đề cương môn học tiếng việt thực hành
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.19 KB, 11 trang )
Bạn đang đọc: đề cương môn học tiếng việt thực hành – Tài liệu text
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC
TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU :
1. Bồi dưỡng cho sinh viên tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng đối với
tiếng Việt, một di sản văn hóa quý báu của cha ông. Đồng thời rèn luyện thói
quen và ý thức thường xuyên sử dụng tiếng Việt một cách cẩn trọng, có sự cân
nhắc, lựa chọn thấu đáo.
2. Tiếp tục nâng cao những hiểu biết có cơ sở khoa học về tiếng Việt. Điều
này cần thiết cho việc sử dụng tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp, nhất là trong
hoạt động giao tiếp bằng văn bản (tạo lập và lĩnh hội văn bản). Đây là một mục
tiêu rất cơ bản của môn tiếng Việt thực hành ở bậc Đại học.
3. Rèn luyện tư duy khoa học cho sinh viên, rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt còn là cơ sở để sinh viên học tập và nghiên cứu ngoại ngữ, một công
cụ cần thiết cho học tập, nghiên cứu khoa học và làm việc. Bộ môn tiếng Việt
thực hành, vì thế còn có mục tiêu tạo nên sự tương tác, hỗ trợ môn tiếng Việt và
môn ngoại ngữ.
B. KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY
Chương Bài giảng Số tiết
1 Chính tả 4
2 Dùng từ 4
3 Viết câu 4
4 Dấu câu 4
5 Dựng đoạn 4
6 Văn bản 4
Thực hành Bài tập ứng dụng và ôn tập 6
Tổng cộng 30
C. CHƯƠNG TRÌNH :
CHƯƠNG I
CHÍNH TẢ
I. Định nghĩa thuật ngữ
II. Viết dấu hỏi, dấu ngã
1. Học thuộc lòng
1
2. Dùng mẹo luật
III. Viết nguyên âm, phụ âm :
1. Học thuộc lòng
2. Dùng mẹo luật
2.1. Luật “
Giao Tranh Cho Tôi Cầm”
2.2. Luật “
Dặn Đến Nhà Thương”
3. Theo truyền thống và quy định của Bộ Giáo dục – Đào tạo.
IV. Viết tên riêng nước ngoài, viết hoa, viết tắt
V. Kết luận
1. Nguyên nhân sai chính tả
2. Biện pháp khắc phục
VI. Bài tập
CHƯƠNG II
DÙNG TỪ
I. Dùng từ đúng
1. Dùng từ đúng âm.
2. Dùng từ đúng nghĩa.
II. Dùng từ hay
1. Dùng từ chính xác.
2. Dùng từ hình tượng
3. Dùng từ sáng tạo
III. Kết luận
CHƯƠNG III
VIẾT CÂU
I. Phân loại câu
1. Câu đơn
2. Câu ghép
II. Viết câu hay
3. Câu chặt chẽ, mạch lạc.
4. Câu chính xác, rõ ràng.
5. Câu hùng hồn, mạnh mẽ.
2
III. Chữa câu sai
1. Câu sai về cấu trúc
2. Những loại câu khác
CHƯƠNG IV
DẤU CÂU
I. Các loại dấu câu và ký hiệu dùng cho dấu câu.
II. Chức năng chung của hai nhóm dấu câu
1. Dùng các dấu chấm câu thuộc nhóm dấu phân cách một lần để phân
cách các đơn vị ngữ pháp có quan hệ đẳng lập.
2. Dùng dấu câu thuộc nhóm dấu tách biệt hai lần để tách trọng ngữ,
phân biệt lập hoặc phần chú thích một cụm chủ vị.
III. Các sử dụng từng dấu câu cụ thể
1. Các dấu chấm câu
2. Các dấu giữa câu
3. Các dấu có nhiều vị trí
IV. Bài tập
CHƯƠNG V
DỰNG ĐOẠN
I. Khái niệm về đoạn
II. Cấu trúc của đoạn văn
1. Câu mở đoạn, câu thân đoạn, câu kết đoạn.
2. Câu chủ đề
III. Liên kết câu
1. Phương thức liên kết
2. Quan hệ ý nghĩa
IV. Năm mẫu đoạn đơn giản
1. Mẫu căn bản
2. Mẫu liệt kê
3. Mẫu liệt kê có chủ đề
4. Mẫu hỗn hợp liên tục
5. Mẫu hỗn hợp gián đoạn
V. Bài tập
3
CHƯƠNG VI
VĂN BẢN
I. Khái niệm về văn bản
1. Định nghĩa
2. Đặc trưng cơ bản
3. Các phép liên kết văn bản thường gặp
Xem thêm: Học làm đồ da – DOLIO Leather School
II. Các phong cách văn bản
1. Văn bản hành chính
2. Văn bản chính luận
3. Văn bản khoa học
4. Văn bản nghệ thuật
III. Xây dựng lập luận phục vụ chủ đề văn bản.
IV. Tóm tắt văn bản
V. Bài tập
4
CHƯƠNG 2
DÙNG TỪ
Từ là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định,
được người nói, người viết dùng để đặt câu. Vì vậy, nói đến việc rèn luyện kỹ
năng nói và viết, trước hết phải nói đến nghệ thuật dùng từ đúng hay sai.
I. DÙNG TỪ ĐÚNG.
Dùng từ đúng là dùng từ đúng âm và đúng nghĩa.
1. Dùng từ đúng âm.
Muốn dùng từ đúng âm thì ta phải biết cách phát âm chuẩn. Nhưng nói
cho chuẩn cả tiếng Việt là một yêu cầu gần như không thể thực hiện mọi người
dân khắp cả ba miền.
Trên lý thuyết chuẩn phát âm phải được giải quyết trước chuẩn chính tả.
Vậy viết đúng chính tả là một biện pháp người dùng từ đúng âm.
Hiểu nghĩa của từ, ta sẽ hạn chế được phần nào lỗi dùng từ không đúng âm.
Ví dụ :
Đúng âm Không đúng âm
Biểu ngữ Biển ngữ
Cảm khái Cảm khoái
Thủy mặc Thủy mạc
Hoặc phải theo cách phát âm đã được phổ biến
Ví dụ :
Đúng âm Không đúng âm
Bạc mệnh Bạc mạng
Chung cư Chúng cư
Phiêu bạt Phiêu bạc
Nếu trong thực tế còn tồn tại 2 cách phát âm mà ta chưa căn cứ vào từ
nguyên hoặc quần chúng để xác định một âm chuẩn, ta chấp thuận cả hai cách
phát âm ấy. Tình trạng nầy ngôn ngữ học gọi là
lưỡng khả.
Ví dụ :
Chuẩn ? Không chuẩn ?
Cọng hòa Cộng hòa
Phản ảnh Phản ánh
Sát nhập Sáp nhập
5
Sứ mệnh Sứ mạng
Cuối cùng, không nói tắt, không thay đổi trật tự các từ trong từ ghép hoặc
từ tổ (nhóm từ) cũng là điều cần lưu ý để tránh lỗi dùng từ không chuẩn.
Ví dụ :
Chuẩn Không chuẩn
Cục đào tạo và bồi dưỡng Cục bồi dưỡng
Dân chi phụ mẫu Phụ mẫu chi dân
Xa xôi Xôi xa
2. Dùng từ đúng nghĩa.
Nghĩa của từ được nêu rõ trong từ điển. Vì vậy sử dụng thường xuyên từ
điển vẫn là yêu cầu được đặt ra cho người làm công tác văn hóa giáo dục, cũng
như sinh viên, học sinh để rèn luyện kỹ năng dùng từ.
Gặp một từ không hiểu nghĩa, ta phải chịu khó tra tự điển, không nên
đoán mò, không nên dùng từ Hán Việt theo thói quen. Không nên hiểu lờ mờ.
Chú ý kho từ vựng thường có một số từ đồng âm dị nghĩa tương đối.
II. DÙNG TỪ HAY.
Có nhiều cách dùng từ hay. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu một số trường hợp
tiêu biểu.
1. Dùng từ chính xác.
Dùng từ đúng cũng là dùng từ hay nếu từ ấy là từ chính xác – từ không thể
thay thế bằng bất kỳ từ nào khác.
La Bruyère, một nhà văn Pháp sống trong thế kỷ XVII, đã có ý nghĩ :
“Trong số hết thảy các từ ngữ có thể diễn được một ý độc nhất của ta, chỉ có
một từ ngữ đúng, khi nói hoặc viết, người ta không luôn luôn kiếm thấy nó đâu,
nhưng nó vẫn có”
Gustave Flaubert, một nhà văn Pháp khác sống ở thế kỷ XIX, cũng có ý
tưởng tương tự: “Dù ta muốn nói điều gì đi nữa, cũng chỉ có mỗi một tiếng để
diễn điều đó thôi, chỉ có một động từ để làm cho điều đó hóa ra có sinh khí và
mỗi một trạng trừ để tả nó. Cần phải kiếm cho được tiếng ấy và đừng lấy làm
mãn ý khi mới kiếm được những tiếng tương tự”.
Thi hào Việt Nam là Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đã nhiều lần chứng
tỏ mình là một bậc thầy về nghệ thuật dùng từ chính xác. Dưới đây là một vị dụ :
“Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay”
6
Hai câu thơ này tả tâm trạng Thúc Sinh trong tiệc tẩy trần do Hoạn Thư
bày ra với mục đích làm khổ tình địch và làm nhục chồng mình. Thấy người yêu
trở thành đứa ở và đang bị vợ đày đọa, Thúc Sinh giả say không muốn uống
rượu nữa để chấm dứt thảm kịch. Thấy vậy, Hoạn Thư nổi máu ghen “vội thét
con Hoa (tên mới của Thúy Kiều), khuyên chàng chẳng đặng thì ta cho đòn”.
Trong tình huống ấy, Thúy Kiều nâng chén rượu, mời và Thúc Sinh phải ngậm
đắng nuốt cay mà “ráo ngay”. “Ráo ngay” chứ không thể là “uống ngay” hoặc
“cạn ngay”. Phải “ráo ngay” mới lột tả được tâm lí của một Thúc Sinh nhát
gan, hèn yếu, sợ vợ.
Đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng
ta gặp bài học sinh động về nghệ thuật dùng từ chính xác trong văn chính luận.
Mở đầu văn kiện lịch sử này, Bác Hồ viết : “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta
đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta cần nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”
Ta “muốn hòa bình” chứ không phải “yêu hòa bình”, “mong hòa bình”,
vì “muốn” vừa diễn tả nguyện vọng, vừa bày tỏ ý chí và quyết tâm, rất thích
hợp với khẩu chí của nhà cách mạng. Ta “nhân nhượng” mà không “nhượng
bộ” vì “nhân nhượng” là cách xử sự hợp lí, hợp tình của người có đạo đức, có
nhân nghĩa, còn “nhượng bộ” là “chịu để cho đối phương lấn tới, vì yếu thế hay
do không kiên quyết”. Địch “lấn tới” chứ không phải là “tiến tới”, vì “tiến tới”,
vì “tiến tới” là thái độ chính đáng, đường hoàng của người biết hành động theo
lí tưỡng, có mục đích, còn “lấn tới” là hành vi xấu xa của kẻ không có gì ngoài
sức mạnh thô bạo. “Lấn tới” chính là thủ đoạn của bọn thực dân “cướp nước”.
Trong văn bản này, người đọc còn tìm gặp một câu mói thống thiết mà
quyết liệt : “Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên!”.
“Phải đứng lên” khác “hãy đứng lên”. Nói “hãy đứng lên” là khuyên
nhủ, là kêu gọi. Nói “phải đứng lên” là ra lệnh chiến đấu một mất một còn với
giặc. Giặc đã dồn ta đến chân tường. ta chỉ còn một con đường là đứng lên, cầm
vũ khí để tự vệ.
Trong một tình thế vô cùng khẩn trương mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
dùng thì giờ cân nhắc, tính toán để sử dụng từ ngữ một cách chính xác như vậy.
Lẽ nào bạn trẻ chúng ta lại dùng một cách tùy tiện khi làm văn trong lớp học,
trong giảng đường?
2. Dùng từ hình tượng.
7
Từ hình tượng vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh của cuộc sống, tạo
cho người đọc cái cảm giác được nhìn thấy tận mắt sự vật được miêu tả.
Với đặc tính nầy ngoài chức năng thông báo, từ hình tượng còn tạo cho
độc giả nhiều rung cảm thẩm mỹ. Vì vậy từ hình tượng rất thích hợp với ngôn
ngữ văn chương. Tuy thế, trong văn chính luận, nếu được sử dụng chừng mực
và đúng chỗ, từ hình tượng cũng có thể tác động mạnh đến người đọc và để lại
cho đọc giả nhiều cảm nghĩ sâu lắng.
Đặc trưng của từ hình tượng là gợi chứ không tả. Tả thì chính xác, đầy đủ
và rõ ràng đến mức không còn gì để nói nữa. Nhưng gợi thì muốn nói đến vô
cùng. Với đặc điểm này, từ hình tượng tạo cho văn bản một ý ngoài lời, một
nghĩa ở chiều sâu, một nội dung ở dạng tiềm năng. Bài thơ, vì vậy, có thể có
nhiều tầng nghĩa mà không một ai có thể đọc và hiểu hết trong một lần. Mỗi
người, khi đọc những tác phẩm văn chương có ngôn ngữ hình tượng, có thể tìm
gặp ở đó một nét nghĩa mới. Nhờ vậy, đối với mỗi người, mỗi thời, thơ có thể có
một tiếng nói mới. Thơ có sức sống, thơ trẻ mãi với cuộc đời, với thời gian.
Ví dụ : Khi bình giảng bài thơ Bóng cây kơ-nia, nhà phê bình văn học
Phan Trọng Luận đã tìm thấy ở hình tượng cây kơ-nia thế lực chủ động của
nam, tính. Cây kơ-nia là người con cường tráng của mẹ, là người chồng dũng
cảm của em. Sau Phan Trọng Luận, đọc lại hai khổ thơ đầu của bài thơ :
Buổi sáng em làm rẫy
Thấy bóng cây kơ-nia
Bóng ngã che ngực em
Về nhớ anh không ngủ
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây kơ-nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc
chúng ta có thể tìm gặp ở hình tượng văn học này một nét nghĩa mới: cây kơ-nia
là anh, là bóng mát của cuộc đời mẹ và cuộc đời em …
Từ hình tượng tạo cho bài thơ một nét nghĩa nhòe. Nhờ vậy, thơ hay, thơ
có tứ hiểu theo nghĩa là ý cao, tình đẹp ẩn giấu ở đằng sau ngôn ngữ văn
chương. Giả thiết rằng, miêu tả sự việc Thúy Kiều vượt qua hàng rào để tìm đến
với Kim Trọng, Nguyễn Du viết :
Xắn tay bẻ cái hàng rào,
Rẽ cây trông tỏ lối vào nhà Kim.
8
Hai câu thơ này có nghĩa mà không có tứ, vì ngoài việc thông báo sự kiện,
nó không gợi được ở người đọc những ý tưởng sâu sắc, nhưng rung cảm thẩm
mĩ. Sự thật là thi sĩ tài hoa Nguyễn Du đã dùng ngôn từ hình tượng để gợi tả sự
việc vừa nêu trên.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai…
“Khóa động đào”, “mây”, “lối vào thiên thai” là những hình tượng văn
học hòa hợp cùng nhau, hô ứng với nhau để nói với người đọc của nhiều thế hệ
biết bao điều về tình yêu, về người yêu, về hạnh phúc của những kẻ đang yêu, và
về tấm lòng nhân đạo rộng mở của thi tài Nguyễn Du vào đầu thế kỷ XIX…
3. Dùng từ sáng tạo.
Từ sáng tạo là từ gọi tên sự vật lần thứ nhất, bằng cái nhìn tươi mát và hồn
nhiên như trẻ thơ.
Cuộc sống có nhiều màu vẻ. Đời người đổi thay không ngừng. Nhưng hầu
hết từ ngữ mà ta đang dùng đều quá cũ, vì đã được dùng đi dùng lại nhiều lần từ
lâu. Do vậy, có lúc ta nhận thấy những từ ngữ có được bằng thói quen, bằng
kinh nghiệm của mình, không còn đủ hiệu lực để diễn đạt một tình ý nào đó. Vì
vậy ta muốn vượt qua ngoài quy ước đã có, muốn nhìn sự vật bằng đôi mắt của
trẻ thơ, muốn táo bạo dùng một từ sáng tạo.
Từ “ngon” được Nguyễn Gia Thiều dùng cho “đẹp” trong Cung oán
ngâm khúc là một ví dụ. Ta thường nói cảnh đẹp, hoa đẹp, người đẹp. Lại nói
tình hay ý đẹp. Cái gì cũng đẹp, cho nên “đẹp” không diễn tả được điều gì đặc
sắc. Trong Cung oán ngâm khúc, để tả sắc đẹp của cung nữ, Nguyễn Gia Thiều
viết :
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.
Trước và sau Nguyễn Gia Thiều, mọi người đều nói “đẹp mắt”, “đẹp
lòng”. Một cách sáng tạo và độc đáo, Nguyễn Gia Thiều nói “ngon mắt”. Sống
trong cung vua phủ chúa, chứng kiến cảnh sống bi thương của hàng trăm người
thiếu nữ má đào mà phận bạc, nhà nghệ sĩ giàu lòng nhân ái Nguyễn Gia Thiều
không khỏi sinh tâm oán trách cảnh sống xa hoa, dục lạc của đấng quân vương.
Cho nên nhà thơ đã hạ một từ “ngon” để phơi bày những ham muốn vật chất
thấp hèn đang được che giấu ở đằng sau những lớp vàng son lộng lẫy.
9
Cần nhớ: Sáng tạo nhưng không lập dị. Sáng tạo để được mới lạ và độc
đáo. Cái mới hình thành từ cái cũ. Trái nền cái cũ mà người xây dựng các công
trình mới.
Nhà nghệ sĩ sáng tạo nói chung, dùng từ sáng tạo nói riêng không hoàn
toàn tách rời truyền thống và thực tại.
Ví dụ : Thời gian không có màu, nhưng mùa thu có nhiều lá vàng nên các
nhà văn, thơ đã dùng từ “thu vàng” một cách sáng tạo. (Xuân Diệu: dùng từ
Xuân Hồng nói về tuổi trẻ, về mùa xuân, về tình yêu; Trịnh Công Sơn thì dùng
từ “Hạ trắng” để chỉ mùa hè xứ Huế với những con đường ngập đầy áo dài trắng
của nữ sinh Đồng Khánh).
III. KẾT LUẬN :
Chúng ta bắt đầu học cách dùng từ đúng, rồi tập cách dùng từ hay, nhưng
mục đích cuối cùng vẫn là luyện cho được cách viết tự nhiên, giản dị. Tự nhiên
và giản dị là đỉnh cao của nghệ thuật.
BÀI TẬP.
1. Phân biệt nghĩa một số từ Hán Việt sau đây :
Áo và xiêm, bãi công và lãn công, bất hủ và bất tử, biến cố và sự cố, cổ
nhân và cố nhân, cổ động và sách động, cô độc và cô đơn, công nhân và nhân
công, quản chế và quản thúc, văn chương và văn học, văn hóa và văn minh./.
2. Bài tập về dùng từ số 1, 2, 3, 4.
3. Bài tập ôn về chính tả và dùng từ.
10
11
CHƯƠNG ICHÍNH TẢI. Định nghĩa thuật ngữII. Viết dấu hỏi, dấu ngã1. Học thuộc lòng2. Dùng mẹo luậtIII. Viết nguyên âm, phụ âm : 1. Học thuộc lòng2. Dùng mẹo luật2. 1. Luật “ Giao Tranh Cho Tôi Cầm ” 2.2. Luật “ Dặn Đến Nhà Thương ” 3. Theo truyền thống lịch sử và pháp luật của Bộ Giáo dục đào tạo – Đào tạo. IV. Viết tên riêng quốc tế, viết hoa, viết tắtV. Kết luận1. Nguyên nhân sai chính tả2. Biện pháp khắc phụcVI. Bài tậpCHƯƠNG IIDÙNG TỪI. Dùng từ đúng1. Dùng từ đúng âm. 2. Dùng từ đúng nghĩa. II. Dùng từ hay1. Dùng từ đúng mực. 2. Dùng từ hình tượng3. Dùng từ sáng tạoIII. Kết luậnCHƯƠNG IIIVIẾT CÂUI. Phân loại câu1. Câu đơn2. Câu ghépII. Viết câu hay3. Câu ngặt nghèo, mạch lạc. 4. Câu đúng chuẩn, rõ ràng. 5. Câu hùng hồn, can đảm và mạnh mẽ. III. Chữa câu sai1. Câu sai về cấu trúc2. Những loại câu khácCHƯƠNG IVDẤU CÂUI. Các loại dấu câu và ký hiệu dùng cho dấu câu. II. Chức năng chung của hai nhóm dấu câu1. Dùng những dấu chấm câu thuộc nhóm dấu phân làn một lần để phâncách những đơn vị ngữ pháp có quan hệ đẳng lập. 2. Dùng dấu câu thuộc nhóm dấu tách biệt hai lần để tách trọng ngữ, phân biệt lập hoặc phần chú thích một cụm chủ vị. III. Các sử dụng từng dấu câu cụ thể1. Các dấu chấm câu2. Các dấu giữa câu3. Các dấu có nhiều vị tríIV. Bài tậpCHƯƠNG VDỰNG ĐOẠNI. Khái niệm về đoạnII. Cấu trúc của đoạn văn1. Câu mở đoạn, câu thân đoạn, câu kết đoạn. 2. Câu chủ đềIII. Liên kết câu1. Phương thức liên kết2. Quan hệ ý nghĩaIV. Năm mẫu đoạn đơn giản1. Mẫu căn bản2. Mẫu liệt kê3. Mẫu liệt kê có chủ đề4. Mẫu hỗn hợp liên tục5. Mẫu hỗn hợp gián đoạnV. Bài tậpCHƯƠNG VIVĂN BẢNI. Khái niệm về văn bản1. Định nghĩa2. Đặc trưng cơ bản3. Các phép link văn bản thường gặpII. Các phong thái văn bản1. Văn bản hành chính2. Văn bản chính luận3. Văn bản khoa học4. Văn bản nghệ thuậtIII. Xây dựng lập luận ship hàng chủ đề văn bản. IV. Tóm tắt văn bảnV. Bài tậpCHƯƠNG 2D ÙNG TỪTừ là đơn vị chức năng ngữ pháp nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn hảo và cấu trúc không thay đổi, được người nói, người viết dùng để đặt câu. Vì vậy, nói đến việc rèn luyện kỹnăng nói và viết, trước hết phải nói đến thẩm mỹ và nghệ thuật dùng từ đúng hay sai. I. DÙNG TỪ ĐÚNG.Dùng từ đúng là dùng từ đúng âm và đúng nghĩa. 1. Dùng từ đúng âm. Muốn dùng từ đúng âm thì ta phải biết cách phát âm chuẩn. Nhưng nóicho chuẩn cả tiếng Việt là một nhu yếu gần như không hề triển khai mọi ngườidân khắp cả ba miền. Trên triết lý chuẩn phát âm phải được xử lý trước chuẩn chính tả. Vậy viết đúng chính tả là một giải pháp người dùng từ đúng âm. Hiểu nghĩa của từ, ta sẽ hạn chế được phần nào lỗi dùng từ không đúng âm. Ví dụ : Đúng âm Không đúng âmBiểu ngữ Biển ngữCảm khái Cảm khoáiThủy mặc Thủy mạcHoặc phải theo cách phát âm đã được phổ biếnVí dụ : Đúng âm Không đúng âmBạc mệnh Bạc mạngChung cư Chúng cưPhiêu bạt Phiêu bạcNếu trong thực tiễn còn sống sót 2 cách phát âm mà ta chưa địa thế căn cứ vào từnguyên hoặc quần chúng để xác lập một âm chuẩn, ta đồng ý chấp thuận cả hai cáchphát âm ấy. Tình trạng nầy ngôn ngữ học gọi làlưỡng khả. Ví dụ : Chuẩn ? Không chuẩn ? Cọng hòa Cộng hòaPhản ảnh Phản ánhSát nhập Sáp nhậpSứ mệnh Sứ mạngCuối cùng, không nói tắt, không đổi khác trật tự những từ trong từ ghép hoặctừ tổ ( nhóm từ ) cũng là điều cần chú ý quan tâm để tránh lỗi dùng từ không chuẩn. Ví dụ : Chuẩn Không chuẩnCục đào tạo và giảng dạy và tu dưỡng Cục bồi dưỡngDân chi phụ mẫu Phụ mẫu chi dânXa xôi Xôi xa2. Dùng từ đúng nghĩa. Nghĩa của từ được nêu rõ trong từ điển. Vì vậy sử dụng tiếp tục từđiển vẫn là nhu yếu được đặt ra cho người làm công tác làm việc văn hóa truyền thống giáo dục, cũngnhư sinh viên, học viên để rèn luyện kiến thức và kỹ năng dùng từ. Gặp một từ không hiểu nghĩa, ta phải chịu khó tra tự điển, không nênđoán mò, không nên dùng từ Hán Việt theo thói quen. Không nên hiểu lờ mờ. Chú ý kho từ vựng thường có một số ít từ đồng âm dị nghĩa tương đối. II. DÙNG TỪ HAY.Có nhiều cách dùng từ hay. Ở đây tất cả chúng ta chỉ khám phá một số ít trường hợptiêu biểu. 1. Dùng từ đúng chuẩn. Dùng từ đúng cũng là dùng từ hay nếu từ ấy là từ đúng chuẩn – từ không thểthay thế bằng bất kể từ nào khác. La Bruyère, một nhà văn Pháp sống trong thế kỷ XVII, đã có ý nghĩ : “ Trong số hết thảy những từ ngữ hoàn toàn có thể diễn được một ý độc nhất của ta, chỉ cómột từ ngữ đúng, khi nói hoặc viết, người ta không luôn luôn kiếm thấy nó đâu, nhưng nó vẫn có ” Gustave Flaubert, một nhà văn Pháp khác sống ở thế kỷ XIX, cũng có ýtưởng tương tự như : “ Dù ta muốn nói điều gì đi nữa, cũng chỉ có mỗi một tiếng đểdiễn điều đó thôi, chỉ có một động từ để làm cho điều đó hóa ra có sinh khí vàmỗi một trạng trừ để tả nó. Cần phải kiếm cho được tiếng ấy và đừng lấy làmmãn ý khi mới kiếm được những tiếng tựa như ”. Thi hào Nước Ta là Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đã nhiều lần chứngtỏ mình là một bậc thầy về nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ đúng mực. Dưới đây là một vị dụ : “ Sinh càng nát ruột tan hồn, Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay ” Hai câu thơ này tả tâm trạng Thúc Sinh trong tiệc tẩy trần do Hoạn Thưbày ra với mục tiêu làm khổ tình địch và làm nhục chồng mình. Thấy người yêutrở thành đứa ở và đang bị vợ đày đọa, Thúc Sinh giả say không muốn uốngrượu nữa để chấm hết thảm kịch. Thấy vậy, Hoạn Thư nổi máu ghen “ vội thétcon Hoa ( tên mới của Thúy Kiều ), khuyên chàng chẳng đặng thì ta cho đòn ”. Trong trường hợp ấy, Thúy Kiều nâng chén rượu, mời và Thúc Sinh phải ngậmđắng nuốt cay mà “ ráo ngay ”. “ Ráo ngay ” chứ không hề là “ uống ngay ” hoặc “ cạn ngay ”. Phải “ ráo ngay ” mới lột tả được tâm lí của một Thúc Sinh nhátgan, hèn nhát, sợ vợ. Đọc lời lôi kéo toàn nước kháng chiến của quản trị Hồ Chí Minh, chúngta gặp bài học sinh động về thẩm mỹ và nghệ thuật dùng từ đúng chuẩn trong văn chính luận. Mở đầu văn kiện lịch sử dân tộc này, Bác Hồ viết : “ Chúng ta muốn độc lập, chúng tađã nhân nhượng. Nhưng tất cả chúng ta cần nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấntới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa ” Ta “ muốn độc lập ” chứ không phải “ yêu độc lập ”, “ mong tự do ”, vì “ muốn ” vừa miêu tả nguyện vọng, vừa bày tỏ ý chí và quyết tâm, rất thíchhợp với khẩu chí của nhà cách mạng. Ta “ nhân nhượng ” mà không “ nhượngbộ ” vì “ nhân nhượng ” là cách xử sự phải chăng, hợp tình của người có đạo đức, cónhân nghĩa, còn “ nhượng bộ ” là “ chịu để cho đối phương lấn tới, vì yếu thế haydo không nhất quyết ”. Địch “ lấn tới ” chứ không phải là “ tiến tới ”, vì “ tiến tới ”, vì “ tiến tới ” là thái độ chính đáng, đường hoàng của người biết hành vi theolí tưỡng, có mục tiêu, còn “ lấn tới ” là hành vi xấu xa của kẻ không có gì ngoàisức mạnh thô bạo. “ Lấn tới ” chính là thủ đoạn của bọn thực dân “ cướp nước ”. Trong văn bản này, người đọc còn tìm gặp một câu mói thống thiết màquyết liệt : “ Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên ! ”. “ Phải đứng lên ” khác “ hãy đứng lên ”. Nói “ hãy đứng lên ” là khuyênnhủ, là lôi kéo. Nói “ phải đứng lên ” là ra lệnh chiến đấu một mất một còn vớigiặc. Giặc đã dồn ta đến chân tường. ta chỉ còn một con đường là đứng lên, cầmvũ khí để tự vệ. Trong một tình thế vô cùng khẩn trương mà quản trị Hồ Chí Minh vẫndùng thì giờ xem xét, đo lường và thống kê để sử dụng từ ngữ một cách đúng mực như vậy. Lẽ nào bạn trẻ tất cả chúng ta lại dùng một cách tùy tiện khi làm văn trong lớp học, trong giảng đường ? 2. Dùng từ hình tượng. Từ hình tượng vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh của đời sống, tạocho người đọc cái cảm xúc được nhìn thấy tận mắt sự vật được miêu tả. Với đặc tính nầy ngoài tính năng thông tin, từ hình tượng còn tạo chođộc giả nhiều rung cảm thẩm mỹ và nghệ thuật. Vì vậy từ hình tượng rất thích hợp với ngônngữ văn chương. Tuy thế, trong văn chính luận, nếu được sử dụng chừng mựcvà đúng chỗ, từ hình tượng cũng hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động mạnh đến người đọc và để lạicho đọc giả nhiều cảm nghĩ sâu lắng. Đặc trưng của từ hình tượng là gợi chứ không tả. Tả thì đúng chuẩn, đầy đủvà rõ ràng đến mức không còn gì để nói nữa. Nhưng gợi thì muốn nói đến vôcùng. Với đặc thù này, từ hình tượng tạo cho văn bản một ý ngoài lời, mộtnghĩa ở chiều sâu, một nội dung ở dạng tiềm năng. Bài thơ, thế cho nên, hoàn toàn có thể cónhiều tầng nghĩa mà không một ai hoàn toàn có thể đọc và hiểu hết trong một lần. Mỗingười, khi đọc những tác phẩm văn chương có ngôn từ hình tượng, hoàn toàn có thể tìmgặp ở đó một nét nghĩa mới. Nhờ vậy, so với mỗi người, mỗi thời, thơ hoàn toàn có thể cómột lời nói mới. Thơ có sức sống, thơ trẻ mãi với cuộc sống, với thời hạn. Ví dụ : Khi bình giảng bài thơ Bóng cây kơ-nia, nhà phê bình văn họcPhan Trọng Luận đã tìm thấy ở hình tượng cây kơ-nia thế lực dữ thế chủ động củanam, tính. Cây kơ-nia là người con cường tráng của mẹ, là người chồng dũngcảm của em. Sau Phan Trọng Luận, đọc lại hai khổ thơ đầu của bài thơ : Buổi sáng em làm rẫyThấy bóng cây kơ-niaBóng ngã che ngực emVề nhớ anh không ngủBuổi chiều mẹ lên rẫyThấy bóng cây kơ-niaBóng tròn che sống lưng mẹVề nhớ anh mẹ khócchúng ta hoàn toàn có thể tìm gặp ở hình tượng văn học này một nét nghĩa mới : cây kơ-nialà anh, là bóng mát của cuộc sống mẹ và cuộc sống em … Từ hình tượng tạo cho bài thơ một nét nghĩa nhòe. Nhờ vậy, thơ hay, thơcó tứ hiểu theo nghĩa là ý cao, tình đẹp ẩn giấu ở đằng sau ngôn từ vănchương. Giả thiết rằng, miêu tả vấn đề Thúy Kiều vượt qua hàng rào để tìm đếnvới Kim Trọng, Nguyễn Du viết : Xắn tay bẻ cái hàng rào, Rẽ cây trông tỏ lối vào nhà Kim. Hai câu thơ này có nghĩa mà không có tứ, vì ngoài việc thông tin sự kiện, nó không gợi được ở người đọc những sáng tạo độc đáo thâm thúy, nhưng rung cảm thẩmmĩ. Sự thật là thi sĩ tài hoa Nguyễn Du đã dùng ngôn từ hình tượng để gợi tả sựviệc vừa nêu trên. Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai … “ Khóa động đào ”, “ mây ”, “ lối vào thiên thai ” là những hình tượng vănhọc hòa hợp cùng nhau, hô ứng với nhau để nói với người đọc của nhiều thế hệbiết bao điều về tình yêu, về tình nhân, về niềm hạnh phúc của những kẻ đang yêu, vàvề tấm lòng nhân đạo rộng mở của thi tài Nguyễn Du vào đầu thế kỷ XIX … 3. Dùng từ phát minh sáng tạo. Từ phát minh sáng tạo là từ gọi tên sự vật lần thứ nhất, bằng cái nhìn tươi mát và hồnnhiên như trẻ thơ. Cuộc sống có nhiều màu vẻ. Đời người thay đổi không ngừng. Nhưng hầuhết từ ngữ mà ta đang dùng đều quá cũ, vì đã được dùng đi dùng lại nhiều lần từlâu. Do vậy, có lúc ta nhận thấy những từ ngữ có được bằng thói quen, bằngkinh nghiệm của mình, không còn đủ hiệu lực thực thi hiện hành để diễn đạt một tình ý nào đó. Vìvậy ta muốn vượt qua ngoài quy ước đã có, muốn nhìn sự vật bằng đôi mắt củatrẻ thơ, muốn táo bạo dùng một từ phát minh sáng tạo. Từ “ ngon ” được Nguyễn Gia Thiều dùng cho “ đẹp ” trong Cung oánngâm khúc là một ví dụ. Ta thường nói cảnh đẹp, hoa đẹp, người mẫu. Lại nóitình hay ý đẹp. Cái gì cũng đẹp, do đó “ đẹp ” không miêu tả được điều gì đặcsắc. Trong Cung oán ngâm khúc, để tả vẻ đẹp của cung nữ, Nguyễn Gia Thiềuviết : Đóa lê ngon mắt cửu trùng, Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu. Trước và sau Nguyễn Gia Thiều, mọi người đều nói “ thích mắt ”, “ đẹplòng ”. Một cách phát minh sáng tạo và độc lạ, Nguyễn Gia Thiều nói “ ngon mắt ”. Sốngtrong cung vua phủ chúa, tận mắt chứng kiến cảnh sống bi thương của hàng trăm ngườithiếu nữ má đào mà phận bạc, nhà nghệ sĩ giàu lòng nhân ái Nguyễn Gia Thiềukhông khỏi sinh tâm oán trách cảnh sống xa hoa, dục lạc của đấng quân vương. Cho nên nhà thơ đã hạ một từ “ ngon ” để trình diện những ham muốn vật chấtthấp hèn đang được che giấu ở đằng sau những lớp vàng son lộng lẫy. Cần nhớ : Sáng tạo nhưng không lập dị. Sáng tạo để được mới lạ và độcđáo. Cái mới hình thành từ cái cũ. Trái nền cái cũ mà người thiết kế xây dựng những côngtrình mới. Nhà nghệ sĩ phát minh sáng tạo nói chung, dùng từ phát minh sáng tạo nói riêng không hoàntoàn tách rời truyền thống cuội nguồn và thực tại. Ví dụ : Thời gian không có màu, nhưng mùa thu có nhiều lá vàng nên cácnhà văn, thơ đã dùng từ “ thu vàng ” một cách phát minh sáng tạo. ( Xuân Diệu : dùng từXuân Hồng nói về tuổi trẻ, về mùa xuân, về tình yêu ; Trịnh Công Sơn thì dùngtừ “ Hạ trắng ” để chỉ mùa hè xứ Huế với những con đường ngập đầy áo dài trắngcủa nữ sinh Đồng Khánh ). III. KẾT LUẬN : Chúng ta mở màn học cách dùng từ đúng, rồi tập cách dùng từ hay, nhưngmục đích ở đầu cuối vẫn là luyện cho được cách viết tự nhiên, đơn giản và giản dị. Tự nhiênvà đơn giản và giản dị là đỉnh điểm của thẩm mỹ và nghệ thuật. BÀI TẬP. 1. Phân biệt nghĩa một số ít từ Hán Việt sau đây : Áo và xiêm, bãi công và lãn công, bất hủ và bất tử, biến cố và sự cố, cổnhân và cố nhân, cổ động và sách động, cô độc và đơn độc, công nhân và nhâncông, quản chế và quản thúc, văn chương và văn học, văn hóa truyền thống và văn minh. /. 2. Bài tập về dùng từ số 1, 2, 3, 4.3. Bài tập ôn về chính tả và dùng từ. 1011
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục