Báo cáo nghiên cứu khoa học: ” TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ VĂN HÓA XÃ HỘI ĐỐI VIỆC HỌC TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT – KHOA TIẾNG ANH TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG” docx
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.21 KB, 6 trang )
Bạn đang đọc: Báo cáo nghiên cứu khoa học:
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
162
TÁC ĐỘNG CỦA YẾU TỐ VĂN HÓA XÃ HỘI ĐỐI VIỆC HỌC
TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT – KHOA TIẾNG ANH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
INFLULENCE OF SOCIO CULTURAL PERSPECTIVE IN LEARNING ENGLISH
ON FIRST – YEAR STUDENTS OF ENGLISH DEPARTMENT, CFL – DNU
Phạm Thị Tố Như
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Trở thành sinh viên đại học là một bước tiến lớn đồng thời cũng mang lại nhiều thay đổi
và thách thức đối với người học, bởi vì sinh viên sẽ gia nhập một môi trường học tập và sinh
hoạt hoàn toàn mới và chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó không thể không nói
đến tác động của yếu tố văn hóa xã hội. Bài viết này phân tích những tác động của yếu tố
văn
hóa xã hội đối với việc học tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh, Trường Đại
học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng (CFL-DNU) từ lý thuyết cho đến điều tra thực tiễn, trên cơ sở
đó sẽ đưa ra những nhận xét và khuyến nghị đối với người học cũng như người dạy đàm thoại
tiếng Anh để
việc học đàm thoại tiếng Anh tại trường đạt hiệu quả và chất lượng tốt.
ABSTRACT
Becoming a student of a university is not only a big move in a person’s life but also
brings great challenges to learners as they begin to join in a quite new environment with
different methods of teaching and learning as well as different ways of living. In fact, they are
affected by different factors including the influence of socio-cultural perspective on their study.
The article deals with an analysis on the influence of the socio-cultural perspective in learning
English on first year students of CFL- DNU from theoretical views to case study. Afterwards,
there will be some remarks and recommendations for learners as well as teachers when dealing
with English so that their work will be much improved.
1. Đặt vấn đề
Khi bước chân vào trường đại học, sinh viên năm thứ nhất không thể nào không
bỡ ngỡ trước môi trường học tập và sinh hoạt hoàn toàn mới. Sinh viên năm một của
Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng không phải là ngoại lệ.
Họ phải chịu nhiều thách thức cũng như tác động khác nhau trong quá trình học tập.
Trong thực tế, trong việc học tiếng Anh, ngoài các yếu tố then chốt như giáo trình, trình
độ và kỹ năng của người dạy, môi trường học tập, thái độ và động cơ học tập của người
học,… còn có một số yếu tố khác quyết định đến việc dạy và học thành công tiếng Anh,
đó là tác động của yếu tố văn hóa xã hội của người học.
2. Tác động của yếu tố văn hóa xã hội đối với sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng
Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng, trong việc học tiếng Anh
2.2.1. Yếu tố xã hội
Đối tượng người học là sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh thuộc CFL-DNU là
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
163
từ 18 tuổi trở lên và đã tốt nghiệp phổ thông trung học. Hầu hết đều được sinh ra và lớn lên
tại Việt Nam. Vì thế, ngôn ngữ chính của họ là tiếng Việt. Đa số đều bắt đầu học tiếng Anh
từ lớp 6. Vào thời điểm đó, việc học một ngoại ngữ là bắt buộc đối với học sinh. Họ có thể
chọn học hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga hoặc tiếng Nhật nhưng hầu hết đều ý thức
được tầm quan trọng của tiếng Anh nên hầu như ai ai cũng chọn tiếng Anh. Như thế, mục
đích học ngôn ngữ thứ 2 (L2) ở đây (tức là tiếng Anh) là nhằm đáp ứng chương trình học ở
trường cũng như nhu cầu của chính người học. Lúc bước chân vào CFL-DNU, người học
đã trưởng thành và ý thức đầy đủ rằng họ học L2 (tiếng Anh) là để trở thành giáo viên tiếng
Anh hoặc thông dịch viên. Trong thực tế, đậu kỳ thi tuyển sinh để trở thành một sinh viên
của DNU là một việc không dễ dàng tí nào. Hơn nữa, là một sinh viên của DNU là một
vinh dự không chỉ cho cá nhân người học và còn cho cả gia đình của họ. Vì thế, từ giờ trở
đi, động cơ của họ trong việc học tiếng Anh rất mạnh mẽ. Họ học vì tương lai của chính họ.
Họ càng học tốt, cơ hội thành công trong tương lai của họ càng lớn. Hơn nữa, vì họ được
đào tạo để trở thành giáo viên tiếng Anh và thông dịch viên tiếng Anh, ngôn ngữ mà họ học
sẽ là tiếng Anh học thuật và dùng trong thực tế hàng ngày.
2.2.2. Yếu tố văn hóa
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển nằm ở khu vực Đông Nam châu Á
trong khi tiếng Anh là ngôn ngữ chính của nhiều quốc gia phát triển và Vương quốc
Anh lại nằm cách Việt Nam khá xa về phương diện địa lý, vì thế, có rất nhiều khác biệt
về các ngữ cảnh văn hóa xã hội.
Thứ nhất, người học Việt Nam đã quá quen thuộc với phương pháp dạy học truyền
thống mà trong đó, thầy giáo đóng vai trò trung tâm. Khi là sinh viên của DNU, người học
lại là trung tâm của quá trình học. Vì vậy, quá trình học của họ có rất nhiều thay đổi.
Thứ hai, người học Việt Nam gặp rất nhiều vấn đề về giao thoa văn hóa khi học
ngôn ngữ thứ 2, L2. Chẳng hạn, họ có thói quen nói vòng vo trước khi đề cập vấn đề
chính bởi vì đó là thói quen của người châu Á, trong đó có Việt Nam. Nhưng khi học
tiếng Anh, họ lại được yêu cầu đi trực tiếp vào vấn đề chính.
Thứ ba, bởi vì ngôn ngữ mà họ học là ngôn ngữ thật, nên người học có cơ hội có
nhiều thông tin thật về đời sống vật chất cũng như tinh thần của người phương Tây
trong các quốc gia phát triển mà chúng hoàn toàn xa lạ với người học Việt Nam, một
quốc gia thuộc thế giới thứ ba nằm ở châu Á. Thậm chí ngay khi họ đã tra tự điển, họ
cũng không thể hiểu về những khái niệm hoàn toàn xa lạ với họ trong đời thực.
Tuy nhiên, người học Việt Nam cũng có một số lợi thế nhất định trong học tập.
Trước hết, nhờ chính sách mở cửa của chính phủ Việt Nam trong những năm gần đây,
nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến đầu tư làm việc tại Việt Nam nên tiếng Anh đã trở
thành thiết yếu. Với vốn tiếng Anh tốt, người ta có thể tìm được việc làm tốt và đó cũng
chính là động lực mạnh mẽ khiến sinh viên nỗ lực học tiếng Anh.
Nói tóm lại, người học gặp phải nhiều vấn đề về văn hóa xã hội khi học tiếng
Anh tại CFL-DNU nói riêng và Việt Nam nói chung.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
164
3. Kết quả khảo sát tác động của yếu tố văn hóa xã hội đối với sinh viên năm thứ
nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Qua điều tra và phỏng vấn ngẫu nhiên 200 sinh viên năm một, khoa tiếng Anh,
CFL-DNU về tác động của yếu tố văn hóa xã hội đối với việc học của họ, kết quả thu
được như sau:
3.1. Tác động của yếu tố xã hội đối với việc học tiếng Anh của sinh viên năm thứ
nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Bảng 1. Lý do học tiếng Anh
(Số lượng sinh viên tham gia điều tra: 200)
Trước khi vào đại học:
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Do chương trình
học bắt buộc
Do sở thích/nhu
cầu
Ghi chú: Do chương trình học bắt buộc (75)%); Do sở thích/nhu cầu (25%)
Sau khi trở thành sinh viên năm thứ nhất Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại
ngữ, Đại học Đà Nẵng
050100
Vì lý do khác
Vì nghề
nghiệp tương
lai
Ghi chú: Vì nghề nghiệp tương lai (85%); Vì lý do khác (15%)
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
165
Kết quả điều tra hoàn toàn phù hợp với các nhận định trong phần 2. Chỉ 15%
sinh viên năm thứ nhất của Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà
Nẵng vào trường vì mục đích khác. Kết quả phỏng vấn cho thấy số sinh viên thuộc 15%
này vào trường do nguyện vọng của gia đình hoặc do chuyển nguyện vọng từ trường
khác về, trái với mục đích nghề nghiệp ban đầu của họ. Đây chỉ là thiểu số trong số 200
sinh viên được điều tra.
3.2. Tác động của yếu tố văn hóa đối với việc học tiếng Anh của sinh viên năm thứ
nhất, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Bảng 2. Các vấn đề về văn hóa mà sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Đà Nẵng gặp phải trong quá trình học
(Số lượng sinh viên tham gia điều tra: 200)
70
72
74
76
78
80
82
Do phương
pháp dạy và học
…
Do thói quen
Do không quen
…
Ghi chú: Do phương pháp dạy và học ở bậc đại học; Do thói quen của người Việt;
Do không quen thuộc với những khái niệm trong đời sống thật của người bản xứ nói tiếng Anh
Cũng tương tự như bảng 1, kết quả của bảng 2 hoàn toàn phù hợp với những nhận
định trong phần 2, chỉ 25% số sinh viên được điều tra có cơ hội tham gia các khóa học
tiếng Anh bên ngoài trường phổ thông đã được làm quen với phương pháp học tiếng Anh
hiện đại. Tóm lại, đa số sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại
ngữ, Đại học Đà Nẵng gặp phải các vấn đề về văn hóa trong quá trình học tại trường.
4. Nhận xét và khuyến nghị trong việc dạy và học đàm thoại tiếng Anh tại trường
Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Trong quá trình học, người học có cơ hội tương tác với nhau và các thủ pháp dạy
học như tìm thông tin còn thiếu, đóng vai,… sẽ rất hữu dụng. Vì thế các giáo trình học
tập nên chú ý nhiều đến khả năng giao tiếp thông qua các nội dung và bài tập để người
học lĩnh hội và luyện tập. Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong giáo trình nên là ngôn ngữ được
dùng thật sự trong đời thường và được sử dụng một cách tự nhiên. Đối với người học
tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 1, họ học một cách dễ dàng và hầu như không gặp khó khăn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
166
gì bởi vì đó là tiếng mẹ đẻ của họ và môi trường tiếng cũng như văn hóa của ngôn ngữ
họ học là có sẵn. Họ học một cách tự nhiên. Họ không cần phải nỗ lực học tiếng Anh
bởi vì đó là một phần của cuộc sống hàng ngày của họ. Đối với người học tiếng Anh là
ngôn ngữ thứ 2 L2 như sinh viên của trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Đà Nẵng, đây
là một việc hoàn toàn khác. Đó là một ngôn ngữ mới hoàn toàn với họ, với toàn bộ nền
văn hóa khác, lối suy nghĩ khác, lối biểu đạt ý tưởng khác,… Vì vậy, cách học của họ
cũng bị ảnh hưởng khá nhiều. Trong việc học tiếng Anh, họ không chỉ học cách phát âm
tiếng Anh mà còn học cách ‘chia sẻ các giá trị và niềm tin, tạo nên truyền thống và các cơ
cấu xã hội mà đã kết nối cộng đồng lại với nhau và đã được biểu thị trong ngôn ngữ’
(Carrasquillo, 1994). Vì thế, để nắm vững được một ngôn ngữ, người học phải biết sử
dụng ngôn ngữ đúng ngữ cảnh. Hầu như ai cũng biết rằng mỗi ngôn ngữ đều có quy tắc
sử dụng riêng và khi nào, bằng cách thức nào thì người nói cần dùng mức độ ngôn ngữ
nhất định khi giao tiếp với người khác (Bern, 1990). Hơn nữa, Hymes (1971) cũng cho
rằng người học L2 không chỉ cần biết kiến thức ngôn ngữ mà còn cần biết các cách cư xử
văn hóa có thể chấp nhận được khi tương tác với người khác trong các tình huống và các
mối quan hệ khác nhau. Bởi vậy, người học L2 phải được dạy một cách hợp lý và thích
hợp để đạt được tiến bộ. Giáo trình phải đi sát với người học về mọi phương diện như lứa
tuổi, mục đích học tập…. bởi vì mỗi đối tượng người học cần một loại giáo trình cụ thể
với nội dung và bài tập khác nhau. Hơn nữa, nhà trường cũng như giáo viên cần có những
tư vấn, trợ giúp cần thiết và kịp thời để có thể giúp các em sinh viên năm một tự tin hơn
để vượt qua các khó khăn và qua đó có thể đạt được nhiều tiến bộ trong học tập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bailey, K. M. and Savage, L. (1994) New Ways in Teaching Speaking. Pantagraph
Printing, Bloomington, Illinois USA. (p. 3)
[2] Bern, M. (1990). Contexts of Competence: Social and Cultural Considerations in
Communicative Language Teaching. New York: Plenum Press.
[3] Blair, R. W. (ed.) (1982) Innovative Approaches to Language Teaching.
Cambridge: Newbury House.
[4] Canale, M. &Swain, M. (1980). Theoretical Bases of Communicative Approaches
to Second Language Teaching and Testing. Applied Linguistics, 1. (p.p.1-47).
[5] Carrasquillo, A.L. (1994). Teaching English as a Second Language: A Resource
Guide. New York: Garland Publishing.
[6] Hymes, D. (1971). On Communicative Competence. Philadelphia: University of
Pennsylvania Press.
[7] Lightbown, P.M. & Spada, N. (2000) How Languages Are Learned. Oxford
University Press.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5(40).2010
167
Khi bước chân vào trường ĐH, sinh viên năm thứ nhất không thể nào khôngbỡ ngỡ trước môi trường học tập và hoạt động và sinh hoạt trọn vẹn mới. Sinh viên năm một củaKhoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Thành Phố Đà Nẵng không phải là ngoại lệ. Họ phải chịu nhiều thử thách cũng như ảnh hưởng tác động khác nhau trong quy trình học tập. Trong trong thực tiễn, trong việc học tiếng Anh, ngoài những yếu tố then chốt như giáo trình, trìnhđộ và kỹ năng và kiến thức của người dạy, môi trường học tập, thái độ và động cơ học tập của ngườihọc, … còn có 1 số ít yếu tố khác quyết định hành động đến việc dạy và học thành công xuất sắc tiếng Anh, đó là tác động ảnh hưởng của yếu tố văn hóa truyền thống xã hội của người học. 2. Tác động của yếu tố văn hóa truyền thống xã hội so với sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếngAnh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Thành Phố Đà Nẵng, trong việc học tiếng Anh2. 2.1. Yếu tố xã hộiĐối tượng người học là sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh thuộc CFL-DNU làTẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5 ( 40 ). 2010163 từ 18 tuổi trở lên và đã tốt nghiệp đại trà phổ thông trung học. Hầu hết đều được sinh ra và lớn lêntại Nước Ta. Vì thế, ngôn từ chính của họ là tiếng Việt. Đa số đều mở màn học tiếng Anhtừ lớp 6. Vào thời gian đó, việc học một ngoại ngữ là bắt buộc so với học viên. Họ có thểchọn học hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga hoặc tiếng Nhật nhưng hầu hết đều ý thứcđược tầm quan trọng của tiếng Anh nên phần nhiều ai ai cũng chọn tiếng Anh. Như thế, mụcđích học ngôn từ thứ 2 ( L2 ) ở đây ( tức là tiếng Anh ) là nhằm mục đích phân phối chương trình học ởtrường cũng như nhu yếu của chính người học. Lúc bước chân vào CFL-DNU, người họcđã trưởng thành và ý thức rất đầy đủ rằng họ học L2 ( tiếng Anh ) là để trở thành giáo viên tiếngAnh hoặc thông dịch viên. Trong thực tiễn, đậu kỳ thi tuyển sinh để trở thành một sinh viêncủa DNU là một việc không thuận tiện tí nào. Hơn nữa, là một sinh viên của DNU là mộtvinh dự không chỉ cho cá thể người học và còn cho cả mái ấm gia đình của họ. Vì thế, từ giờ trởđi, động cơ của họ trong việc học tiếng Anh rất can đảm và mạnh mẽ. Họ học vì tương lai của chính họ. Họ càng học tốt, thời cơ thành công xuất sắc trong tương lai của họ càng lớn. Hơn nữa, vì họ đượcđào tạo để trở thành giáo viên tiếng Anh và thông dịch viên tiếng Anh, ngôn từ mà họ họcsẽ là tiếng Anh học thuật và dùng trong thực tiễn hàng ngày. 2.2.2. Yếu tố văn hóaViệt Nam là một vương quốc đang tăng trưởng nằm ở khu vực Đông Nam châu Átrong khi tiếng Anh là ngôn từ chính của nhiều vương quốc tăng trưởng và Vương quốcAnh lại nằm cách Nước Ta khá xa về phương diện địa lý, vì vậy, có rất nhiều khác biệtvề những ngữ cảnh văn hóa truyền thống xã hội. Thứ nhất, người học Nước Ta đã quá quen thuộc với giải pháp dạy học truyềnthống mà trong đó, thầy giáo đóng vai trò TT. Khi là sinh viên của DNU, người họclại là TT của quy trình học. Vì vậy, quy trình học của họ có rất nhiều biến hóa. Thứ hai, người học Nước Ta gặp rất nhiều yếu tố về giao thoa văn hóa truyền thống khi họcngôn ngữ thứ 2, L2. Chẳng hạn, họ có thói quen nói vòng vo trước khi đề cập vấn đềchính chính bới đó là thói quen của người châu Á, trong đó có Nước Ta. Nhưng khi họctiếng Anh, họ lại được nhu yếu đi trực tiếp vào yếu tố chính. Thứ ba, chính bới ngôn từ mà họ học là ngôn từ thật, nên người học có thời cơ cónhiều thông tin thật về đời sống vật chất cũng như ý thức của người phương Tâytrong những vương quốc tăng trưởng mà chúng trọn vẹn lạ lẫm với người học Nước Ta, mộtquốc gia thuộc quốc tế thứ ba nằm ở châu Á. Thậm chí ngay khi họ đã tra tự điển, họcũng không hề hiểu về những khái niệm trọn vẹn lạ lẫm với họ trong đời thực. Tuy nhiên, người học Nước Ta cũng có một số ít lợi thế nhất định trong học tập. Trước hết, nhờ chủ trương Open của cơ quan chính phủ Nước Ta trong những năm gần đây, nhiều nhà đầu tư quốc tế đã đến góp vốn đầu tư thao tác tại Nước Ta nên tiếng Anh đã trởthành thiết yếu. Với vốn tiếng Anh tốt, người ta hoàn toàn có thể tìm được việc làm tốt và đó cũngchính là động lực can đảm và mạnh mẽ khiến sinh viên nỗ lực học tiếng Anh. Nói tóm lại, người học gặp phải nhiều yếu tố về văn hóa truyền thống xã hội khi học tiếngAnh tại CFL-DNU nói riêng và Nước Ta nói chung. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5 ( 40 ). 20101643. Kết quả khảo sát tác động ảnh hưởng của yếu tố văn hóa truyền thống xã hội so với sinh viên năm thứnhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà NẵngQua tìm hiểu và phỏng vấn ngẫu nhiên 200 sinh viên năm một, khoa tiếng Anh, CFL-DNU về tác động ảnh hưởng của yếu tố văn hóa truyền thống xã hội so với việc học của họ, tác dụng thuđược như sau : 3.1. Tác động của yếu tố xã hội so với việc học tiếng Anh của sinh viên năm thứnhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà NẵngBảng 1. Lý do học tiếng Anh ( Số lượng sinh viên tham gia tìm hiểu : 200 ) Trước khi vào ĐH : 1020304050607080D o chương trìnhhọc bắt buộcDo sở trường thích nghi / nhucầuGhi chú : Do chương trình học bắt buộc ( 75 ) % ) ; Do sở trường thích nghi / nhu yếu ( 25 % ) Sau khi trở thành sinh viên năm thứ nhất Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoạingữ, Đại học Đà Nẵng050100Vì nguyên do khácVì nghềnghiệp tươnglaiGhi chú : Vì nghề nghiệp tương lai ( 85 % ) ; Vì nguyên do khác ( 15 % ) TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5 ( 40 ). 2010165K ết quả tìm hiểu trọn vẹn tương thích với những đánh giá và nhận định trong phần 2. Chỉ 15 % sinh viên năm thứ nhất của Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học ĐàNẵng vào trường vì mục tiêu khác. Kết quả phỏng vấn cho thấy số sinh viên thuộc 15 % này vào trường do nguyện vọng của mái ấm gia đình hoặc do chuyển nguyện vọng từ trườngkhác về, trái với mục tiêu nghề nghiệp khởi đầu của họ. Đây chỉ là thiểu số trong số 200 sinh viên được tìm hiểu. 3.2. Tác động của yếu tố văn hóa truyền thống so với việc học tiếng Anh của sinh viên năm thứnhất, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà NẵngBảng 2. Các yếu tố về văn hóa truyền thống mà sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Thành Phố Đà Nẵng gặp phải trong quy trình học ( Số lượng sinh viên tham gia tìm hiểu : 200 ) 70727476788082D o phươngpháp dạy và họcDo thói quenDo không quenGhi chú : Do chiêu thức dạy và học ở bậc ĐH ; Do thói quen của người Việt ; Do không quen thuộc với những khái niệm trong đời sống thật của người bản xứ nói tiếng AnhCũng tựa như như bảng 1, tác dụng của bảng 2 trọn vẹn tương thích với những nhậnđịnh trong phần 2, chỉ 25 % số sinh viên được tìm hiểu có thời cơ tham gia những khóa họctiếng Anh bên ngoài trường đại trà phổ thông đã được làm quen với phương pháp học tiếng Anhhiện đại. Tóm lại, đa phần sinh viên năm thứ nhất, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Ngoạingữ, Đại học Thành Phố Đà Nẵng gặp phải những yếu tố về văn hóa truyền thống trong quy trình học tại trường. 4. Nhận xét và khuyến nghị trong việc dạy và học đàm thoại tiếng Anh tại trườngĐại học Ngoại ngữ, Đại học Đà NẵngTrong quy trình học, người học có thời cơ tương tác với nhau và những thủ pháp dạyhọc như tìm thông tin còn thiếu, đóng vai, … sẽ rất hữu dụng. Vì thế những giáo trình họctập nên chú ý quan tâm nhiều đến năng lực tiếp xúc trải qua những nội dung và bài tập để ngườihọc lĩnh hội và rèn luyện. Bên cạnh đó, ngôn từ trong giáo trình nên là ngôn từ đượcdùng thật sự trong đời thường và được sử dụng một cách tự nhiên. Đối với người họctiếng Anh là ngôn từ thứ 1, họ học một cách thuận tiện và hầu hết không gặp khó khănTẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5 ( 40 ). 2010166 gì chính bới đó là tiếng mẹ đẻ của họ và thiên nhiên và môi trường tiếng cũng như văn hóa truyền thống của ngôn ngữhọ học là có sẵn. Họ học một cách tự nhiên. Họ không cần phải nỗ lực học tiếng Anhbởi vì đó là một phần của đời sống hàng ngày của họ. Đối với người học tiếng Anh làngôn ngữ thứ 2 L2 như sinh viên của trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Thành Phố Đà Nẵng, đâylà một việc trọn vẹn khác. Đó là một ngôn từ mới trọn vẹn với họ, với hàng loạt nềnvăn hóa khác, lối tâm lý khác, lối diễn đạt ý tưởng sáng tạo khác, … Vì vậy, cách học của họcũng bị tác động ảnh hưởng khá nhiều. Trong việc học tiếng Anh, họ không chỉ học cách phát âmtiếng Anh mà còn học cách ‘ san sẻ những giá trị và niềm tin, tạo nên truyền thống lịch sử và những cơcấu xã hội mà đã liên kết hội đồng lại với nhau và đã được biểu lộ trong ngôn từ ’ ( Carrasquillo, 1994 ). Vì thế, để nắm vững được một ngôn từ, người học phải biết sửdụng ngôn từ đúng ngữ cảnh. Hầu như ai cũng biết rằng mỗi ngôn từ đều có quy tắcsử dụng riêng và khi nào, bằng phương pháp nào thì người nói cần dùng mức độ ngôn ngữnhất định khi tiếp xúc với người khác ( Bern, 1990 ). Hơn nữa, Hymes ( 1971 ) cũng chorằng người học L2 không chỉ cần biết kiến thức và kỹ năng ngôn từ mà còn cần biết những cách cư xửvăn hóa hoàn toàn có thể đồng ý được khi tương tác với người khác trong những trường hợp và cácmối quan hệ khác nhau. Bởi vậy, người học L2 phải được dạy một cách hài hòa và hợp lý và thíchhợp để đạt được văn minh. Giáo trình phải đi sát với người học về mọi phương diện như lứatuổi, mục tiêu học tập …. chính do mỗi đối tượng người dùng người học cần một loại giáo trình cụ thểvới nội dung và bài tập khác nhau. Hơn nữa, nhà trường cũng như giáo viên cần có nhữngtư vấn, trợ giúp thiết yếu và kịp thời để hoàn toàn có thể giúp những em sinh viên năm một tự tin hơnđể vượt qua những khó khăn vất vả và qua đó hoàn toàn có thể đạt được nhiều văn minh trong học tập. TÀI LIỆU THAM KHẢO [ 1 ] Bailey, K. M. and Savage, L. ( 1994 ) New Ways in Teaching Speaking. PantagraphPrinting, Bloomington, Illinois USA. ( p. 3 ) [ 2 ] Bern, M. ( 1990 ). Contexts of Competence : Social and Cultural Considerations inCommunicative Language Teaching. New York : Plenum Press. [ 3 ] Blair, R. W. ( ed. ) ( 1982 ) Innovative Approaches to Language Teaching. Cambridge : Newbury House. [ 4 ] Canale, M. và Swain, M. ( 1980 ). Theoretical Bases of Communicative Approachesto Second Language Teaching and Testing. Applied Linguistics, 1. ( p. p. 1-47 ). [ 5 ] Carrasquillo, A.L. ( 1994 ). Teaching English as a Second Language : A ResourceGuide. New York : Garland Publishing. [ 6 ] Hymes, D. ( 1971 ). On Communicative Competence. Philadelphia : University ofPennsylvania Press. [ 7 ] Lightbown, P.M. và Spada, N. ( 2000 ) How Languages Are Learned. OxfordUniversity Press. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG – SỐ 5 ( 40 ). 2010167
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục