Các phương pháp dạy học Tiếng Việt
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.36 KB, 7 trang )
Bạn đang đọc: Các phương pháp dạy học Tiếng Việt – Tài liệu text
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt
2.1. Khái niệm phương pháp dạy- học
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và cách thức làm việc của
trò trong môi trường giáo dục nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học đặt ra.
Theo quan niệm trên thì hoạt động học tập của trò là bình diện chủ yếu được
thể hiện trong giờ học. Môi trường giáo dục gồm: cuộc sống của cộng đồng, môi
trường sư phạm của nhà trường, những phương tiện phục vụ cho việc dạy và việc
học … Để cho học sinh học tập tích cực, chủ động và được môi trường hỗ trợ cho
việc học một cách tối ưu thì hoạt động của thầy phải là hoạt động có vai trò hướng
dẫn. Chính hoạt động của thầy sẽ tổ chức ra các hoạt động học tập cho học sinh, sẽ
vận hành môi trường tham gia một cách có hiệu quả vào việc tìm kiếm, phát hiện,
vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh, phương pháp dạy học hiểu theo cách này
sẽ tạo ra những giờ học không chỉ có giao tiếp một chiều: thầy phát – trò nhận, thầy
yêu cầu – trò làm theo, mà còn có giao tiếp nhiều chiều: thầy – trò, trò – thầy, trò –
trò. Nó tạo ra những giờ học có sự hợp tác tốt giữa thầy và trò và giữa những người
học với nhau, khiến cho việc học tập trong trường gần với việc lao động ở cộng
đồng, tạo cho người học nhiều cơ hội để vận dụng những điều đã học vào cuộc
sống.
2.2. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt
2.2.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phân tích ngôn ngữ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh
phát hiện ra các hiện tượng ngôn ngữ nhất định từ các ngữ liệu để phát hiện ra
những đặc trưng của chúng. Phương pháp phân tích ngôn ngữ được sử dụng trong
tất cả các phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học.
Tuỳ thuộc mức độ và mục đích phân tích mà phương pháp phân tích ngôn ngữ
có thể tiến hành theo các mức độ khác nhau như: quan sát ngôn ngữ (là giai đoạn
đầu trong quá trình phân tích ngôn ngữ nhằm tìm những điểm giống và khác nhau
và sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định), phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp,
phân tích chính tả, phân tích tập viết, phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn
chương…Tất cả các dạng phân tích ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của nhiều
bài tập khác nhau: bài tập tập đọc, tập viết, chính tả, luyện nói và viết.
2.2.2. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Rèn luyện theo mẫu trong dạy học Tiếng Việt là phương pháp giáo viên hướng
dẫn cho học sinh dựa theo mẫu lời nói đã được sách giáo khoa xây dựng hoặc mẫu
của giáo viên để giải quyết các bài tập, rèn kĩ năng hoặc tạo ra mẫu lời nói của
chính mình.
Phương pháp rèn luyện theo mẫu được ứng dụng trong tất cả các phân môn
Tiếng Việt ở tiểu học. Học sinh có thể dựa theo các mẫu của sách giáo khoa, của
giáo viên để rèn luyện về chữ viết, luyện về phát âm, luyện đọc, giải nghĩa từ, đặt
câu, viết đoạn văn
Để thực hiện phương pháp, giáo viên cần tuân thủ quy trình sau:
-Giáo viên cung cấp mẫu lời nói hoặc cho học sinh đọc mẫu trong sách giáo
khoa (nếu có).
-Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu để nắm được bản chất, cách tạo
mỗi loại mẫu.
-Học sinh mô phỏng tạo ra lời nói của mình.
-Giáo viên tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả và tự đánh giá kết quả thực
hiện lời nói của mình và của bạn.
Ví dụ: Dạy bài tập số 1, tiết Tập làm văn (Tiếng Việt 2, tập 1, Nhà xuất bản
Giáo dục, trang 54) với yêu cầu: “Trả lời câu hỏi bằng hai cách theo mẫu: a) Em có
đi xem phim không ?; b) Mẹ có mua báo không ? ; c) Em có ăn cơm bây giờ
không ?”. Sách giáo khoa đã có sẵn mẫu sau:
“M: -Em có thích đọc thơ không ?
-Có, em rất thích đọc thơ.
-Không, em không thích đọc thơ”.
Giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh dựa vào mẫu để trả lời các yêu cầu
của câu hỏi a, b, c theo hai cách như trên
2.2.3. Phương pháp giao tiếp
Phương pháp giao tiếp là phương pháp giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng
những tri thức sơ giản đã học vào việc thực hiện các nhiệm vụ giao tiếp cụ thể bằng
Tiếng Việt.
Thực hiện phương pháp giao tiếp, giáo viên cần:
-Tạo các tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp ở học sinh.
-Giúp học sinh định hướng hoạt động giao tiếp nói hoặc viết của mình như:
nói, viết cho ai; nói, viết về cái gì; nói, viết trong hoàn cảnh nào
-Hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng diễn đạt của mình để tạo ra lời
nói, viết hoàn chỉnh trong giao tiếp.
-Hướng dẫn học sinh đánh giá, nhận xét, bổ sung cho hoàn thiện
Ví dụ: Dạy bài tập 1 “Kể lại một trận thi đấu thể thao”, tiết Tập làm văn tuần
28 (sách Tiếng Việt 3, tập 2, trang 88), giáo viên có thể dựa vào các câu hỏi gợi ý ở
sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh có thể kể về một buổi thi đấu thể thao các em
đã tận mắt nhìn thấy trên sân vận động, sân trường hoặc trên ti vi; cũng có thể kể về
một buổi thi đấu các em nghe tường thuật trên đài phát thanh, nghe qua người khác
hoặc đọc trên sách, báo Kể dựa theo gợi ý nhưng không nhất thiết phải theo sát
gợi ý, có thể linh hoạt thay đổi trình tự các gợi ý
2.2.4. Phương pháp trò chơi học tập
Trò chơi là một hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh. Thông qua các
trò chơi, học sinh được luyện tập làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm,
đơn vị lớp theo sự phân công và với tinh thần hợp tác. Cùng với những hình thức
học tập khác, trò chơi tạo cơ hội để học sinh học bằng tự hoạt động: tự củng cố kiến
thức và tự hoàn thiện kĩ năng.
Trò chơi phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
-Mục đích của trò chơi phải hướng vào việc củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ
năng ở từng bài, từng nhóm bài, từng phần của chương trình.
-Nội dung chơi là một đơn vị kiến thức, một số thao tác của một kĩ năng hay
của nhiều đơn vị kiến thức.
-Hình thức của trò chơi phải đa dạng giúp cho học sinh luôn được thay đổi
cách thức hoạt động trong lớp, phối hợp được nhiều cơ quan vận động và các giác
quan tham gia hoạt động cùng một lúc để các em học tập một cách linh hoạt và
hứng thú.
-Cách chơi cần đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Mỗi trò chơi cần thu
hút nhiều học sinh tham dự.
-Điều kiện để tổ chức trò chơi cần đơn giản, phương tiện để chơi dễ làm, giáo
viên có thể tự chuẩn bị và tự tổ chức ngay trong phòng học.
-Có nhiều loại hình trò chơi để học Tiếng Việt, chẳng hạn:
+ Ở lớp 1, phần học âm, vần, học sinh có thể học bằng các trò chơi:
*Tô chữ trên tranh: để nhận mặt chữ ghi âm, vần mới và đọc tiếng chứa
âm (vần) mới học.
*Trò chơi cờ (hoặc Đôminô): Giúp học sinh đọc và viết chữ ghép được
trên bàn cờ để học ghép tiếng có âm, vần mới và tìm nghĩa của từ.
*Trò chơi đi tìm lời thơ: để luyện ghép tiếng nhanh và chọn từ có nghĩa
phù hợp với việc diễn đạt chính xác ý câu thơ.
*Trò chơi nhìn ra xung quanh để tìm nhanh các tiếng chứa tiếng có âm,
vần mới.
*Trò chơi viết thư trong nhóm: giúp học sinh tập dùng từ chứa âm, vần
mới và tạo ra lời nói …
+ Ở lớp 2 và lớp 3 có thể tổ chức các trò chơi:
*Trò chơi đọc nhanh thuộc giỏi và đọc thơ truyền điện: nhằm giúp học
sinh học thuộc lòng nhanh.
*Trò chơi thì tìm từ, tiếng mở đầu bằng chữ cái: giúp học sinh học các
quy tắc chính tả.
*Trò chơi đóng vai: giúp học sinh học nói các nghi thức lời nói (chào hỏi,
cảm ơn, xin lỗi, mời; đáp lời chào, cám ơn …).
Chú ý: Không được lạm dụng phương pháp chơi để học trong dạy Tiếng Việt.
Tùy vào yêu cầu, nội dung của bài học mà giáo viên có thể tổ chức một hoặc hai trò
chơi cho một bài học, cũng sẽ có những bài học không có trò chơi. Việc tổ chức
hoạt động chơi để học trong giờ học cần được giáo viên cân nhắc kĩ để điều hòa với
các hoạt động khác.
2.2.5. Phương pháp thảo luận nhóm
-Phương pháp thảo luận nhóm có tác dụng hình thành ở học sinh khả năng giao
tiếp, khả năng hợp tác, khả năng thích ứng và khả năng độc lập suy nghĩ.
-Hình thức thảo luận có thể dùng ở nhiều loại bài thuộc nhiều nội dung học
tập.
Ví dụ, có thể dùng trong khi dạy tập đọc (phần tìm hiểu nội dung bài), đặc biệt
là ở những yêu cầu về suy luận, phán đoán ý từ một bài đọc cụ thể, hoặc nhận xét về
một chi tiết, ý tưởng nào đó trong bài đọc. Có thể dùng thảo luận để xây dựng dàn ý
cho một bài viết; thảo luận để đưa ra lời nói (miệng hoặc viết) đáp ứng với một tình
huống giao tiếp cụ thể được đặt ra cho mỗi cá nhân hoặc mỗi nhóm học sinh.
-Quy mô thảo luận: có thể là nhóm nhỏ (2 – 4 học sinh), nhóm lớn (khoảng 10
học sinh), cả lớp.
-Để thảo luận nhóm thành công, giáo viên phải có một hệ thống câu hỏi gợi ý.
Đây là các điểm tựa để học sinh dựa vào đó mà thảo luận, thực hiện yêu cầu của bài
học. Nội dung các câu hỏi cần hướng vào sự khai thác kinh nghiệm, cách nghĩ của
học sinh, khuyến khích từng học sinh tham gia một cách tự tin vào hoạt động thảo
luận.
Giáo viên cần phân biệt điều hành thảo luận theo hệ thống câu hỏi khác với
việc yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi trong phương pháp vấn đáp. Những câu hỏi
gợi ý trong các cuộc thảo luận không phải lúc nào cũng chỉ có một câu trả lời duy
nhất đúng. Những câu trả lời hướng về yêu cầu của bài học, đáp ứng được từng
phần yêu cầu của bài học đều được chấp nhận.
Cuối mỗi cuộc thảo luận, giáo viên phải tổng kết các ý kiến của học sinh đã
đóng góp thành một ý kiến đúng, đầy đủ, có tính thuyết phục.
Ví dụ: Khi thực hiện bài tập số 3 (Bài chính tả ở tuần 25, Tiếng Việt 2, tập 2),
giáo viên có thể chia nhóm nhỏ cho học sinh thảo luận theo 2 câu hỏi gợi ý:
1) Những từ nào trái nghĩa với từ “khó” ? (dễ, giàu, đơn giản…). Những từ
nào chỉ vật dùng để viết chữ ? (bảng, vở, giấy, đất, sân…)…
2) Chọn trong số các từ đó một hoặc một vài từ bắt đầu bằng: gi, d, r…
Sau khi học sinh đưa ra các câu trả lời, giáo viên cần chốt lại bằng câu trả lời
chung: Những từ các em nêu ra đều đúng với yêu cầu về nghĩa, song để đáp ứng
yêu cầu về chữ viết của các từ đó nêu trong bài tập, chúng ta chỉ chọn trong số các
từ tìm được những từ bắt đầu bằng các chữ d, gi, r (dễ, giàu, giấy…).
2.2.6. Phương pháp dạy học nêu vấn đề
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp tích cực nhằm chuẩn bị trực
tiếp cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề, khả năng thích ứng và khả năng hợp
tác.
Có thể sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong tất cả các loại bài của môn
Tiếng Việt, đặc biệt là các bài có yêu cầu thực hành kĩ năng nói, viết văn bản; nói
các nghi thức lời nói.
Hai điều kiện cần thiết để thực hiện phương pháp dạy học nêu vấn đề là:
-GV phải tạo ra được tình huống có vấn đề trong quá trình học sinh chiếm lĩnh
tri thức hoặc rèn luyện kĩ năng. Tình huống có vấn đề được tạo ra từ ba yếu tố cơ
bản:
+ Một là, mục đích của kiến thức hoặc kĩ năng cần trang bị.
+ Hai là, nhu cầu nắm kiến thức hoặc kĩ năng đó của học sinh.
+ Ba là, dự báo khả năng nắm được kiến thức hoặc kĩ năng đó của học sinh.
Để đưa ra được tình huống có vấn đề, giáo viên phải cho học sinh biết: Trong
bài học này, các em có điều gì chưa biết ? Các em có mong muốn khám phá điều
chưa biết đó và đưa nó vào vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân không ?
-Giáo viên phải giúp học sinh tìm ra được các việc làm cụ thể, thứ tự của các
việc làm đó để giải quyết được vấn đề đã đặt ra và hoàn thành nhiệm vụ của bài
học.
Một ví dụ về phương pháp dạy học nêu vấn đề: Phần thứ nhất của bài Tập làm
văn tuần 24 (sách Tiếng Việt 2, tập 2) mục tiêu của phần này là học sinh biết đáp lời
đồng ý. Giáo viên thực hiện phương pháp này như sau:
-Giáo viên tạo tình huống có vấn đề:
+ Yêu cầu 2 học sinh đóng vai: Em thứ nhất vai người xin phép hoặc nhờ vả
em kia một việc nào đó, em thứ hai đóng vai người nói lời đồng ý (với lời xin phép
hoặc nhờ vả của người thứ nhất).
Giáo viên hướng dẫn các học sinh khác quan sát xem sau khi học sinh thứ hai
nói lời đồng ý thì học sinh kia có đáp lại lời đồng ý không ? Kết quả quan sát có thể
là không có lời đáp lại lời đồng ý.
Xem thêm: Lớp Chuyên Đề Rau Câu 3D
+ Yêu cầu các học sinh khác nhận xét xem bạn chưa đáp lại lời đồng ý như
vậy có lịch sự không ? Các bạn khác khi gặp trường hợp được người khác nói lời
đồng ý có muốn đáp lại không ?
+ Khi xin phép hoặc đề nghị, nhờ vả ai việc gì, nếu người đó đồng ý tức là
đã giúp đỡ ta, ta phải đáp lại lời đồng ý như thế nào ?
-Giáo viên giúp học sinh tìm ra các việc làm để giải quyết vấn đề đặt ra ở trên:
+ Nói lời cảm ơn.
+ Nếu khi nói lời đồng ý, người kia còn yêu cầu ta điều gì thì ta phải nói lời
đáp lại lời yêu cầu đó sau khi đã nói lời cảm ơn…
2.2.7. Phương pháp dạy học ngoài không gian lớp học
Dạy học ngoài không gian lớp học là sử dụng không gian sư phạm của trường,
sử dụng môi trường sống sôi động của cộng đồng làm phương tiện dạy những nội
dung học tập chính khoá.
Nội dung dạy học ở ngoài lớp phải được giáo viên soạn thành các nhiệm vụ,
yêu cầu cụ thể gửi đến học sinh và phải hướng dẫn học sinh cách làm để thực hiện
các nhiệm vụ được giao.
Ví dụ: Trong giờ quan sát và tìm ý cho bài văn tả cảnh (đề bài tả cảnh trường),
giáo viên có thể chia nhóm, mỗi nhóm học sinh nhận một nhiệm vụ quan sát một
phần cảnh: nhóm quan sát cổng trường, nhóm quan sát sân trường, nhóm quan sát
các phòng học, nhóm quan sát hoạt động của học sinh trong giờ ra chơi…
Nhiệm vụ của từng nhóm được giáo viên ghi rõ trên một phiếu học như: Ghi
lại những cảnh vật em thấy (hình dáng, màu sắc và một đặc điểm nổi bật của mỗi
cảnh vật), một vài hình ảnh được tạo ra bằng các biện pháp so sánh, ẩn dụ hoặc
nhân hoá…
nhu yếu – trò làm theo, mà còn có tiếp xúc nhiều chiều : thầy – trò, trò – thầy, trò – trò. Nó tạo ra những giờ học có sự hợp tác tốt giữa thầy và trò và giữa những ngườihọc với nhau, khiến cho việc học tập trong trường gần với việc lao động ở cộngđồng, tạo cho người học nhiều thời cơ để vận dụng những điều đã học vào cuộcsống. 2.2. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt2. 2.1. Phương pháp nghiên cứu và phân tích ngôn ngữPhân tích ngôn từ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinhphát hiện ra những hiện tượng kỳ lạ ngôn từ nhất định từ những ngữ liệu để phát hiện ranhững đặc trưng của chúng. Phương pháp nghiên cứu và phân tích ngôn từ được sử dụng trongtất cả những phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học. Tuỳ thuộc mức độ và mục tiêu nghiên cứu và phân tích mà phương pháp nghiên cứu và phân tích ngôn ngữcó thể triển khai theo những mức độ khác nhau như : quan sát ngôn từ ( là giai đoạnđầu trong quy trình nghiên cứu và phân tích ngôn từ nhằm mục đích tìm những điểm giống và khác nhauvà sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định ), nghiên cứu và phân tích ngữ âm, nghiên cứu và phân tích ngữ pháp, nghiên cứu và phân tích chính tả, nghiên cứu và phân tích tập viết, nghiên cứu và phân tích ngôn từ những tác phẩm vănchương … Tất cả những dạng nghiên cứu và phân tích ngôn từ đều là bộ phận cấu thành của nhiềubài tập khác nhau : bài tập tập đọc, tập viết, chính tả, luyện nói và viết. 2.2.2. Phương pháp rèn luyện theo mẫuRèn luyện theo mẫu trong dạy học Tiếng Việt là phương pháp giáo viên hướngdẫn cho học viên dựa theo mẫu lời nói đã được sách giáo khoa kiến thiết xây dựng hoặc mẫucủa giáo viên để xử lý những bài tập, rèn kĩ năng hoặc tạo ra mẫu lời nói củachính mình. Phương pháp rèn luyện theo mẫu được ứng dụng trong toàn bộ những phân mônTiếng Việt ở tiểu học. Học sinh hoàn toàn có thể dựa theo những mẫu của sách giáo khoa, củagiáo viên để rèn luyện về chữ viết, luyện về phát âm, luyện đọc, giải nghĩa từ, đặtcâu, viết đoạn vănĐể thực thi phương pháp, giáo viên cần tuân thủ quy trình tiến độ sau : – Giáo viên phân phối mẫu lời nói hoặc cho học viên đọc mẫu trong sách giáokhoa ( nếu có ). – Giáo viên hướng dẫn học viên nghiên cứu và phân tích mẫu để nắm được thực chất, cách tạomỗi loại mẫu. – Học sinh mô phỏng tạo ra lời nói của mình. – Giáo viên tổ chức triển khai cho học viên báo cáo giải trình hiệu quả và tự nhìn nhận hiệu quả thựchiện lời nói của mình và của bạn. Ví dụ : Dạy bài tập số 1, tiết Tập làm văn ( Tiếng Việt 2, tập 1, Nhà xuất bảnGiáo dục, trang 54 ) với nhu yếu : “ Trả lời thắc mắc bằng hai cách theo mẫu : a ) Em cóđi xem phim không ? ; b ) Mẹ có mua báo không ? ; c ) Em có ăn cơm bây giờkhông ? ”. Sách giáo khoa đã có sẵn mẫu sau : “ M : – Em có thích đọc thơ không ? – Có, em rất thích đọc thơ. – Không, em không thích đọc thơ ”. Giáo viên chỉ cần hướng dẫn học viên dựa vào mẫu để vấn đáp những yêu cầucủa câu hỏi a, b, c theo hai cách như trên2. 2.3. Phương pháp giao tiếpPhương pháp tiếp xúc là phương pháp giáo viên hướng dẫn học viên vận dụngnhững tri thức sơ giản đã học vào việc triển khai những trách nhiệm tiếp xúc đơn cử bằngTiếng Việt. Thực hiện phương pháp tiếp xúc, giáo viên cần : – Tạo những trường hợp kích thích nhu yếu tiếp xúc ở học viên. – Giúp học viên xu thế hoạt động giải trí tiếp xúc nói hoặc viết của mình như : nói, viết cho ai ; nói, viết về cái gì ; nói, viết trong thực trạng nào-Hướng dẫn học viên sử dụng ngôn từ, kĩ năng diễn đạt của mình để tạo ra lờinói, viết hoàn hảo trong tiếp xúc. – Hướng dẫn học viên nhìn nhận, nhận xét, bổ trợ cho hoàn thiệnVí dụ : Dạy bài tập 1 “ Kể lại một trận tranh tài thể thao ”, tiết Tập làm văn tuần28 ( sách Tiếng Việt 3, tập 2, trang 88 ), giáo viên hoàn toàn có thể dựa vào những câu hỏi gợi ý ởsách giáo khoa để hướng dẫn học viên hoàn toàn có thể kể về một buổi tranh tài thể thao những emđã tận mắt nhìn thấy trên sân vận động, sân trường hoặc trên ti vi ; cũng hoàn toàn có thể kể vềmột buổi tranh tài những em nghe tường thuật trên đài phát thanh, nghe qua người kháchoặc đọc trên sách, báo Kể dựa theo gợi ý nhưng không nhất thiết phải theo sátgợi ý, hoàn toàn có thể linh động đổi khác trình tự những gợi ý2. 2.4. Phương pháp game show học tậpTrò chơi là một hình thức học tập có hiệu suất cao so với học viên. Thông qua cáctrò chơi, học viên được rèn luyện thao tác cá thể, thao tác trong đơn vị chức năng nhóm, đơn vị chức năng lớp theo sự phân công và với niềm tin hợp tác. Cùng với những hình thứchọc tập khác, game show tạo thời cơ để học viên học bằng tự hoạt động giải trí : tự củng cố kiếnthức và tự hoàn thành xong kĩ năng. Trò chơi phải phân phối được những nhu yếu sau : – Mục đích của game show phải hướng vào việc củng cố kiến thức và kỹ năng, rèn luyện kĩnăng ở từng bài, từng nhóm bài, từng phần của chương trình. – Nội dung chơi là một đơn vị chức năng kiến thức và kỹ năng, 1 số ít thao tác của một kĩ năng haycủa nhiều đơn vị chức năng kiến thức và kỹ năng. – Hình thức của game show phải phong phú giúp cho học viên luôn được thay đổicách thức hoạt động giải trí trong lớp, phối hợp được nhiều cơ quan hoạt động và những giácquan tham gia hoạt động giải trí cùng một lúc để những em học tập một cách linh động vàhứng thú. – Cách chơi cần đơn thuần để học viên dễ nhớ, dễ thực thi. Mỗi game show cần thuhút nhiều học viên tham gia. – Điều kiện để tổ chức triển khai game show cần đơn thuần, phương tiện đi lại để chơi dễ làm, giáoviên hoàn toàn có thể tự sẵn sàng chuẩn bị và tự tổ chức triển khai ngay trong phòng học. – Có nhiều mô hình game show để học Tiếng Việt, ví dụ điển hình : + Ở lớp 1, phần học âm, vần, học viên hoàn toàn có thể học bằng những game show : * Tô chữ trên tranh : để nhận mặt chữ ghi âm, vần mới và đọc tiếng chứaâm ( vần ) mới học. * Trò chơi cờ ( hoặc Đôminô ) : Giúp học viên đọc và viết chữ ghép đượctrên bàn cờ để học ghép tiếng có âm, vần mới và tìm nghĩa của từ. * Trò chơi đi tìm lời thơ : để luyện ghép tiếng nhanh và chọn từ có nghĩaphù hợp với việc diễn đạt đúng mực ý câu thơ. * Trò chơi nhìn ra xung quanh để tìm nhanh những tiếng chứa tiếng có âm, vần mới. * Trò chơi viết thư trong nhóm : giúp học viên tập dùng từ chứa âm, vầnmới và tạo ra lời nói … + Ở lớp 2 và lớp 3 hoàn toàn có thể tổ chức triển khai những game show : * Trò chơi đọc nhanh thuộc giỏi và đọc thơ truyền điện : nhằm mục đích giúp họcsinh học thuộc lòng nhanh. * Trò chơi thì tìm từ, tiếng mở màn bằng vần âm : giúp học viên học cácquy tắc chính tả. * Trò chơi đóng vai : giúp học sinh học nói những nghi thức lời nói ( chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời ; đáp lời chào, cám ơn … ). Chú ý : Không được lạm dụng phương pháp chơi để học trong dạy Tiếng Việt. Tùy vào nhu yếu, nội dung của bài học kinh nghiệm mà giáo viên hoàn toàn có thể tổ chức triển khai một hoặc hai tròchơi cho một bài học kinh nghiệm, cũng sẽ có những bài học kinh nghiệm không có game show. Việc tổ chứchoạt động chơi để học trong giờ học cần được giáo viên xem xét kĩ để điều hòa vớicác hoạt động giải trí khác. 2.2.5. Phương pháp đàm đạo nhóm-Phương pháp bàn luận nhóm có công dụng hình thành ở học viên năng lực giaotiếp, năng lực hợp tác, năng lực thích ứng và năng lực độc lập tâm lý. – Hình thức luận bàn hoàn toàn có thể dùng ở nhiều loại bài thuộc nhiều nội dung họctập. Ví dụ, hoàn toàn có thể dùng trong khi dạy tập đọc ( phần khám phá nội dung bài ), đặc biệtlà ở những nhu yếu về suy luận, phán đoán ý từ một bài đọc đơn cử, hoặc nhận xét vềmột cụ thể, sáng tạo độc đáo nào đó trong bài đọc. Có thể dùng đàm đạo để kiến thiết xây dựng dàn ýcho một bài viết ; luận bàn để đưa ra lời nói ( miệng hoặc viết ) cung ứng với một tìnhhuống tiếp xúc đơn cử được đặt ra cho mỗi cá thể hoặc mỗi nhóm học viên. – Quy mô đàm đạo : hoàn toàn có thể là nhóm nhỏ ( 2 – 4 học viên ), nhóm lớn ( khoảng chừng 10 học viên ), cả lớp. – Để đàm đạo nhóm thành công xuất sắc, giáo viên phải có một mạng lưới hệ thống câu hỏi gợi ý. Đây là những điểm tựa để học viên dựa vào đó mà luận bàn, triển khai nhu yếu của bàihọc. Nội dung những câu hỏi cần hướng vào sự khai thác kinh nghiệm tay nghề, cách nghĩ củahọc sinh, khuyến khích từng học viên tham gia một cách tự tin vào hoạt động giải trí thảoluận. Giáo viên cần phân biệt quản lý và điều hành tranh luận theo mạng lưới hệ thống câu hỏi khác vớiviệc nhu yếu học viên vấn đáp những câu hỏi trong phương pháp phỏng vấn. Những câu hỏigợi ý trong những cuộc bàn luận không phải khi nào cũng chỉ có một câu vấn đáp duynhất đúng. Những câu vấn đáp hướng về nhu yếu của bài học kinh nghiệm, phân phối được từngphần nhu yếu của bài học kinh nghiệm đều được đồng ý. Cuối mỗi cuộc tranh luận, giáo viên phải tổng kết những quan điểm của học viên đãđóng góp thành một quan điểm đúng, rất đầy đủ, có tính thuyết phục. Ví dụ : Khi thực thi bài tập số 3 ( Bài chính tả ở tuần 25, Tiếng Việt 2, tập 2 ), giáo viên hoàn toàn có thể chia nhóm nhỏ cho học viên bàn luận theo 2 câu hỏi gợi ý : 1 ) Những từ nào trái nghĩa với từ “ khó ” ? ( dễ, giàu, đơn thuần … ). Những từnào chỉ vật dùng để viết chữ ? ( bảng, vở, giấy, đất, sân … ) … 2 ) Chọn trong số những từ đó một hoặc một vài từ mở màn bằng : gi, d, r … Sau khi học viên đưa ra những câu vấn đáp, giáo viên cần chốt lại bằng câu trả lờichung : Những từ những em nêu ra đều đúng với nhu yếu về nghĩa, tuy nhiên để đáp ứngyêu cầu về chữ viết của những từ đó nêu trong bài tập, tất cả chúng ta chỉ chọn trong số cáctừ tìm được những từ khởi đầu bằng những chữ d, gi, r ( dễ, giàu, giấy … ). 2.2.6. Phương pháp dạy học nêu vấn đềPhương pháp dạy học nêu yếu tố là phương pháp tích cực nhằm mục đích sẵn sàng chuẩn bị trựctiếp cho học viên năng lực xử lý yếu tố, năng lực thích ứng và năng lực hợptác. Có thể sử dụng phương pháp nêu yếu tố trong tổng thể những loại bài của mônTiếng Việt, đặc biệt quan trọng là những bài có nhu yếu thực hành thực tế kĩ năng nói, viết văn bản ; nóicác nghi thức lời nói. Hai điều kiện kèm theo thiết yếu để triển khai phương pháp dạy học nêu yếu tố là : – GV phải tạo ra được trường hợp có yếu tố trong quy trình học viên chiếm lĩnhtri thức hoặc rèn luyện kĩ năng. Tình huống có yếu tố được tạo ra từ ba yếu tố cơbản : + Một là, mục tiêu của kiến thức và kỹ năng hoặc kĩ năng cần trang bị. + Hai là, nhu yếu nắm kiến thức và kỹ năng hoặc kĩ năng đó của học viên. + Ba là, dự báo năng lực nắm được kiến thức và kỹ năng hoặc kĩ năng đó của học viên. Để đưa ra được trường hợp có yếu tố, giáo viên phải cho học viên biết : Trongbài học này, những em có điều gì chưa biết ? Các em có mong ước tò mò điềuchưa biết đó và đưa nó vào vốn tri thức và kinh nghiệm tay nghề của bản thân không ? – Giáo viên phải giúp học viên tìm ra được những việc làm đơn cử, thứ tự của cácviệc làm đó để xử lý được yếu tố đã đặt ra và triển khai xong trách nhiệm của bàihọc. Một ví dụ về phương pháp dạy học nêu yếu tố : Phần thứ nhất của bài Tập làmvăn tuần 24 ( sách Tiếng Việt 2, tập 2 ) tiềm năng của phần này là học viên biết đáp lờiđồng ý. Giáo viên triển khai phương pháp này như sau : – Giáo viên tạo trường hợp có yếu tố : + Yêu cầu 2 học viên đóng vai : Em thứ nhất vai người xin phép hoặc nhờ vảem kia một việc nào đó, em thứ hai đóng vai người nói lời chấp thuận đồng ý ( với lời xin phéphoặc nhờ vả của người thứ nhất ). Giáo viên hướng dẫn những học viên khác quan sát xem sau khi học viên thứ hainói lời chấp thuận đồng ý thì học viên kia có đáp lại lời đồng ý chấp thuận không ? Kết quả quan sát có thểlà không có lời đáp lại lời đồng ý chấp thuận. + Yêu cầu những học viên khác nhận xét xem bạn chưa đáp lại lời đồng ý chấp thuận nhưvậy có nhã nhặn không ? Các bạn khác khi gặp trường hợp được người khác nói lờiđồng ý có muốn đáp lại không ? + Khi xin phép hoặc đề xuất, nhờ vả ai việc gì, nếu người đó chấp thuận đồng ý tức làđã giúp sức ta, ta phải đáp lại lời chấp thuận đồng ý như thế nào ? – Giáo viên giúp học viên tìm ra những việc làm để xử lý yếu tố đặt ra ở trên : + Nói lời cảm ơn. + Nếu khi nói lời chấp thuận đồng ý, người kia còn nhu yếu ta điều gì thì ta phải nói lờiđáp lại lời nhu yếu đó sau khi đã nói lời cảm ơn … 2.2.7. Phương pháp dạy học ngoài khoảng trống lớp họcDạy học ngoài khoảng trống lớp học là sử dụng khoảng trống sư phạm của trường, sử dụng thiên nhiên và môi trường sống sôi động của hội đồng làm phương tiện đi lại dạy những nộidung học tập chính khoá. Nội dung dạy học ở ngoài lớp phải được giáo viên soạn thành những trách nhiệm, nhu yếu đơn cử gửi đến học viên và phải hướng dẫn học viên cách làm để thực hiệncác trách nhiệm được giao. Ví dụ : Trong giờ quan sát và tìm ý cho bài văn tả cảnh ( đề bài tả cảnh trường ), giáo viên hoàn toàn có thể chia nhóm, mỗi nhóm học viên nhận một trách nhiệm quan sát mộtphần cảnh : nhóm quan sát cổng trường, nhóm quan sát sân trường, nhóm quan sátcác phòng học, nhóm quan sát hoạt động giải trí của học viên trong giờ ra chơi … Nhiệm vụ của từng nhóm được giáo viên ghi rõ trên một phiếu học như : Ghilại những cảnh vật em thấy ( hình dáng, sắc tố và một đặc thù điển hình nổi bật của mỗicảnh vật ), một vài hình ảnh được tạo ra bằng những giải pháp so sánh, ẩn dụ hoặcnhân hoá …
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục