GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ Tác giả: TRẦN THỊ MINH HẰNG – Tài liệu text

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ Tác giả: TRẦN THỊ MINH HẰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.5 KB, 251 trang )

GIÁO TRÌNH
TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
Tác giả: TRẦN THỊ MINH HẰNG

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập của đất nước ta, vấn đề
đặt ra là cần phải đổi mới công tác quản lý lãnh đạo.
Quản lý được xác định là khâu quyết định hiệu quả
hoạt động của nhóm, tập thể. Vì vậy cần phải nghiên
cứu về tâm lý con người nói chung và tâm lý của người
lãnh đạo, quản lý nói riêng. Việc nắm được đặc điểm
tâm lý của mỗi con người trong tổ chức sẽ là cơ sở
cho quyết định quản lý đúng đối với tổ chức đó.
Nắm bắt được nhu cầu này trong xã hội, trong
những năm gần đây, hầu hết các ngành nghề liên
quan đến con người đều nghiên cứu về tâm lý học
quản lý, đặc biệt là ngành Giáo dục hiện nay.
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ

Với những mục tiêu và mong muốn như vậy,
chúng tôi biên soạn giáo trình Tâm lý học quản lý.
Giáo trình này đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất,
cốt yếu nhất của tâm lý học quản lý, nhất là những kiến
thức liên quan đến lĩnh vực quản lý con người trong hệ
thống giáo dục nước ta. Đây là vấn đề hữu ích cho
sinh viên, học viên cao học và những người làm công
tác quản lý, lãnh đạo; những người quan tâm đến khía
cạnh tâm lý của hoạt động quản lý, lãnh đạo.
Giáo trình bao gồm ba phần:
Phần 1: Những vấn đề chung. Phần này trình
bày những vấn đề khái quát chung của tâm lý học

quản lý như: đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp
nghiên cứu của tâm lý học; vai trò của tâm lý học quản
lý; mối quan hệ giữa quản lý và lãnh đạo,
Phần 2. Tâm lý người lãnh đạo, quản lý. Phần
này đề cập đến những đặc điểm và cấu trúc của hoạt
động quản lý; những đặc điểm tâm lý của người lãnh
đạo, quản lý; những đặc điểm tâm lý của con người
trong tổ chức; uy tín và phong cách làm việc của người
lãnh đạo; giao tiếp trong quản lý,
Phần 3. Tâm lý người lao động và tổ chức.
Phần này trình bày những vấn đề tâm lý của đối tượng
quản lý, đó là tâm lý của người lao động và của tổ
chức.
Hoạt động quản lý là hoạt động rất khó khăn
và phức tạp. Việc nghiên cứu những khía cạnh tâm lý
trong hoạt động quản lý lãnh đạo càng khó khăn. Do
vậy, những vấn đề được trình trong giáo trình chắc
chắn khó tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi mong nhận
được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để giáo
trình ngày càng hoàn thiện hơn. Thư góp ý xin gửi về
Công ty Cổ phần Sách Đại học – Dạy nghề, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, 25 Hàn Thuyên, Hà Nội.
Xin chân thành cảm ơn!

Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Phần 2. TÂM LÝ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Phần 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUẢN LÝ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Created by AM Word

2
CHM
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
Chương 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ
Created by AM Word
2
CHM
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ à Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học
quản lý
Xác định đối tượng của tâm lý học quản lý là
trả lời được câu hỏi: Tâm lý học quản lý nghiên cứu
cái gì? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết chúng ta
cần xác định vị trí của tâm lý học quản lý trong hệ
thống phân ngành của khoa học Tâm lý. Trong khoa
học Tâm lý có nhiều phân ngành, mỗi phân ngành
nghiên cứu một lĩnh vực của hiện tượng tâm lý con
người.
Tâm lý học quản lý là một phân ngành của
tâm lý học xã hội. Bởi vì nếu tâm lý học xã hội nghiên
cứu các đặc điểm tâm lý của nhóm xã hội, đặc biệt là
hành vi của nhóm xã hội, thì tâm lý học quản lý nghiên
cứu quá trình tổ chức nhóm, đặc biệt là các tổ chức xã

hội. Như vậy, tâm lý học quản lý và tâm lý học xã hội
Chương 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM
LÝ HỌC QUẢN LÝ

đều nghiên cứu về nhóm xã hội, nhưng phạm vi
nghiên cứu của tâm lý học quản lý hẹp hơn.
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học quản lý
là các đặc điểm tâm lý của người lãnh đạo, quản lý:
những người bị lãnh đạo quản lý và các tổ chức xã hội;
cũng như các quan hệ giữa người lãnh đạo, quản lý và
người bị lãnh đạo, quản lý trong tổ chức.
1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học
quản lý
Tâm lý học quản lý giải quyết các nhiệm vụ
sau:
– Nghiên cứu người lao động và nhóm người
lao động dưới tác động của tổ chức và sự điều khiển
của người quản lý.
– Nghiên cứu đặc điểm lao động và những
đặc điểm tâm lý của người quản lý, lãnh đạo.
– Nghiên cứu những cơ sở tâm lý của việc
tuyển dụng, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý.
Như vậy, nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học
quản lý là nghiên cứu các đặc điểm tâm lý của hoạt
động quản lý với mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt
động này.
1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
Tâm lý học quản lý là một phân ngành của

tâm lý học xã hội, tâm lý học quản lý sử dụng hầu hết
các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội.
Trong đó có những phương pháp không chỉ là phương
pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội mà còn là
phương pháp nghiên cứu của một số ngành khoa học
khác. Sau đây là một số phương pháp nghiên cứu của
tâm lý học quản lý.
1.2.1. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm dược thiết kế trong đó có một
hoặc một số biến độc lập và có một hoặc một số biến
phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu thường thay đổi một
hay một số yếu tố cùng một thời điểm, trong khi vẫn
giữ nguyên các yếu tố khác, qua đó chỉ ra sự thay đổi
do tác động đó. Theo David, nghiên cứu thực nghiệm
là nghiên cứu nhằm tìm kiếm các nguyên nhân của
các mối liên hệ nhân quả bằng cách điều khiển một
hay một vài nhân tố, trong khi đó lại kiểm soát các
nhân tố khác sao cho chúng không đổi (Lê Văn Hảo,
1996).
Hầu hết các thực nghiệm trong tâm lý học
quản lý được tiến hành trong phòng thí nghiệm
(Schaubroeck và Kuehn, 1992). Tuy vậy, vẫn có những
thí nghiệm được tiến hành trong môi trường tự nhiên.
1.2.2. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra sử dụng hàng loạt câu
hỏi để nghiên cứu một hay một số biến số mà người
nghiên cứu quan tâm. Hầu hết các cuộc điều tra đều
thực hiện bằng hình thức bảng hỏi. Ngoài ra, có các
cuộc điều tra bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp,
phỏng vấn qua điện thoại, hoặc được thực hiện qua

email hay qua mạng.
Điều tra có thể thực hiện theo lát cắt ngang và
điều tra bổ dọc.
Điều tra theo lát cắt ngang là điều tra về một
vấn đề tại một thời điểm.
Điều tra bổ dọc là thu thập số liệu về cùng
thột vấn đề, cùng một khách thể, cùng địa điểm khảo
sát, nhưng trong các thời điểm khác nhau. Điều tra bổ
dọc được tiến hành trong thời gian dài, trong thời gian
đó nhà nghiên cứu tiến hành các cuộc điều tra khác
nhau.
Phương pháp điều tra có ưu điểm là có thể
nhanh chóng có được thông tin về vấn đề quan tâm.
Mặt khác, phương pháp điều tra thực hiện dễ dàng,
thuận lợi hơn so với phương pháp thực nghiệm trong
phòng thí nghiệm.
Phương pháp điều tra có nhược điểm là
không phải lúc nào cũng thu được các thông tin tốt, có
độ tin cậy cao về vấn đề nghiên cứu.
Vấn đề lớn nhất của phương pháp điều tra là
sự nhiệt tình, tinh thần và ý thức trách nhiệm của
khách thể khi trả lời các câu hỏi điều tra.
1.2.3. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp này để quan sát tâm
trạng, thái độ và đặc biệt là hành vi của con người
trong tổ chức. Khi thực hiện phương pháp quan sát, ta
cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: xác định
rõ mục đích quan sát, xây dựng sơ đồ quan sát phù
hợp.
Có hai dạng quan sát cơ bản là quan sát

không can thiệp và quan sát có can thiệp.
– Quan sát không can thiệp là quan sát hành
vi của khách thể mà không có tác động của người
quan sát. Hình thức này còn dược gọi là quan sát tự
nhiên. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chép
một cách thụ động những gì xảy ra.
– Quan sát có can thiệp là quan sát mà người
quan sát muốn can thiệp vào tình huống nghiên cứu,
nhằm làm sáng tỏ một số điểm nào đó, hoặc trắc
nghiệm một lý thuyết. Quan sát có can thiệp bao gồm
ba hình thức là: quan sát có tham gia, quan sát có cấu
trúc và quan sát thực nghiệm.
+ Quan sát có tham gia là người quan sát
tham gia tích cực trong tình huống mà hành vi được
quan sát. Người quan sát không cần phải ngụy trang,
mà hiện diện trong tình huống công khai.
+ Quan sát có cấu trúc là quan sát có sự kiểm
soát của người nghiên cứu, nhưng mức độ kiểm soát
thấp hơn thực nghiệm. Người nghiên cứu có thể can
thiệp nhằm tạo ra một tình huống để quan sát hay có
thể tạo nên quy trình để quan sát tốt, hiệu quả hơn.
+ Quan sát thực nghiệm là quan sát được
thực hiện trong quá trình tổ chức thực nghiệm nhằm
thu thập những tư liệu cần thiết phục vụ cho mục đích
của thực nghiệm. Như vậy, quan sát thực nghiệm có
thể được tiến hành trong phòng thực nghiệm (nếu
thực nghiệm được tổ chức trong phòng thực nghiệm),
có thể tiến hành một cách nhiên (nếu thực nghiệm tổ
chức tự nhiên).
1.2.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Trong tâm lý học quản lý cũng như nhiều
khoa học khác, thường sử dụng phương pháp nghiên
cứu tài liệu. Việc tiến hành phương pháp nghiên cứu
tài liệu cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản sau: –
Nghiên cứu tài liệu cần được xem như một phương
pháp đặc biệt khi nghiên cứu các nội dung thông tin về
tổ chức.
– Nghiên cứu tài liệu phải có tính chất tổng
hợp, nghĩa là không chỉ nghiên cứu nội dung của
thông tin mà cần phải nghiên cứu các khía cạnh khác
trong quan hệ tổ chức.
– Nghiên cứu tài liệu là phương pháp bổ trợ
cùng với một số phương pháp khác khi nghiên cứu
các đặc điểm tâm lý của tổ chức.
Các giai đoạn tiến hành nghiên cứu tài liệu
gồm:
– Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu tài liệu;
– Giai đoạn kiểm tra độ tin cậy của tài liệu;
– Giai đoạn phân tích tài liệu, diễn đạt kết quả
và kết luận.
1.2.5. Phương pháp đo lường
Đo lường là quá trình xác định số lượng các
đặc điểm của khách thể hay các vấn đề nghiên cứu.
Các biến số trong mỗi nghiên cứu cần dược đo lường
hoặc lượng hoá để giúp nhà tâm lý học phân tích và đi
đến kết luận.
Có thể phân ra hai loại đo lường là đo lường
tuyệt đối và đo lường tương đối.
Trong đo lường tuyệt đối, các giá trị của biến
số được miêu tả có tính đặc thù, riêng rẽ một cách

tuyệt đối mà không miêu tả toàn bộ các đặc điểm
nghiên cứu, tức là miêu tả có chọn lọc.
Đo lường tương đối được sử dụng khi nhà
nghiên cứu muốn miêu tả toàn bộ đặc điểm của vấn
đề.
1.3. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một
thực thể xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, con
người luôn luôn là bản chất của mọi bản chất; yếu tố
cơ bản của bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào cũng là
con người; con người là lực lượng sản xuất. Mọi cơ
cấu trong xã hội đều do quan hệ giữa người và người
quyết định.
Nhưng phải thấy rằng, những nguyên tắc
chính thức không quan trọng bằng khả năng hiểu biết
môi trường hành chính – những tiến trình tâm lý, và
sau khi thấu triệt môi trường hành chính phải biết cách
xử thế cho thích hợp, bởi vì giải quyết một công việc
hành chính không phải chỉ trên khía cạnh pháp lý mà
phải coi trọng các khía cạnh tâm lý, chính trị, xã hội.
Hiểu biết hành chính là hiểu biết cách điều khiển
người khác để động viên và buộc họ làm những công
việc theo ý muốn của mình. Muốn thi hành một
chương trình hành chính có kết quả, nhà hành chính
phải đoán trước hậu quả hoạt động của mình và phải
hành động thế nào để người khác phải xử thế theo ý
muốn của mình và đừng có cách xử thế mà mình
không thích. Những quy luật khách quan của sự phát

triển xã hội xác định trước những hành động của con
người không phải một cách trực tiếp, mà chỉ khi chúng
được phản ánh trong ý thức của con người, khi chúng
tác động lên những suy nghĩ và tình cảm của họ. Cho
nên, trong quá trình quản lý hành chính không chỉ chú
ý đến những quy luật khách quan về sự phát triển xã
hội, mà cả vai trò chủ quan của con người, tâm lý của
con người và tập thể.
Vì thế, người lãnh đạo phải có những kiến
thức về tâm lý học để tự đánh giá mình một cách đúng
đắn và biết cách hiểu người khác; biết được những nỗi
lo âu, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm và biết sắp xếp người
đó vào đúng vị trí phù hợp với khả năng của họ.
Đặt vấn đề như vậy không phải chỉ đứng trên
góc độ đạo đức, mà chính là từ thực tế cuộc sống, từ
hiệu quả của quản lý hành chính. Đặc biệt, từ Đại hội
VII, Đảng ta xác định các quan điểm cực kỳ quan trọng
về công nghiệp hoá và hiện đại hoá, trong đó nhấn
mạnh: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Điều
này nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân tố con
người. Con người là mục tiêu chủ yếu của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xã hội mới được xây dựng
là để phục vụ con người, để thoả mãn nhu cầu về vật
chất và tinh thần ngày càng tăng của con người. Nếu
không hiểu được bản thân của con người – những
người tham gia xây dựng xã hội mới, thì chúng ta sẽ
gặp nhiều khó khăn trong quá trình quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, ngay cả khi chúng ta có đầy đủ tiềm lực
kinh tế. Mọi tài nguyên thiên nhiên khai thác được, mọi

thiết bị máy móc được chế tạo ra đều nhờ lao động
của con người. Người lãnh đạo không phải điều khiển
trực tiếp một cỗ máy, cũng không phải trực tiếp điều
khiển xã hội; đúng ra, họ lãnh đạo con người và thông
qua con người mà lãnh đạo xã hội.
Nếu người lãnh đạo loại con người ra khỏi hệ
thống lãnh đạo của mình thì khó mà có kết quả tốt.
Con người là yếu tố chủ đạo trong hệ thống quản lý. Vì
vậy, cần xem xét con người trên cả ba phương diện: –
Con người với tư cách là chủ thể quản lý,
– Con người với tư cách là đối tượng quản lý;
– Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Với ý nghĩa nói trên, kiến thức về tâm lý học là
rất cần thiết đối với người lãnh đạo.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1.1. Trình bày đối tượng nghiên cứu của tâm
lý học quản lý.
1.2. Phân biệt sự khác và giống nhau về đối
tượng nghiên cứu giữa tâm lý học xã hội và tâm lý học
quản lý.
1.3. Trình bày khái quát mục đích, nội dung và
cách thức tiến hành của các phương pháp nghiên cứu
trong tâm lý học quản lý.
1.4. Những yêu cầu đặt ra về phương pháp
nghiên cứu của tâm lý học quản lý ở nước ta hiện nay
là gì?

Created by AM Word
2

CHM
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ à Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
2.1. TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ
Có nhiều cách định nghĩa hoạt động. Theo
triết học, hoạt động là biện chứng của chủ thể và
khách thể, bao gồm cả quá trình khách thể hóa chủ thể
(chuyển năng lực từ con người vào sản phẩm của hoạt
động) và chủ thể hoá khách thể (con người phản ánh
vật thể, tiếp thu đặc điểm của vật thể chuyển thành
năng lực của mình).
Hoạt động là một phương thức tồn tại của con
người trong xã hội, trong môi trường xung quanh bằng
cách tác động vào đối tượng để tạo ra một sản phẩm
nhất định.
Trong tâm lý học, người ta coi hoạt động là
quá trình tác động qua lại giữa con người với thế giới
xung quanh để tạo ra sản phẩm cả về phía con người
và cả về phía thế giới khách quan.
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC CỦA
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ

Hoạt động quản lý lãnh dạo (gọi tắt là hoạt
động quản lý) là một hoạt động đặc biệt trong xã hội
loài người. Hoạt động này có cấu trúc vĩ mô chung so
với các đang hoạt động khác. Tuy nhiên, do đối tượng,
phương pháp, chức năng của hoạt động quản lý nên
ngoài cấu trúc vĩ mô chung, nó còn có những nét riêng.
Hoạt động quản lý có những tính chất sau.
2.1.1. Hoạt động quản lý vừa là một khoa

học, vừa là một nghệ thuật, là một nghề của xã hội
a) Hoạt động quản lý là một khoa học
– Hoạt động quản lý phải nhận thức và vận
dụng đúng quy luật; nắm vững đối tượng; có thông tin
đầy đủ, chính xác; có khả năng thực hiện (tính khả thi).
– Phải tuân theo các quy luật khách quan, gạt
bỏ những tình cảm và giá trị khác; phải dựa trên những
phương pháp quản lý khoa học và những phương
pháp quản lý cụ thể (diễn dịch, quy nạp, tổng hợp,
thống kê).
b) Hoạt động quản lý là một nghệ thuật
– Hoạt động quản lý đòi hỏi người quản lý
phải biết “đóng vai”, biết “biểu diễn” các kỹ năng quản
lý của mình cho phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh.
Đồng thời, hoạt động quản lý luôn xuất hiện những
tình huống bất ngờ. Thực tế cho thấy không người lãnh
đạo, quản lý nào có thể chuẩn bị sẵn tất cả tình huống,
mà phải có khả năng xử lý các tình huống phức tạp xảy
ra hàng ngày.
– Hoạt động của người lãnh đạo luôn đòi hỏi
sự nhanh nhạy, quyết đoán, khả năng tư duy sáng tạo,
sự cảm hứng, tính linh hoạt cao trước vấn đề đặt ra.
Hoạt động này:
+ Không mô thức hoá, không có cách thức và
quy định thống nhất;
+ Có tính linh hoạt;
+ Có tính đặc thù và tính ngẫu nhiên;
+ Biết dùng người đúng vị trí, phù hợp với khả
năng.
c) Hoạ t động quản lý là một nghề trong xã

hội
– Có quá trình đào tạo, có tích luỹ kinh
nghiệm, có năng lực tổ chức.
– Đòi hỏi có năng khiếu, say mê, nhiệt tình.
– Có đối tượng cụ thể: đối tượng đó là con
người và tổ chức. Trong đó con người có thể là một cá
nhân hoặc một tập thể người.
– Sản phẩm của hoạt động quản lý là các
quyết định, nó có ảnh hưởng và tác động tới quá trình
phát triển xã hội.
Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý tỷ lệ thuận với
hiệu quả lãnh đạo trong một tổ chức.
2.1.2. Hoạt động quản lý là một dạng hoạt
động phức tạp và có tính chuyên biệt
– Tính phức tạp của hoạt động quản lý được
quy định bởi đặc điểm của đối tượng quản lý, của các
mối quan hệ xã hội mà nó có quan hệ. Đối tượng quản
lý là con người và tổ chức với những đặc điểm và tâm
lý phức tạp khác nhau.
– Tính chất chuyên biệt thể hiện trong yêu cầu
về đào tạo người quản lý, lãnh đạo (phẩm chất, kiến
thức, kỹ năng) với kiến thức sâu rộng và đặc biệt là quá
trình tự dào tạo của nhà quản lý.
2.1.3. Hoạt động quản lý là hoạt động gián
tiếp
– Sản phẩm của hoạt động quản lý được
đánh giá qua sự phát triển của từng cá nhân, tập thể;
qua kết quả, hiệu quả hoạt động của tập thể do cá
nhân phụ trách.
– Người quản lý, lãnh đạo giải quyết các

nhiệm vụ chủ yếu thông qua tổ chức bằng cách điều
khiển, tác động tới con người và tố chức.
2.1.4. Hoạt động của người quản lý được
tiến hành chủ yếu thông qua hoạt động giao tiếp
– Hoạt động quản lý là hoạt động tổ chức,
điều khiển con người, nên thường xuyên giao tiếp,
quan hệ với con người.
– Hoạt động giao tiếp có mặt ở tất cả các khâu
của hoạt động quản lý thông qua lời nói, hoặc không
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng người khác.
2.1.5. Hoạt động quản lý là một hoạt động có
tính sáng tạo cao
– Trong mọi lĩnh vực của hoạt động quản lý
đòi hỏi chủ thể phải có năng lực sáng tạo, tư duy linh
hoạt, mềm dẻo, mỗi một tình huống xảy ra đòi hỏi phải
có cách xử lý thích hợp.
– Mặt khác, tất cả các văn bản chỉ thị các quy
chế,… là quy định chung. Việc vận dụng nó vào các
trường hợp cụ thể, vào thực tiễn đa dạng, muôn màu,
muôn vẻ rất cần tư duy linh hoạt, mềm dẻo, nhạy bén
và sáng tạo.
2.1.6. Hoạt động quản lý là hoạt động căng
thẳng, tiêu phí nhiều năng lượng thần kinh và cơ bắp,
đòi hỏi phải nhạy cảm
Hoạt động quản lý thường xuyên nắm bắt và
theo dõi công việc, giải quyết nhiều vấn đề trong
những điều kiện về thời gian, không gian và thông tin
eo hẹp, có nhiều vấn đề phải giải quyết trong cùng thời
gian, đòi hỏi luôn phải thay đổi tâm thế và tư duy. Có
những công việc phải suy nghĩ trong nhiều giờ, thậm

chí nhiều tháng, nhiều năm. Nhưng cũng có việc đòi
hỏi người quản lý phải linh hoạt, nhưng phải đúng
nguyên tắc.
2.2. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
2.2.1. Các cách phân chia cấu trúc hoạt
động quản lý
Có nhiều cách phân chia cấu trúc hoạt động
quản lý.
a) Dựa trên cơ sở lý thuyết thông tin, người ta
đã xây dựng khái niệm “chu trình quản lý” để mô tả cấu
trúc hoạt động của người lãnh đạo. Khái niệm chu
trình quản lý ở đây được hiểu là một tổng thể các hành
động được tiến hành có trật tự liên tục và đảm bảo để
người lãnh đạo đạt được mục tiêu đề ra: Theo quan
điểm này, trong chu trình quản lý tập hợp các hành
động khác nhau và được thực hiện trong những
khoảng thời gian khác nhau, nhưng chúng đều hướng
vào việc đạt mục đích nhất định. Đó là dấu hiệu thống
nhất chung các yếu tố hoạt động của người lãnh đạo.
Xem xét hoạt động quản lý theo các giai đoạn, chúng
ta nhận thấy rằng, về thực chất, khái niệm chu trình
quản lý đồng dạng với hoạt động quản lý của người
lãnh đạo. Hoạt động quản lý và chu trình quản lý về cơ
bản theo những bước nhất định và có mối quan hệ với
nhau.
b) Tiến hành qua việc mô tả hình thức công
việc của người lãnh đạo diễn ra theo thời gian
Theo cách này, người ta phân chia hoạt động
của người lãnh đạo ra thành các hoạt động cụ thể
như: tổ chức hội nghị, tiếp khách, xây dựng kế hoạch,

giao tiếp với mọi người, kiểm tra các hoạt động của bộ
phận giúp việc và những người dưới quyền.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, tất
cả các hoạt động cụ thể của người lãnh đạo như trên
đều bao gồm ba đơn vị lý thuyết có liên quan với nhau
và được gọi là hoạt động nhận thức, hoạt động ra
quyết định, hoạt động tổ chức thực hiện quyết định. Có
thể nói rằng, cả ba đơn vị lý thuyết này luôn có mặt
trong các giai đoạn của chu trình quản lý cũng như
trong từng hoạt động quản lý, lãnh đạo cụ thể. Chúng
ta thấy rằng, bất kỳ tình huống nào xảy ra đòi hỏi sự
can thiệp của người lãnh đạo thì đồng thời đều có các
hoạt động này tham gia trong quá trình quản lý.
2.2.2. Các dạng hoạt động cơ bản của người
quản lý
Nhà quản lý, dù ở cấp tổ chức nào đều phải
có các hoạt động giống nhau mà kết quả cuối cùng là
cho ra các quyết định quản lý và triển khai các quyết
định đó trên thực tế. Các hoạt động chủ yếu là: lập kế
hoạch, tổ chức, điều hành, lãnh đạo, phân phối (nếu
có), kiểm tra và báo cáo.
Hoạt động quản lý là một quá trình gồm các
bước như đã nêu trên, nhằm sử dụng những nguồn
lực sẵn có của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. Nó
là một quá trình, bởi vì tất cả các nhà quản lý đều có
liên hệ tới những hoạt động nhất định có tương quan
với nhau để đạt được những mục tiêu mong muốn.
Căn cứ vào các khía cạnh khác nhau của hoạt
động quản lý hoạt động cơ bản của người quản lý,
lãnh đạo được chia thành nhiều loại khác nhau.

– Nếu căn cứ vào kỹ năng quản lý, ta có các
dạng hoạt động: nhận thức, giao tiếp (cấp trên, cấp
dưới, đồng nghiệp), chuyên môn.
– Nếu căn cứ vào chu trình và tổ chức thực
hiện quyết định quản lý, ta có các dạng hoạt động:
+ Ra quyết định, gồm:
. Điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin,
phân tích, đánh giá tình hình làm căn cứ cho việc ra
quyết định. Dự đoán, lập phương án và lựa chọn
quản lý như : đối tượng người dùng, trách nhiệm và phương phápnghiên cứu của tâm lý học ; vai trò của tâm lý học quảnlý ; mối quan hệ giữa quản lý và chỉ huy, Phần 2. Tâm lý người chỉ huy, quản lý. Phầnnày đề cập đến những đặc thù và cấu trúc của hoạtđộng quản lý ; những đặc thù tâm lý của người lãnhđạo, quản lý ; những đặc thù tâm lý của con ngườitrong tổ chức triển khai ; uy tín và phong thái thao tác của ngườilãnh đạo ; tiếp xúc trong quản lý, Phần 3. Tâm lý người lao động và tổ chức triển khai. Phần này trình diễn những yếu tố tâm lý của đối tượngquản lý, đó là tâm lý của người lao động và của tổchức. Hoạt động quản lý là hoạt động giải trí rất khó khănvà phức tạp. Việc điều tra và nghiên cứu những góc nhìn tâm lýtrong hoạt động giải trí quản lý chỉ huy càng khó khăn vất vả. Dovậy, những yếu tố được trình trong giáo trình chắcchắn khó tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi mong nhậnđược những quan điểm góp phần của bạn đọc để giáotrình ngày càng triển khai xong hơn. Thư góp ý xin gửi vềCông ty Cổ phần Sách Đại học – Dạy nghề, Nhà xuấtbản Giáo dục đào tạo Nước Ta, 25 Hàn Thuyên, TP. Hà Nội. Xin chân thành cảm ơn ! Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNGPhần 2. TÂM LÝ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝPhần 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂNGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUẢN LÝTÀI LIỆU THAM KHẢOCreated by AM WordCHMGIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝChương 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝChương 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNGQUẢN LÝCreated by AM WordCHMPhần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNGGIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ à Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG1. 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNGPHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ1. 1.1. Đối tượng nghiên cứu và điều tra của tâm lý họcquản lýXác định đối tượng người tiêu dùng của tâm lý học quản lý làtrả lời được câu hỏi : Tâm lý học quản lý nghiên cứucái gì ? Để vấn đáp cho câu hỏi này, trước hết chúng tacần xác lập vị trí của tâm lý học quản lý trong hệthống phân ngành của khoa học Tâm lý. Trong khoahọc Tâm lý có nhiều phân ngành, mỗi phân ngànhnghiên cứu một nghành nghề dịch vụ của hiện tượng kỳ lạ tâm lý conngười. Tâm lý học quản lý là một phân ngành củatâm lý học xã hội. Bởi vì nếu tâm lý học xã hội nghiêncứu những đặc thù tâm lý của nhóm xã hội, đặc biệt quan trọng làhành vi của nhóm xã hội, thì tâm lý học quản lý nghiêncứu quy trình tổ chức triển khai nhóm, đặc biệt quan trọng là những tổ chức triển khai xãhội. Như vậy, tâm lý học quản lý và tâm lý học xã hộiChương 1. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀPHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂMLÝ HỌC QUẢN LÝđều điều tra và nghiên cứu về nhóm xã hội, nhưng phạm vinghiên cứu của tâm lý học quản lý hẹp hơn. Đối tượng điều tra và nghiên cứu của tâm lý học quản lýlà những đặc thù tâm lý của người chỉ huy, quản lý : những người bị chỉ huy quản lý và những tổ chức triển khai xã hội ; cũng như những quan hệ giữa người chỉ huy, quản lý vàngười bị chỉ huy, quản lý trong tổ chức triển khai. 1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu và điều tra của tâm lý họcquản lýTâm lý học quản lý giải quyết những nhiệm vụsau : – Nghiên cứu người lao động và nhóm ngườilao động dưới tác động ảnh hưởng của tổ chức triển khai và sự điều khiểncủa người quản lý. – Nghiên cứu đặc thù lao động và nhữngđặc điểm tâm lý của người quản lý, chỉ huy. – Nghiên cứu những cơ sở tâm lý của việctuyển dụng, tu dưỡng và giảng dạy cán bộ quản lý. Như vậy, trách nhiệm cơ bản của tâm lý họcquản lý là nghiên cứu và điều tra những đặc thù tâm lý của hoạtđộng quản lý với mục tiêu nâng cao hiệu suất cao của hoạtđộng này. 1.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦATÂM LÝ HỌC QUẢN LÝTâm lý học quản lý là một phân ngành củatâm lý học xã hội, tâm lý học quản lý sử dụng hầu hếtcác giải pháp điều tra và nghiên cứu của tâm lý học xã hội. Trong đó có những giải pháp không chỉ là phươngpháp nghiên cứu và điều tra của tâm lý học xã hội mà còn làphương pháp điều tra và nghiên cứu của một số ít ngành khoa họckhác. Sau đây là 1 số ít chiêu thức điều tra và nghiên cứu củatâm lý học quản lý. 1.2.1. Phương pháp thực nghiệmThực nghiệm dược phong cách thiết kế trong đó có mộthoặc một số ít biến độc lập và có một hoặc một số ít biếnphụ thuộc. Các nhà nghiên cứu thường đổi khác mộthay một số ít yếu tố cùng một thời gian, trong khi vẫngiữ nguyên những yếu tố khác, qua đó chỉ ra sự thay đổido ảnh hưởng tác động đó. Theo David, điều tra và nghiên cứu thực nghiệmlà điều tra và nghiên cứu nhằm mục đích tìm kiếm những nguyên do củacác mối liên hệ nhân quả bằng cách điều khiển và tinh chỉnh mộthay một vài tác nhân, trong khi đó lại trấn áp cácnhân tố khác sao cho chúng không đổi ( Lê Văn Hảo, 1996 ). Hầu hết những thực nghiệm trong tâm lý họcquản lý được thực thi trong phòng thí nghiệm ( Schaubroeck và Kuehn, 1992 ). Tuy vậy, vẫn có nhữngthí nghiệm được thực thi trong thiên nhiên và môi trường tự nhiên. 1.2.2. Phương pháp điều traPhương pháp tìm hiểu sử dụng hàng loạt câuhỏi để nghiên cứu và điều tra một hay 1 số ít biến số mà ngườinghiên cứu chăm sóc. Hầu hết những cuộc tìm hiểu đềuthực hiện bằng hình thức bảng hỏi. Ngoài ra, có cáccuộc tìm hiểu bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại thông minh, hoặc được triển khai quaemail hay qua mạng. Điều tra hoàn toàn có thể thực thi theo lát cắt ngang vàđiều tra bổ dọc. Điều tra theo lát cắt ngang là tìm hiểu về mộtvấn đề tại một thời gian. Điều tra bổ dọc là tích lũy số liệu về cùngthột yếu tố, cùng một khách thể, cùng khu vực khảosát, nhưng trong những thời gian khác nhau. Điều tra bổdọc được triển khai trong thời hạn dài, trong thời gianđó nhà nghiên cứu và điều tra thực thi những cuộc tìm hiểu khácnhau. Phương pháp tìm hiểu có ưu điểm là có thểnhanh chóng có được thông tin về yếu tố chăm sóc. Mặt khác, chiêu thức tìm hiểu triển khai thuận tiện, thuận tiện hơn so với giải pháp thực nghiệm trongphòng thí nghiệm. Phương pháp tìm hiểu có điểm yếu kém làkhông phải khi nào cũng thu được những thông tin tốt, cóđộ an toàn và đáng tin cậy cao về yếu tố điều tra và nghiên cứu. Vấn đề lớn nhất của chiêu thức tìm hiểu làsự nhiệt tình, ý thức và ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm củakhách thể khi vấn đáp những câu hỏi tìm hiểu. 1.2.3. Phương pháp quan sátSử dụng giải pháp này để quan sát tâmtrạng, thái độ và đặc biệt quan trọng là hành vi của con ngườitrong tổ chức triển khai. Khi triển khai chiêu thức quan sát, tacần tuân thủ 1 số ít nguyên tắc cơ bản sau : xác địnhrõ mục tiêu quan sát, kiến thiết xây dựng sơ đồ quan sát phùhợp. Có hai dạng quan sát cơ bản là quan sátkhông can thiệp và quan sát có can thiệp. – Quan sát không can thiệp là quan sát hànhvi của khách thể mà không có tác động ảnh hưởng của ngườiquan sát. Hình thức này còn dược gọi là quan sát tựnhiên. Trong trường hợp này, người quan sát ghi chépmột cách thụ động những gì xảy ra. – Quan sát có can thiệp là quan sát mà ngườiquan sát muốn can thiệp vào trường hợp nghiên cứu và điều tra, nhằm mục đích làm sáng tỏ 1 số ít điểm nào đó, hoặc trắcnghiệm một kim chỉ nan. Quan sát có can thiệp bao gồmba hình thức là : quan sát có tham gia, quan sát có cấutrúc và quan sát thực nghiệm. + Quan sát có tham gia là người quan sáttham gia tích cực trong trường hợp mà hành vi đượcquan sát. Người quan sát không cần phải ngụy trang, mà hiện hữu trong trường hợp công khai minh bạch. + Quan sát có cấu trúc là quan sát có sự kiểmsoát của người điều tra và nghiên cứu, nhưng mức độ kiểm soátthấp hơn thực nghiệm. Người nghiên cứu và điều tra hoàn toàn có thể canthiệp nhằm mục đích tạo ra một trường hợp để quan sát hay cóthể tạo nên quy trình tiến độ để quan sát tốt, hiệu suất cao hơn. + Quan sát thực nghiệm là quan sát đượcthực hiện trong quy trình tổ chức triển khai thực nghiệm nhằmthu thập những tư liệu thiết yếu ship hàng cho mục đíchcủa thực nghiệm. Như vậy, quan sát thực nghiệm cóthể được triển khai trong phòng thực nghiệm ( nếuthực nghiệm được tổ chức triển khai trong phòng thực nghiệm ), hoàn toàn có thể thực thi một cách nhiên ( nếu thực nghiệm tổchức tự nhiên ). 1.2.4. Phương pháp điều tra và nghiên cứu tài liệuTrong tâm lý học quản lý cũng như nhiềukhoa học khác, thường sử dụng chiêu thức nghiêncứu tài liệu. Việc thực thi chiêu thức nghiên cứutài liệu cần chú ý quan tâm 1 số ít nguyên tắc cơ bản sau : – Nghiên cứu tài liệu cần được xem như một phươngpháp đặc biệt quan trọng khi điều tra và nghiên cứu những nội dung thông tin vềtổ chức. – Nghiên cứu tài liệu phải có đặc thù tổnghợp, nghĩa là không chỉ nghiên cứu và điều tra nội dung củathông tin mà cần phải nghiên cứu và điều tra những góc nhìn kháctrong quan hệ tổ chức triển khai. – Nghiên cứu tài liệu là giải pháp bổ trợcùng với 1 số ít giải pháp khác khi nghiên cứucác đặc thù tâm lý của tổ chức triển khai. Các quy trình tiến độ thực thi nghiên cứu và điều tra tài liệugồm : – Giai đoạn sẵn sàng chuẩn bị nghiên cứu và điều tra tài liệu ; – Giai đoạn kiểm tra độ đáng tin cậy của tài liệu ; – Giai đoạn nghiên cứu và phân tích tài liệu, diễn đạt kết quảvà Kết luận. 1.2.5. Phương pháp đo lườngĐo lường là quy trình xác lập số lượng cácđặc điểm của khách thể hay những yếu tố điều tra và nghiên cứu. Các biến số trong mỗi nghiên cứu và điều tra cần dược đo lườnghoặc lượng hoá để giúp nhà tâm lý học nghiên cứu và phân tích và điđến Tóm lại. Có thể phân ra hai loại giám sát là đo lườngtuyệt đối và đo lường và thống kê tương đối. Trong giám sát tuyệt đối, những giá trị của biếnsố được miêu tả có tính đặc trưng, riêng rẽ một cáchtuyệt đối mà không miêu tả hàng loạt những đặc điểmnghiên cứu, tức là miêu tả có tinh lọc. Đo lường tương đối được sử dụng khi nhànghiên cứu muốn miêu tả hàng loạt đặc thù của vấnđề. 1.3. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝTheo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là mộtthực thể xã hội ; trong tính hiện thực của nó, bản chấtcon người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội, conngười luôn luôn là thực chất của mọi thực chất ; yếu tốcơ bản của bất kỳ hình thái kinh tế tài chính – xã hội nào cũng làcon người ; con người là lực lượng sản xuất. Mọi cơcấu trong xã hội đều do quan hệ giữa người và ngườiquyết định. Nhưng phải thấy rằng, những nguyên tắcchính thức không quan trọng bằng năng lực hiểu biếtmôi trường hành chính – những tiến trình tâm lý, vàsau khi thấu triệt môi trường tự nhiên hành chính phải biết cáchxử thế cho thích hợp, chính do xử lý một công việchành chính không phải chỉ trên góc nhìn pháp lý màphải coi trọng những góc nhìn tâm lý, chính trị, xã hội. Hiểu biết hành chính là hiểu biết cách điều khiểnngười khác để động viên và buộc họ làm những côngviệc theo ý muốn của mình. Muốn thi hành mộtchương trình hành chính có tác dụng, nhà hành chínhphải đoán trước hậu quả hoạt động giải trí của mình và phảihành động thế nào để người khác phải xử thế theo ýmuốn của mình và đừng có cách xử thế mà mìnhkhông thích. Những quy luật khách quan của sự pháttriển xã hội xác lập trước những hành vi của conngười không phải một cách trực tiếp, mà chỉ khi chúngđược phản ánh trong ý thức của con người, khi chúngtác động lên những tâm lý và tình cảm của họ. Chonên, trong quy trình quản lý hành chính không chỉ chúý đến những quy luật khách quan về sự tăng trưởng xãhội, mà cả vai trò chủ quan của con người, tâm lý củacon người và tập thể. Vì thế, người chỉ huy phải có những kiếnthức về tâm lý học để tự nhìn nhận mình một cách đúngđắn và biết cách hiểu người khác ; biết được những nỗilo âu, tâm lý, tâm tư nguyện vọng, tình cảm và biết sắp xếp ngườiđó vào đúng vị trí tương thích với năng lực của họ. Đặt yếu tố như vậy không phải chỉ đứng trêngóc độ đạo đức, mà chính là từ trong thực tiễn đời sống, từhiệu quả của quản lý hành chính. Đặc biệt, từ Đại hộiVII, Đảng ta xác lập những quan điểm cực kỳ quan trọngvề công nghiệp hoá và hiện đại hoá, trong đó nhấnmạnh : ” Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếutố cơ bản cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững và kiên cố “. Điềunày nhấn mạnh vấn đề tầm quan trọng của tác nhân conngười. Con người là tiềm năng hầu hết của công cuộcxây dựng chủ nghĩa xã hội. Xã hội mới được xây dựnglà để Giao hàng con người, để thoả mãn nhu yếu về vậtchất và ý thức ngày càng tăng của con người. Nếukhông hiểu được bản thân của con người – nhữngngười tham gia thiết kế xây dựng xã hội mới, thì tất cả chúng ta sẽgặp nhiều khó khăn vất vả trong quy trình quá độ lên chủnghĩa xã hội, ngay cả khi tất cả chúng ta có rất đầy đủ tiềm lựckinh tế. Mọi tài nguyên vạn vật thiên nhiên khai thác được, mọithiết bị máy móc được sản xuất ra đều nhờ lao độngcủa con người. Người chỉ huy không phải điều khiểntrực tiếp một cỗ máy, cũng không phải trực tiếp điềukhiển xã hội ; đúng ra, họ chỉ huy con người và thôngqua con người mà chỉ huy xã hội. Nếu người chỉ huy loại con người ra khỏi hệthống chỉ huy của mình thì khó mà có tác dụng tốt. Con người là yếu tố chủ yếu trong mạng lưới hệ thống quản lý. Vìvậy, cần xem xét con người trên cả ba phương diện : – Con người với tư cách là chủ thể quản lý, – Con người với tư cách là đối tượng người tiêu dùng quản lý ; – Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng người tiêu dùng quản lý. Với ý nghĩa nói trên, kiến thức và kỹ năng về tâm lý học làrất thiết yếu so với người chỉ huy. CÂU HỎI ÔN TẬP1. 1. Trình bày đối tượng người dùng nghiên cứu và điều tra của tâmlý học quản lý. 1.2. Phân biệt sự khác và giống nhau về đốitượng điều tra và nghiên cứu giữa tâm lý học xã hội và tâm lý họcquản lý. 1.3. Trình bày khái quát mục tiêu, nội dung vàcách thức triển khai của những giải pháp nghiên cứutrong tâm lý học quản lý. 1.4. Những nhu yếu đặt ra về phương phápnghiên cứu của tâm lý học quản lý ở nước ta hiện naylà gì ? Created by AM WordCHMGIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ à Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG2. 1. TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNGQUẢN LÝCó nhiều cách định nghĩa hoạt động giải trí. Theotriết học, hoạt động giải trí là biện chứng của chủ thể vàkhách thể, gồm có cả quy trình khách thể hóa chủ thể ( chuyển năng lượng từ con người vào mẫu sản phẩm của hoạtđộng ) và chủ thể hoá khách thể ( con người phản ánhvật thể, tiếp thu đặc thù của vật thể chuyển thànhnăng lực của mình ). Hoạt động là một phương pháp sống sót của conngười trong xã hội, trong thiên nhiên và môi trường xung quanh bằngcách ảnh hưởng tác động vào đối tượng người tiêu dùng để tạo ra một sản phẩmnhất định. Trong tâm lý học, người ta coi hoạt động giải trí làquá trình ảnh hưởng tác động qua lại giữa con người với thế giớixung quanh để tạo ra loại sản phẩm cả về phía con ngườivà cả về phía quốc tế khách quan. Chương 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ CẤU TRÚC CỦAHOẠT ĐỘNG QUẢN LÝHoạt động quản lý lãnh dạo ( gọi tắt là hoạtđộng quản lý ) là một hoạt động giải trí đặc biệt quan trọng trong xã hộiloài người. Hoạt động này có cấu trúc vĩ mô chung sovới những đang hoạt động giải trí khác. Tuy nhiên, do đối tượng người tiêu dùng, chiêu thức, tính năng của hoạt động giải trí quản lý nênngoài cấu trúc vĩ mô chung, nó còn có những nét riêng. Hoạt động quản lý có những đặc thù sau. 2.1.1. Hoạt động quản lý vừa là một khoahọc, vừa là một thẩm mỹ và nghệ thuật, là một nghề của xã hộia ) Hoạt động quản lý là một khoa học – Hoạt động quản lý phải nhận thức và vậndụng đúng quy luật ; nắm vững đối tượng người tiêu dùng ; có thông tinđầy đủ, đúng chuẩn ; có năng lực triển khai ( tính khả thi ). – Phải tuân theo những quy luật khách quan, gạtbỏ những tình cảm và giá trị khác ; phải dựa trên nhữngphương pháp quản lý khoa học và những phươngpháp quản lý đơn cử ( diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, thống kê ). b ) Hoạt động quản lý là một thẩm mỹ và nghệ thuật – Hoạt động quản lý yên cầu người quản lýphải biết ” đóng vai “, biết ” trình diễn ” những kiến thức và kỹ năng quảnlý của mình cho tương thích với đối tượng người tiêu dùng và thực trạng. Đồng thời, hoạt động giải trí quản lý luôn Open nhữngtình huống giật mình. Thực tế cho thấy không người lãnhđạo, quản lý nào hoàn toàn có thể chuẩn bị sẵn sàng sẵn tổng thể trường hợp, mà phải có năng lực giải quyết và xử lý những trường hợp phức tạp xảyra hàng ngày. – Hoạt động của người chỉ huy luôn đòi hỏisự nhạy bén, quyết đoán, năng lực tư duy phát minh sáng tạo, sự cảm hứng, tính linh động cao trước yếu tố đặt ra. Hoạt động này : + Không mô thức hoá, không có phương pháp vàquy định thống nhất ; + Có tính linh động ; + Có tính đặc trưng và tính ngẫu nhiên ; + Biết dùng người đúng vị trí, tương thích với khảnăng. c ) Hoạ t động quản lý là một nghề trong xãhội – Có quy trình huấn luyện và đào tạo, có tích luỹ kinhnghiệm, có năng lượng tổ chức triển khai. – Đòi hỏi có năng khiếu sở trường, mê hồn, nhiệt tình. – Có đối tượng người tiêu dùng đơn cử : đối tượng người dùng đó là conngười và tổ chức triển khai. Trong đó con người hoàn toàn có thể là một cánhân hoặc một tập thể người. – Sản phẩm của hoạt động giải trí quản lý là cácquyết định, nó có ảnh hưởng tác động và tác động ảnh hưởng tới quá trìnhphát triển xã hội. Nghệ thuật chỉ huy, quản lý tỷ suất thuận vớihiệu quả chỉ huy trong một tổ chức triển khai. 2.1.2. Hoạt động quản lý là một dạng hoạtđộng phức tạp và có tính chuyên biệt – Tính phức tạp của hoạt động giải trí quản lý đượcquy định bởi đặc thù của đối tượng người tiêu dùng quản lý, của cácmối quan hệ xã hội mà nó có quan hệ. Đối tượng quảnlý là con người và tổ chức triển khai với những đặc thù và tâmlý phức tạp khác nhau. – Tính chất chuyên biệt bộc lộ trong yêu cầuvề huấn luyện và đào tạo người quản lý, chỉ huy ( phẩm chất, kiếnthức, kỹ năng và kiến thức ) với kiến thức và kỹ năng sâu rộng và đặc biệt quan trọng là quátrình tự dào tạo của nhà quản lý. 2.1.3. Hoạt động quản lý là hoạt động giải trí giántiếp – Sản phẩm của hoạt động giải trí quản lý đượcđánh giá qua sự tăng trưởng của từng cá thể, tập thể ; qua hiệu quả, hiệu suất cao hoạt động giải trí của tập thể do cánhân đảm nhiệm. – Người quản lý, chỉ huy xử lý cácnhiệm vụ đa phần trải qua tổ chức triển khai bằng cách điềukhiển, ảnh hưởng tác động tới con người và tố chức. 2.1.4. Hoạt động của người quản lý đượctiến hành đa phần trải qua hoạt động giải trí tiếp xúc – Hoạt động quản lý là hoạt động giải trí tổ chức triển khai, tinh chỉnh và điều khiển con người, nên tiếp tục tiếp xúc, quan hệ với con người. – Hoạt động tiếp xúc xuất hiện ở tổng thể những khâucủa hoạt động giải trí quản lý trải qua lời nói, hoặc khôngbằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng người khác. 2.1.5. Hoạt động quản lý là một hoạt động giải trí cótính phát minh sáng tạo cao – Trong mọi nghành nghề dịch vụ của hoạt động giải trí quản lýđòi hỏi chủ thể phải có năng lượng phát minh sáng tạo, tư duy linhhoạt, mềm dẻo, mỗi một trường hợp xảy ra yên cầu phảicó cách giải quyết và xử lý thích hợp. – Mặt khác, toàn bộ những văn bản thông tư những quychế, … là pháp luật chung. Việc vận dụng nó vào cáctrường hợp đơn cử, vào thực tiễn phong phú, muôn màu, muôn vẻ rất cần tư duy linh hoạt, mềm dẻo, nhạy bénvà phát minh sáng tạo. 2.1.6. Hoạt động quản lý là hoạt động giải trí căngthẳng, tiêu phí nhiều nguồn năng lượng thần kinh và cơ bắp, yên cầu phải nhạy cảmHoạt động quản lý liên tục chớp lấy vàtheo dõi việc làm, xử lý nhiều yếu tố trongnhững điều kiện kèm theo về thời hạn, khoảng trống và thông tineo hẹp, có nhiều yếu tố phải xử lý trong cùng thờigian, yên cầu luôn phải biến hóa tâm thế và tư duy. Cónhững việc làm phải tâm lý trong nhiều giờ, thậmchí nhiều tháng, nhiều năm. Nhưng cũng có việc đòihỏi người quản lý phải linh động, nhưng phải đúngnguyên tắc. 2.2. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ2. 2.1. Các cách phân loại cấu trúc hoạtđộng quản lýCó nhiều cách phân loại cấu trúc hoạt độngquản lý. a ) Dựa trên cơ sở kim chỉ nan thông tin, người tađã kiến thiết xây dựng khái niệm ” quy trình quản lý ” để miêu tả cấutrúc hoạt động giải trí của người chỉ huy. Khái niệm chutrình quản lý ở đây được hiểu là một tổng thể và toàn diện những hànhđộng được triển khai có trật tự liên tục và bảo vệ đểngười lãnh đạo đạt được tiềm năng đề ra : Theo quanđiểm này, trong quy trình quản lý tập hợp những hànhđộng khác nhau và được triển khai trong nhữngkhoảng thời hạn khác nhau, nhưng chúng đều hướngvào việc đạt mục tiêu nhất định. Đó là tín hiệu thốngnhất chung những yếu tố hoạt động giải trí của người chỉ huy. Xem xét hoạt động giải trí quản lý theo những quá trình, chúngta nhận thấy rằng, về thực ra, khái niệm chu trìnhquản lý đồng dạng với hoạt động giải trí quản lý của ngườilãnh đạo. Hoạt động quản lý và quy trình quản lý về cơbản theo những bước nhất định và có mối quan hệ vớinhau. b ) Tiến hành qua việc miêu tả hình thức côngviệc của người chỉ huy diễn ra theo thời gianTheo cách này, người ta phân loại hoạt độngcủa người chỉ huy ra thành những hoạt động giải trí cụ thểnhư : tổ chức triển khai hội nghị, tiếp khách, kiến thiết xây dựng kế hoạch, tiếp xúc với mọi người, kiểm tra những hoạt động giải trí của bộphận giúp việc và những người dưới quyền. Theo điều tra và nghiên cứu của những nhà tâm lý học, tấtcả những hoạt động giải trí đơn cử của người chỉ huy như trênđều gồm có ba đơn vị chức năng kim chỉ nan có tương quan với nhauvà được gọi là hoạt động giải trí nhận thức, hoạt động giải trí raquyết định, hoạt động giải trí tổ chức triển khai triển khai quyết định hành động. Cóthể nói rằng, cả ba đơn vị chức năng triết lý này luôn có mặttrong những quá trình của quy trình quản lý cũng nhưtrong từng hoạt động giải trí quản lý, lãnh đạo cụ thể. Chúngta thấy rằng, bất kể trường hợp nào xảy ra yên cầu sựcan thiệp của người chỉ huy thì đồng thời đều có cáchoạt động này tham gia trong quy trình quản lý. 2.2.2. Các dạng hoạt động giải trí cơ bản của ngườiquản lýNhà quản lý, dù ở cấp tổ chức triển khai nào đều phảicó những hoạt động giải trí giống nhau mà hiệu quả ở đầu cuối làcho ra những quyết định hành động quản lý và tiến hành những quyếtđịnh đó trên thực tiễn. Các hoạt động giải trí đa phần là : lập kếhoạch, tổ chức triển khai, quản lý và điều hành, chỉ huy, phân phối ( nếucó ), kiểm tra và báo cáo giải trình. Hoạt động quản lý là một quy trình gồm cácbước như đã nêu trên, nhằm mục đích sử dụng những nguồnlực sẵn có của tổ chức triển khai để đạt được tiềm năng đề ra. Nólà một quy trình, chính do toàn bộ những nhà quản lý đều cóliên hệ tới những hoạt động giải trí nhất định có tương quanvới nhau để đạt được những tiềm năng mong ước. Căn cứ vào những góc nhìn khác nhau của hoạtđộng quản lý hoạt động giải trí cơ bản của người quản lý, chỉ huy được chia thành nhiều loại khác nhau. – Nếu địa thế căn cứ vào kiến thức và kỹ năng quản lý, ta có cácdạng hoạt động giải trí : nhận thức, tiếp xúc ( cấp trên, cấpdưới, đồng nghiệp ), trình độ. – Nếu địa thế căn cứ vào quy trình và tổ chức triển khai thựchiện quyết định hành động quản lý, ta có những dạng hoạt động giải trí : + Ra quyết định hành động, gồm :. Điều tra, nghiên cứu và điều tra, tích lũy thông tin, nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận tình hình làm địa thế căn cứ cho việc raquyết định. Dự đoán, lập giải pháp và lựa chọn

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận