường.
7. Hạn Chế khí thải,nước thải gây ô nhiễm :

Các phương tiện giao thong cần chuyển đổi sang hình thức dung năng lượng tiết kiệm
năng lượng hoặc dùng năng lượng sạch. Các nhà máy lên đầu tư và nâng cấp các thiết
bị máy móc cũ nát gây ô nhiễm môi trường. Chú trọng đầu tư tìm kiếm nguồn năng
lượng mới
8. Giảm dân số
Dân số VN hiện nay khoảng trên 86 triệu người đang có chiều hướng tăng cao không
lường trước. Theo các chuyên gia, dân số đông ảnh hưởng rất xấu đến môi trường
sống cũng như sinh hoạt cộng đồng.
9. Phát Triển Nông Nghiệp để đáp ứng nhu cầu dân số :
Nâng cao lợi ích của sản xuất nông nghiệp như đảm bảo một số lượng nông nghiệp
tương xứng, đáp ứng được nhu cầu sống của lượng dân số mà hệ thống đó hướng tới
10. Xấy dựng luật pháp,chế tài mạnh mẽ để xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường.
Tài Liệu Tham Khảo
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo Môi trường Quốc gia, năm 2007. Môi
trường không khí đô thị Việt Nam.
2. http://vea.gov.vn
3. http://www.moitruong.com.vn
4. http://maxreading.com
Nội Dung : Ô nhiễm môi trường đang là yếu tố đáng quan ngại không những so với những nướcphát triển mà còn là sự thử thách so với những nước đang tăng trưởng trong đó cóViệt Nam. Thực trạng diễn ra ngành càng cấp bách và nan giải, chính vì vậychúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về tình hình ô nhiễm môi trường hiệnnay ở nước ta. Ô nhiễm môi trường nước :  Hiện nay ở Nước Ta, mặc dầu những cấp, những ngành đã có nhiều nỗ lực trongviệc thực thi chủ trương và pháp lý về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạngô nhiễm nước là yếu tố rất đáng lo lắng. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoákhá nhanh và sự ngày càng tăng dân số gây áp lực đè nén ngày càng nặng nề dối với tàinguyên nước trong vùng chủ quyền lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu côngnghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thảirắn. ở những thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ônhiễm môi trường nước do không có khu công trình và thiết bị giải quyết và xử lý chất thải. Ônhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ : ở ngành công nghiệpdệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trungbình từ 9-11 ; chỉ số nhu yếu ô xy sinh hoá ( BOD ), nhu yếu ô xy hoá học ( COD ) hoàn toàn có thể lên đến 700 mg / 1 và 2.500 mg / 1 ; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấpnhiều lần số lượng giới hạn được cho phép. Hàm lượng nước thải của những ngành này có chứaxyanua ( CN – ) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lầntiêu chuẩn được cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề những nguồn nước mặt trongvùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở những khu công nghiệp, khu công nghiệp, cụmcông nghiệp tập trung chuyên sâu là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phốHồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổnglượng nước thải ước tính 500.000 m3 / ngày từ những nhà máy sản xuất giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ những cơsở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than ; về mùa cạntổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng chừng 15 % lưulượng sông Cầu ; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4 – 9 và hàm lượng NH4là 4 mg / 1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi không dễ chịu …  Khảo sát 1 số ít làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ởBắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3 / ngày không qua giải quyết và xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễmnước ở những đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố TP.HN và thành phố Hồ ChíMinh. Ở những thành phố này, nước thải hoạt động và sinh hoạt không có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý tậptrung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp đón ( sông, hồ, kênh, mương ). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không giải quyết và xử lý nước thải, phần nhiều những bệnh viện vàcơ sở y tế lớn chưa có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý nước thải ; một lượng rác thải rắn lớntrong thành phố không thu gom hết được … là những nguồn quan trọng gây ra ônhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong những kênh, sông, hồ ở những thànhphố lớn là rất nặng. – Thành phố Thành Phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 – 400.000 m3 / ngày ; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý nước thải, chiếm 25 % lượng nước thải bệnh viện ; 36/400 cơ sở sản xuất có giải quyết và xử lý nướcthải ; lượng rác thải hoạt động và sinh hoạt chưa được thu gom khoảng chừng 1.200 m3 / ngày đangxả vào những khu đất ven những hồ, kênh, mương trong nội thành của thành phố ; chỉ số BOD, oxyhoà tan, những chất NH4, NO2, NO3 ở những sông, hồ, mương nội thành của thành phố đều vượtquá pháp luật được cho phép. – Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn / ngày ; chỉ có24 / 142 cơ sở y tế lớn là có giải quyết và xử lý nước thải ; khoảng chừng 3.000 cơ sở sản xuất gây ônhiễm thuộc diện phải di tán.  Không chỉ ở TP.HN, thành phố Hồ Chí Minh mà ở những đô thị khác như HảiPhòng, Huế, Thành Phố Đà Nẵng, Tỉnh Nam Định, Thành Phố Hải Dương … nước thải hoạt động và sinh hoạt cũngkhông được giải quyết và xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi đảm nhiệm nước thải đều vượt quátiểu chuẩn được cho phép ( TCCP ), những thông số kỹ thuật chất lơ lửng ( SS ), BOD ; COD ; Ô xyhoà tan ( DO ) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí còn 20 lần TCCP.  Về thực trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiệnnay Nước Ta có gần 76 % dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạtầng còn lỗi thời, phần nhiều những chất thải của con người và gia súc không đượcxử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho thực trạng ô nhiễm nguồnnước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo giải trình của Bộ Nôngnghiệp và Phát triển nông thôn, số vi trùng Feca coliform trung bình biến đổitừ 1.500 – 3.500 MNP / 100 ml ở những vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới3800-12. 500MNP / 100ML ở những kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, dolạm dụng những loại thuốc bảo vệ thực vật, những nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, tác động ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích quy hoạnh mặt nước sử dụng cho nuôitrồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷsản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quá trình kỹ thuật nên đã gây nhiềutác động xấu đi tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và khôngđúng cách những loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì những thức ăn dư lắngxuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm những chất hữucơ, làm tăng trưởng một số ít loài sinh vật gây bệnh và Open 1 số ít tảo độc ; thậm chí còn đã có tín hiệu Open thuỷ triều đỏ ở 1 số ít vùng ven biển ViệtNam.  Nguyên Nhân : Có nhiều nguyên do khách quan và chủ quan dẫn đến tìnhtrạng ô nhiễm môi trường nước, như sự ngày càng tăng dân số, mặt trái của quá trìnhcông nghiệp hoá, hiện đại hoá, hạ tầng yếu kém, lỗi thời : nhận thức củangười dân về yếu tố môi trường còn chưa cao … Đáng quan tâm là sự chưa ổn tronghoạt động quản trị, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền sở tại, cơ quan quản trị, tổ chức triển khai và cá thể có nghĩa vụ và trách nhiệm về trách nhiệm bảo vệ môitrường nước chưa thâm thúy và vừa đủ ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước làloại ô nhiễm gây nguy hại trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục so với đờisống con người cũng như sự tăng trưởng bền vững và kiên cố của quốc gia. Các pháp luật vềquản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu ( ví dụ điển hình như chưa có những quyđịnh và tiến trình kỹ thuật ship hàng cho công tác làm việc quản trị và bảo vệ nguồnnước ). Cơ chế phân công và phối hợp giữa những cơ quan, những ngành và địaphương chưa đồng nhất, còn chồng chéo, chưa lao lý nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràng. Chưa có kế hoạch, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nướctheo lưu vực và những vùng chủ quyền lãnh thổ lớn. Chưa có những lao lý hài hòa và hợp lý trong việcđóng góp kinh tế tài chính để quản trị và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạngthiếu hụt kinh tế tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sáchđầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp ( 1 số ít nước ASEAN đã đầutư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1 % GDP, còn ở Nước Ta mới chỉ đạt0, 1 % ). Các chương trình giáo dục hội đồng về môi trường nói chung và môitrường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản trị môi trường nước cònthiếu về số lượng, yếu về chất lượng ( Hiện nay ở Việt Nam trung bình cókhoảng 3 cán bộ quản trị môi trường / 1 triệu dân, trong khi đó ở 1 số ít nướcASEAN trung bình là 70 người / 1 triệu dân ) Ô Nhiễm Môi Trường Không Khí : – Ô nhiễm môi trường không khí đang là một yếu tố bức xúc so với môi trườngđô thị, công nghiệp và những làng nghề ở nước ta lúc bấy giờ. Ô nhiễm môi trườngkhông khí có ảnh hưởng tác động xấu so với sức khoẻ con người ( đặc biệt quan trọng là gây ra cácbệnh đường hô hấp ), tác động ảnh hưởng đến những hệ sinh thái và biến hóa khí hậu ( hiệuứng ” nhà kính “, mưa axít và suy giảm tầng ôzôn ), Công nghiệp hoá càngmạnh, đô thị hoá càng tăng trưởng thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường khôngkhí càng nhiều, áp lực đè nén làm biến hóa chất lượng không khí theo khunh hướng xấucàng lớn, nhu yếu bảo vệ môi trường không khí càng quan trọng. Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí – Ô nhiễm bụi : Ở hầu hết những đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ônhiễm bụi trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giaothông lớn và ở gần những xí nghiệp sản xuất, xí nghiệp sản xuất cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn. Nồng độbụi trong những khu dân cư ở xa đường giao thông vận tải, xa những cơ sở sản xuất haytrong những khu khu vui chơi giải trí công viên cũng đạt tới xê dịch trị số tiêu chuẩn được cho phép. – So sánh với tiêu chuẩn Nước Ta, tại hầu hết những khu vực của Thành Phố Hà Nội và TP.HồChí Minh, nồng độ bụi PM10các năm gần đây đều vượt quy chuẩn được cho phép ( 50 µg / m ), Diễn biến nồng độ bụi PM10trung bình năm trong không khí xung quanh một sốđô thị từ năm 2005 đến 2009G hi chú : – Tp. Hồ Chí Minh : số liệu trung bình của 9 trạm tự động hóa liên tục trongthành phố – TP.HN, TP. Đà Nẵng : số liệu từ một trạm tự động hóa liên tục tại 1 vị trí của mỗithành phốNguồn : TTKTTV Quốc gia, 2010 ; Chi cục BVMT Tp. Hồ Chí Minh, 2010  Nồng độ bụi trong không khí ở những thành phố lớn như Thành Phố Hà Nội, thành phố HồChí Minh, TP. Hải Phòng, TP. Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phéptừ 2 đến 3 lần, ở những nút giao thông vận tải thuộc những đô thị này nồng độ bụi lớn hơntiêu chuẩn được cho phép từ 2 đến 5 lần, ở những khu đô thị mới đang diễn ra quá trìnhthi công kiến thiết xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụithường vượt tiêu chuẩn được cho phép từ 10 – 20 lần.  Trên Hình V. 5 ra mắt diễn biến nồng độ bụi trong không khí từ năm 1995 đến hết năm 2002 ở những khu dân cư bên cạnh những khu công nghiệp.  Xét Hình V. 5 ta thấy, tuy công nghiệp và đô thị trong thời hạn qua phát triểnnhanh, nhưng ô nhiễm bụi trong không khí ở những khu dân cư gần một số ít khucông nghiệp cũ trong những năm gần đây ( từ năm 1995 đến nay ) có chiều hướnggiảm dần, hoàn toàn có thể đây là hiệu quả của việc trấn áp những nguồn thải công nghiệpngày càng tốt hơn. Riêng ở gần Cụm Công nghiệp Tân Bình ( thành phố Hồ ChíMinh ) và Khu Công nghiệp Biên Hoà I thì có khunh hướng tăng lên. Ngược lạiô nhiễm bụi ở khu dân cư thường thì trong đô thị ngày càng tăng hơn, có thểlà do hoạt động giải trí giao thông vận tải và thiết kế xây dựng trong đô thị ngày càng ngày càng tăng.  Ô nhiễm khí SO : Nói chung, nồng độ khí SOtrung bình ở những đô thị và khucông nghiệp nước ta còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn được cho phép. Trong những thànhphố, thị xã đã quan trắc thì ở những thành phố Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Long An có nồng độ khí SO2 lớn nhất, nhưng vẫnthấp hơn trị số tiêu chuẩn được cho phép tới 2 lần, ở những thành phố khác còn lại, nhưHà Nội, Hải Phòng Đất Cảng, Hạ Long, Thanh Hoá, Vinh, Huế, Cần Thơ, Cà Mau, MỹTho, nồng độ khí SOtrung bình ngày đều dưới 0,1 mg / m3, tức là thấp hơntrị số tiêu chuẩn được cho phép tới 3 lần.  Ô NHIỄM KHÍ SO, NOVÀ CO : Nồng độ trung bình 1 giờ, cũng như trungbình ngày của khí SO, NOvà CO trong không khí ở gần hầu hết những đô thịViệt Nam đều nhỏ hơn hoặc xê dịch trị số tiêu chuẩn được cho phép, tức là chưa bị ônhiễm khí SO, NOvà CO. Tuy vậy ở những nút giao thông vận tải chính và ở gần mộtsố khu công nghiệp, 1 số ít xí nghiệp sản xuất nung gạch ngói, nồng độ những khí này đãxấp xỉ bằng hoặc lớn hơn trị số tiêu chuẩn được cho phép, có chỗ tới 2 – 4 lần. Thí dụnhư nồng độ khí SOở gần khu lò gạch thôn 6, thôn 7 xã Cẩm Hà, thị xã HộiAn, lớn hơn tiêu chuẩn được cho phép nhiều lần ; ở những khu sản xuất vật tư xâydựng của tỉnh Hà Nam ( Công ty Ba Nhất, Xi măng 77, Xí nghiệp Gạch ngóiBình Lục, xã Mộc Bắc ) : lớn hơn tiêu chuẩn được cho phép từ 3 – 4 lần ; ở gần cácNhà máy Xi măng Sài Sơn, Gạch Vân Đình ( Hà Tây ) : lớn hơn tiêu chuẩn chophép từ 1,3 – 1,5 lần ; ở Khu Công nghiệp Thái Nguyên và Khu Công nghiệpSông Công : lớn hơn tiêu chuẩn được cho phép khoảng chừng 1,2 lần ; ở thị xã Đông Triều ( Quảng Ninh ), nồng độ khí SO2 giao động trị số tiêu chuẩn được cho phép.  Ô nhiễm những khí CO, NO : Ở những thành phố lớn như TP.HN, thành phố HồChí Minh, Thành Phố Đà Nẵng, TP. Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày xê dịch từ2 – 5 mg / m, nồng độ khí NOtrung bình ngày giao động từ 0,04 – 0,09 mg / mchúng đều nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn được cho phép, tức là ở những đô thị và khu côngnghiệp Nước Ta, nói chung chưa có hiện tượng kỳ lạ ô nhiễm khí CO và khí NOTuy vậy, ở một số ít nút giao thông vận tải lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NOđã vượt trị số tiêu chuẩn được cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện BiênPhủ ( thành phố Hồ Chí Minh ) trị số trung bình ngày của năm 2001 : 0,19, gấp1, 9 lần trị số tiêu chuẩn được cho phép, nồng độ CO năm 2001 : 15,48 gấp 3,1 lần trịsố tiêu chuẩn được cho phép ; tương tự như, năm 2002 nồng độ khí NO = 0,191 mg / mvàkhí CO = 12,67 mg / mBiểu đồ : Diễn biến nồng độ CO tại những tuyến đường phố của 1 số ít đô thị2002-2006Nguồn : Chi cục BVMT TP. Hồ Chí Minh, Cục BVMT, 2007  Ô nhiễm chì ( Pb ) trong không khí đô thị : Thực hiện thông tư 24/2000 / CT-TTgcủa Thủ tướng nhà nước, ở nước ta đã sử dụng xăng không pha chì từ ngày 1-7-2001. Số liệu quan trắc ô nhiễm giao thông vận tải cho thấy nồng độ chì trong khôngkhí Thành Phố Hà Nội trung bình năm 2002 giảm đi khoảng chừng 40 – 45 % so với cùng thời kỳnăm trước ; tương tự như, ở thành phố Hồ Chí Minh nồng độ chì giảm đi khoảng50 %.  Nguyên Nhân gây ô nhiễm không khí :  Nguồn ô nhiễm không khí từ hoạt động giải trí công nghiệp • Công nghiệp hóa càng mạnh thì nhu yếu tiêu thụ nguồn năng lượng càng lớn, nguồn ô nhiễm không khí càng tăng. Ta thấy nhu yếu tiêu thụ xăng dầutrong nước ngày càng tăng và dự báo trong 25 năm tới còn liên tục tăng cao ( Biểu đồ 3 ). Nếu những Tiêu chuẩn về chất lượng xăng dầu không được thắtchặt thì tất cả chúng ta sẽ phải đương đầu với yếu tố ô nhiễm không khí đô thị rấtnghiêm trọng. Tiêu thụ xăng dầu là một trong những nguyên do phát thảicác chất ô nhiễm như CO, hơi xăng dầu ( H, VOC ), SO, chì, BTX. Phátthải những chất này tương quan ngặt nghèo đến chất lượng xăng dầu. Trong cơcấu tiêu thụ xăng dầu của vương quốc thì GTVT chiếm tỷ trọng lớn nhất ( Biểuđồ 4 ), là nguồn phát thải khí ô nhiễm lớn nhất trong đô thị. Biểu đồ 3. Nhu cầu xăng dầu của Nước Ta những năm qua và dự báo chođến năm 2025N guồn : Quy hoạch tăng trưởng ngành dầu khí Nước Ta quy trình tiến độ 2006 – năm ngoái – Định hướng đến năm 2025, Bộ Công nghiệp, 7/2007  Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động giải trí giao thông vận tải vận tải đường bộ – Hoạt động giao thông vận tải vận tải đường bộ, những ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và hoạtđộng thiết kế xây dựng là những nguồn chính gây ô nhiễm không khí ở những khu đô thị. Theo nhìn nhận của những chuyên viên, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thônggây ra chiếm tỷ suất khoảng chừng 70 %. Xét những nguồn thải gây ra ô nhiễm không khítrên khoanh vùng phạm vi toàn nước ( gồm có cả khu vực đô thị và khu vực khác ), ước tínhcho thấy, hoạt động giải trí giao thông vận tải góp phần tới gần 85 % lượng khí CO, 95 % lượng VOCs. – Theo báo cáo giải trình môi trường vương quốc năm 2007, ô nhiễm không khí ở đô thị dogiao thông gây ra chiếm 70 %. Xét theo những nguồn thải gây ô nhiễm trên toànquốc, hoạt động giải trí giao thông vận tải góp phần khoảng chừng 85 % lượng CO, 95 % VOCs. – Mô tô, xe máy là phương tiện đi lại giao thông vận tải phổ cập nhất, chiếm 95 % về sốlượng và phân phối 90 % nhu yếu đi lại tại những thành phố lớm. Hàng năm cókhoảng 3 triệu mô tô, xe máy và 150.000 xe hơi mới tham gia giao thông vận tải. Mô tô, xe máy lưu hành chưa được trấn áp khí thải. Đa số mô tô, xe máy khôngđược bảo trì, thay thế sửa chữa trong quy trình sử dụng nên mức phát thải và tiêuhao lớn. Ý thức bảo vệ môi trường kém. Đa số dân không hiểu rõ mối đe dọa củakhí thải và công dụng của bảo trì, thay thế sửa chữa đến giảm khí thải ô nhiễm và tiếtkiệm tiêu tốn nguyên vật liệu. Tính đến 2010 có 1.394.858 xe xe hơi đang lưu hànhtrong đó xe xe hơi con 617.473, xe hơi khách 163.514 và xe hơi tải 660.324. Tổng sốxe mô tô, xe máy đang lưu hành giao động 33.000.000 chiếc. – Bảng 3. Ước tính thải lượng những chất gây ô nhiễm từ những nguồn thải chínhcủa Nước Ta năm 2005 ( Đơn vị : tấn / năm ) TT Ngành sản xuất CO NO2 SO2 VOCs1 Nhiệt điện 4.562 57.263 123.665 1.3893 Sản xuất công nghiệp, dịch vụ, hoạt động và sinh hoạt 54,004 151,031 272,497 8544 Giao thông vận tải đường bộ 301.779 92.728 18.928 47.462 Cộng 360.345 301.022 415.090 49.705 Nguồn : Cục BVMT, 2006  Biểu đồ 6 cho thấy tỷ suất phát thải những khí ô nhiễm của những loại phương tiệnkhác nhau. Xe máy là nguồn góp phần chính những khí như CO, Hvà VOCs. Trong khi đó, xe tải lại thải ra nhiều SOvà NOBiểu đồ 6. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do những phương tiện đi lại giao thôngcơ giới đường đi bộ của Việt NamNguồn : Hội thảo Nhiên liệu và xe cơ giới sạch ở Nước Ta, Bộ GTVT vàChương trình môi trường Mỹ Á, 2004  Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động giải trí xây dựngỞ nước ta lúc bấy giờ hoạt động giải trí kiến thiết xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu và cống, rất mạnh vàdiễn ra ở khắp nơi, đặc biệt quan trọng là ở những đô thị. Các hoạt động giải trí kiến thiết xây dựng như đào lấp đất, đập phá khu công trình cũ, vật tư kiến thiết xây dựng bị rơi vãi trong quy trình luân chuyển, thườnggây ô nhiễm bụi rất trầm trọng so với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt quan trọng là ônhiễm bụi, nồng độ bụi trong không khí ở những nơi có hoạt động giải trí kiến thiết xây dựng vượt trị sốtiêu chuẩn được cho phép tới 10 – 20 lần.  Nguồn ô nhiễm không khí từ hoạt động và sinh hoạt đun nấu của nhân dânNhân dân ở nông thôn nước ta thường đun nấu bằng củi, rơm, cỏ, lá cây và một tỷ lệnhỏ đun nấu bằng than. Nhân dân ở thành phố thường đun nấu bằng than, dầu hoả, củi, điện và khí tự nhiên ( Gas ). Đun nấu bằng than và dầu hoả sẽ thải ra một lượngchất thải ô nhiễm đáng kể, đặc biệt quan trọng nó là nguồn gây ô nhiễm chính so với môi trườngkhông khí trong nhà, tác động ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Trong nhữngnăm gần đây nhiều mái ấm gia đình trong đô thị đã sử dụng nhà bếp gas thay cho nhà bếp đun bằngthan hay dầu hoả. Theo báo cáo giải trình thực trạng môi trường của những tỉnh thành năm 2002, và năm 2003, ở cácđô thị lớn như Thành Phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hải Phòng, TP. Đà Nẵng, đặc biệt quan trọng là ở cácthành phố và thị xã của những tỉnh phía Nam, một số ít mái ấm gia đình có mức sống cao chuyểntừ đun nấu bằng than, dầu sang đun nấu bằng nhà bếp gas ngày càng nhiều. Bếp gas gây ônhiễm không khí ít hơn rất nhiều so với đun nấu bằng than, dầu. Ngược lại, do giá dầuhoả và giá điện tăng lên đáng kể, rất nhiều mái ấm gia đình có mức thu nhập thấp đã chuyểnsang dùng nhà bếp than tổ ong với số lượng lớn, trung bình mỗi mái ấm gia đình tiêu thụ khoảng2kg than / ngày, gây ra ô nhiễm không khí cục bộ nặng nề, nhất là lúc nhóm bếp và ủthan. 1 ) Ô nhiễm môi trường đất :  Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không khí và môi trường đấtcũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Về môi trường đất, tác dụng của 1 số ít khảo sátcho thấy hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng trong đất gần những khu công nghiệp đã tănglên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước Long ( BìnhPhước ) hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. ( Cr, Cd, As : những chất hoá học ô nhiễm ) Thuốc bảovệ thực vật cũng gây ảnh hưởng tác động đến đất. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thựcvật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5 – 1,0 kg / ha / năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.  Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường vương quốc 2005 : – Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học : sử dụng phân bón không đúng kỹ thuậttrong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực hiện hành phân bón thấp, có trên 50 % lượngđạm, 50 % lượng kali và giao động 80 % lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếpgây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý nhưK2SO4, KCl, super photphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo kệt cáccation kiềm và Open nhiều độc tố trong môi trường đất như ion Al3 +, Fe3 +, Mn2 + giảm hoạt tính sinh học của đất và hiệu suất cây cối. – Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật : Thuốc bảo vệ thực vật có đặc thù rất độc đốivới mọi sinh vật ; tồn dư lâu bền hơn trong môi trường đất – nước ; công dụng gây độckhông phân biệt, nghĩa là gây chết toàn bộ những sinh vật có hại và có lợi trongmôi trường đất. Theo những tác dụng nghiên cứu, lúc bấy giờ, mặc dầu khối lượngthuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5 – 1,0 kgai / ha / năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vậttrong đất. – Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt đọng công nghiệp : hiệu quả củamột số khảo sát cho thấy hàm lượng sắt kẽm kim loại nặng trong đất gần những khu côngnghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp PhướcLong hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần, As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần.  Nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Nước Ta là : 1. Ô nhiễm đất do sử dụng phân hóa học, phân tươi2. Ô nhiễm đất do hóa chất BVTV3. Ô nhiễm đất do nước thải hoạt động và sinh hoạt đô thị và khu công nghiệp, làng nghề thủcông … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … 2 ). Ngoài những loại ô nhiễm chính trên, Nước Ta tất cả chúng ta còn phải đương đầu với1 số ô nhiễm khác cũng khá cấp bách lúc bấy giờ là :  Ô Nhiễm Tiếng Ồn : Cùng với sự tăng trưởng đô thị là sự tăng trưởng giao thôngvận tải trong đô thị. Giao thông vận tải đường bộ là nguồn chính gây ô nhiễm tiếng ồn đôthị. – Kết quả quan trắc từ năm 2000 đến năm 2007 về mức ồn tương tự trungbình ở bên cạnh đường giao thông vận tải trong giờ ban ngày ( từ 6 giờ sáng đến 18 giờchiều ) của những đường phố chính ở 13 thành phố, thị xã cho thấy hầu hết mứcồn ở cạnh những đường giao thông vận tải là từ 70 đến 80 dBA, về đêm hôm mức ồn giaothông nhỏ hơn 70 dBA. Mức ồn giao thông vận tải cao nhất là 82 – 85 dBA và xảy ra ởngã tư Điện Biên Phủ – Đinh Tiên Hoàng ( thành phố Hồ Chí Minh ). Các đườngphố có mức ồn khoảng chừng 80 dBA là Quốc lộ 5 tại Sài Đồng ( TP. Hà Nội ), đườngNguyễn Trãi ( Vinh ), cạnh Nhà máy Ôxy Đồng Nai ( Biên Hoà II ), ngã tư PhúLợi thị xã Thủ Dầu Một, cổng Bệnh viện Quân đoàn 4 ( Tỉnh Bình Dương ). Đa sốcác đường phố còn lại có mức ồn từ 65 đến 75 dBA.  Ô Nhiễm Ánh Sáng : Ô nhiễm ánh sáng là hiện tượng kỳ lạ lạm dụng ánh sáng trênmức thiết yếu so với năng lực chịu đựng ánh sáng của con người và môitrường. Ô nhiễm ánh sáng đang là rủi ro tiềm ẩn so với đời sống tân tiến. Xã hội công nghiệp nhờ vào khá nhiều vào ánh sáng tự tạo vì nó là mộtyếu tố quan trọng góp thêm phần đắc lực trong quy trình tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Ánh sáng được dùng để chiếu sáng tại những khu vực công cộng, văn phòng, nhàmáy, khu dân cư nhằm mục đích cung ứng và Giao hàng cho những hoạt động giải trí của xã hội nhưhọc tập, thao tác, bảo mật an ninh, đi dạo, vui chơi Tuy nhiên, khi ánh sáng được sửdụng không hiệu suất cao, gây ra hiện tượng kỳ lạ sáng quá mức lại chính là nguyên nhâncủa yếu tố ô nhiễm ánh sángÔ nhiễm ánh sáng gây ra những tai hại ở những dạng như : Lãng phí nguồn năng lượng vàtác động đến môi trường toàn thế giới. Gây rối loạn những hệ sinh thái ( Các loài sinhvật vốn thích nghi với ánh sáng và bóng tối tự nhiên ), v.v …  Biện Pháp Cải Tạo và Hạn Chế Ô nhiễm môi trường : – Sau đây là 1 số ít giải pháp chính giúp tái tạo cũng như hạn chế nhất ảnh hưởngxấu so với môi trường lúc bấy giờ : 1. Giáo dục nhận thức của mọi người : – Truyền thông nâng cao nhận thức và kiến thiết xây dựng văn hóa truyền thống, đạo đức môi trường cho mọingười dân đô thị, đặc biệt quan trọng là so với những người lái xe xe hơi, xe máy và chủ những cơ sởsản xuất. Chỉ bằng cách sử dụng những nguồn nguồn năng lượng hoàn toàn có thể tái tạo lại một cách hiệuquả, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể biến mình thành những người bảo vệ môi trường tốt nhất. 2. Phát triển công nghiệp xanh – Phát triển công nghệ tiên tiến sản xuất sạch hơn ở toàn bộ những khu công nghiệp và cơ sở côngnghiệp ở xung quanh thành phố ( tăng trưởng công nghiệp xanh ) ; 3. Cải tạo, tăng cấp giao thông vận tải đô thị trở thành giao thông vận tải đô thị xanh – Cải tạo quy hoạch mạng lưới hệ thống giao thông vận tải đô thị sao cho phân phối những chỉ tiêu : Tỷ lệdiện tích giao thông vận tải động đạt 15-20 % tổng diện tích quy hoạnh kiến thiết xây dựng đô thị, tỷ suất diện tíchgiao thông tĩnh đạt 3-6 %, tỷ lệ đường đạt khoảng chừng 6 km / 1 km – Phát triển giao thông vận tải công cộng ( đạt trên 40 % ), giao thông vận tải đi bộ và đi xe đạp điện trongthành phố ; – Thắt chặt những tiêu chuẩn môi trường có tương quan ( tiêu chuẩn xăng dầu, tiêu chuẩnkhí thải của những phương tiện đi lại giao thông vận tải cơ giới ) ; – Tiến hành trấn áp nguồn thải của những loại xe và cấm vận hành so với những xekhông đạt tiêu chuẩn EURO2 về khí thải. – Khuyến khích xe cộ sử dụng nguyên vật liệu sạch hơn ( xe chạy bằng khí hóa lỏng ( LPG ), khí tự nhiên nén ( CNG ), ethanol, dầu sinh học ) và xe điện. – Cấm hoặc giảm lượng xe cá thể chạy ở khu vực TT thành phố, chỉ dành chongười đi bộ và xe công cộng. 4. Sử dụng nguồn năng lượng ánh sángNăng lượng ánh sáng là nguồn năng lượng tự nhiên thừa mứa nhất trên hành tinh của chúngta. Bằng việc sử dụng công nghệ tiên tiến thích hợp, con người sẽ có thừa nguồn năng lượng từ ánhsáng mặt trời để sử dụng. 5. Giữ lượng carbon ổn địnhGiữ khí CO2 không thoát ra khí quyển là cách hữu hiệu làm giảm thiểu hiện tượngnóng lên của toàn cầu. ( VD : Trồng Rừng, Hạn chế dung nguồn năng lượng có thải ra CO2, …. ) 6. Xây dựng nhà máy sản xuất dây chuyềnNhà Máy – Người Tiêu Dùng – Tái Chế – Nhà Máy Xử Lý Rác Thải. Mô hình dâychuyền như vậy sẽ tránh khỏi được ô nhiễm môi trường. 7. Hạn Chế khí thải, nước thải gây ô nhiễm : Các phương tiện đi lại giao thong cần quy đổi sang hình thức dung nguồn năng lượng tiết kiệmnăng lượng hoặc dùng nguồn năng lượng sạch. Các xí nghiệp sản xuất lên góp vốn đầu tư và tăng cấp những thiếtbị máy móc cũ nát gây ô nhiễm môi trường. Chú trọng góp vốn đầu tư tìm kiếm nguồn nănglượng mới8. Giảm dân sốDân số việt nam lúc bấy giờ khoảng chừng trên 86 triệu người đang có khunh hướng tăng cao khônglường trước. Theo những chuyên viên, dân số đông ảnh hưởng tác động rất xấu đến môi trườngsống cũng như hoạt động và sinh hoạt hội đồng. 9. Phát Triển Nông Nghiệp để cung ứng nhu yếu dân số : Nâng cao quyền lợi của sản xuất nông nghiệp như bảo vệ một số lượng nông nghiệptương xứng, phân phối được nhu yếu sống của lượng dân số mà mạng lưới hệ thống đó hướng tới10. Xấy dựng pháp luật, chế tài can đảm và mạnh mẽ để giải quyết và xử lý vi phạm ô nhiễm môi trường. Tài Liệu Tham Khảo1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo Môi trường Quốc gia, năm 2007. Môitrường không khí đô thị Nước Ta. 2. http://vea.gov.vn3. http://www.moitruong.com.vn4. http://maxreading.com

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận