Vậy bộ thủ trong Tiếng Trung là gì ?
Bộ thủ Tiếng Trung ( 部首 ) là một phần cơ bản của chữ Hán và cả chữ Nôm dùng để sắp xếp những loại chữ vuông này. Dựa theo bộ thủ, việc tra cứu chữ Hán cũng thuận tiện hơn. Tất cả chữ Hán đều nhờ vào một trong hơn 214 bộ thủ. Việc ghi nhớ bộ thủ tiếng Trung giúp người học viết tiếng Trung đơn thuần và thuận tiện hơn rất nhiều .
Hiểu một cách đơn giản thì bộ thủ chính là chữ có ý nghĩa xuất hiện thường xuyên. Bộ thủ có thể sẽ được đơn giản hóa khi đưa vào trong các chữ khác.
Bạn đang đọc: Cách nhớ 214 bộ thủ Tiếng Trung thông qua thơ văn – Diễn ca bộ thủ – Tiếng Trung Cầm Xu
Cùng học bộ thủ Tiếng Trung qua thơ để việc ghi nhớ thuận tiện hơn nhé :
Dưới đây là bài thơ gồm 82 câu link tên và nghĩa của bộ thủ. Chúng tớ sẽ chia bài thơ thành 8 phần để các bạn thuận tiện trong việc học bộ thủ qua từng phần một. Cùng học Tiếng Trung theo cách thuận tiện nhất nhé !
10 câu đầu gồm 32 Bộ thủ :
木 – 水 – 金
Mù – shuǐ – jīn
火 – 土 – 月 – 日
Huǒ – tǔ – yuè – rì
川 – 山 – 阜
Chuān – shān – fù
子 – 父 – 人 – 士
Zi – fù – rén – shì
宀 – 厂
Mián – chǎng
广 – 戶 – 門 – 里
Guǎng – hù – mén – lǐ
谷 – 穴
Gǔ – xué
夕 – 辰 – 羊 – 虍
Xī – chén – yáng – hū
瓦 – 缶
Wǎ – fǒu
田 – 邑 – 尢 – 老
Tián – yì – yóu – lǎo
1. MỘC (木) – CÂY, THỦY (水) – NƯỚC, KIM (金) – VÀNG
2. HỎA (火) – LỬA, THỔ (土) – ĐẤT, NGUYỆT (月)- TRĂNG, NHẬT (日) – TRỜI
3. XUYÊN (川) – SÔNG, SƠN (山) – NÚI, PHỤ (阜) – ĐỒI
4. TỬ (子) – CON, PHỤ (父) – BỐ, NHÂN (人) – NGƯỜI, SỸ (士) – QUAN
5. MIÊN (宀) – MÁI NHÀ, HÁN (厂) – SƯỜN NON
6. NGHIỄM (广) – HIÊN, HỘ (戶) – CỬA, CỔNG – MÔN (門), LÝ (里) – LÀNG
7. CỐC (谷)- THUNG LŨNG, HUYỆT (穴)- CÁI HANG
8. TỊCH (夕) – KHUYA, THẦN (辰) – SỚM (4), DÊ – DƯƠNG (羊), HỔ(虍) – HÙM
9. NGÕA (瓦) – NGÓI ĐẤT, PHẪU (缶) – SÀNH NUNG
10. RUỘNG – ĐIỀN (田), THÔN – ẤP 邑 (5), QUÈ – UÔNG (尢), LÃO(老) – GIÀ
Chú giải:
Những chữ viết hoa là âm Hán việt, những chữ viết thường nghĩa. Ví dụ: Thổ – Đất, tức là chữ thổ trong tiếng Việt là Đất
a) 2 câu đầu nói đủ thất diệu (mặt trăng, mặt trời và 5 ngôi sao trong hệ mặt trời Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) – tức là nói về Thiên.
b) 2 câu tiếp theo nói về Địa và Nhân (các thứ trên mặt đất, và các dạng người)
c) 2 câu tiếp nữa là những khái niệm do con người tạo ra, sử dụng, cư trú.
d) 2 câu tiếp nữa nói về thời hồng hoang, ở trong hang núi, bắt đầu có khái niệm về buổi sáng, buổi tối, cũng như thiên địch (hổ) và thức ăn (dê). Người Trung Quốc cổ đại nuôi dê rất sớm. (thực ra Dương = Cừu.)
e) 2 câu cuối nói về thời kỳ đã tìm ra lửa, biết nung ngói. Nung gốm sứ. Làm ruộng, đời sống con người tốt hơn, nâng cao tuổi thọ, nên có chữ Lão = người già.
(1). Phụ nghĩa gốc là quả đồi đất, thường dùng trong các chữ Hán chỉ địa danh.
(2). Sỹ là người có học, ở đây vì bắt vần, nên tôi cho Sỹ = quan lại. Vì chỉ có người có học mới có thể làm quan.
(3) Hán nghĩa gốc là chỗ sườn núi (non) rộng rãi, dùng để làm nơi sản xuất, vì vậy mà người ta mới lấy nó làm chữ Xưởng (công xưởng)
(4). Chữ Thần nghĩa là Thìn (1 trong 12 con giáp), cũng có nghĩa là ngày giờ (Ví dụ: Cát nhật lương thần = ngày lành giờ tốt). Cổ văn dùng giống như chữ 晨 là buổi sớm, ở đây vì bắt vần, tôi cho Thần = buổi sớm.
(5). Chữ Ấp nghĩa là đất vua ban, nhưng người Việt Nam ở miền nam thường dùng chữ Ấp với nghĩa là 1 khu vực, 1 thôn làng, vì vậy tụi mình cho Thôn = Ấp.
Câu 11-20 gồm 31 bộ:
廴 – 辶
Yǐn – chuò
勹 – 比 – 廾
Bāo – bǐ – gǒng
鳥 – 爪 – 飛
Niǎo – zhǎo – fēi
足 – 面 – 手 – 頁
Zú – miàn – shǒu – yè
髟 – 而
Biāo – ér
牙 – 犬 – 牛 – 角
Yá – quǎn – niú – jiǎo
弋 – 己
Yì – jǐ
瓜 – 韭 – 麻 – 竹
Guā – jiǔ – má – zhú
行 – 走 – 車
Xíng – zǒu – chē
毛 – 肉 – 皮 – 骨
Máo – ròu – pí – gǔ
11. DẪN 廴- ĐI GẦN, SƯỚC 辶 – ĐI XA
12. BAO 勹 – ÔM, TỶ 比 – SÁNH, CỦNG 廾 – LÀ CHẮP TAY
13. ĐIỂU 鳥 – CHIM, TRẢO 爪 – VUỐT, PHI 飛 – BAY
14. TÚC 足 – CHÂN, DIỆN 面 – MẶT, THỦ 手 – TAY, HIỆT 頁 – ĐẦU
15. TIÊU 髟 LÀ TÓC, NHI 而LÀ RÂU
16. NHA 牙 – NANH, KHUYỂN 犬 – ***, NGƯU 牛- TRÂU, GIÁC 角 – SỪNG
17. DỰC 弋 – CỌC TRÂU, KỶ 己 – DÂY THỪNG
18. QUA 瓜 – DƯA, CỬU 韭 – HẸ, MA 麻 – VỪNG, TRÚC竹 – TRE
19. HÀNH 行 – ĐI, TẨU 走 – CHẠY, XA 車 – XE
20. MAO 毛 – LÔNG, NHỤC 肉 – THỊT, DA 皮 – BÌ, CỐT 骨 – XƯƠNG.
Chú giải:
1. Hai bộ Dẫn, Sước có ý nghĩa rất rộng, thường chỉ về hành động, đặc biệt là sự đi lại, ở đây tôi tạm dịch Dẫn = đi trong phạm vi gần, Sước = đi trong phạm vi xa. (Cũng là để cho bắt vần)
2. Bao = bao bọc, ôm ấp, bao che. Nên tôi viết Bao = ôm. Bỉ = so sánh. Bộ Củng có nghĩa là 2 tay chắp lại để nâng 1 vật nào đó, hoặc chắp tay lại. (Cổ văn vẽ bộ Củng là hình 2 bàn tay)
3. Bộ Hiệt vẽ cái đầu người. Chú ý phân biệt với bộ Thủ (vẽ đầu con thú, nghĩa gốc Thủ = đầu con thú – Lý Lạc Nghị)
4. Bộ Tiêu nghĩa là tóc dài, các chữ chỉ về râu tóc thường có bộ này. Bộ Nhi vốn là 1 chữ tượng hình, vẽ chòm râu dưới cằm (Lý Lạc Nghị). Sau này người ta giả tá (mượn chữ Nhi này để chỉ 1 nghĩa khác). Cho nên ngày nay bộ Nhi trở thành 1 hư tự trong tiếng Hán. Trong 1 vài chữ Hán có chứa bộ Nhi, bộ Nhi vẫn mang ý nghĩa là râu cằm. 耐 (nhẫn nại, bị nhổ râu,đau, phải nhẫn nại),耍 (chơi đùa, đàn bà vốn ko có râu, thế mà bộ Nữ lại đi với bộ Nhi (râu).
5. Bộ Dực = cọc buộc mũi tên, hoặc súc vật. Ở đây tôi dịch là cọc buộc trâu, cũng chỉ là để liên tưởng mà thôi.
Bộ Kỷ cũng là vẽ 1 sợi dây thừng (Lý Lạc Nghị) sau đó, người ta cũng giả tá nó làm 1 trong 10 thiên can. (Ví dụ: năm Kỷ Mùi). Và còn giả tá làm nghĩa Kỷ = tôi, bản thân, mình. Nghĩa gốc của chữ Kỷ己 là chữ Kỷ紀. Người nguyên thủy ghi nhớ bằng cách lấy 1 sợi dây thừng thắt lại nhiều nút. Mỗi nút là 1 sự kiện.
6. 芝麻 Nghĩa là Vừng (hoặc Mè trong tiếng miền Nam). Người miền Nam Việt Nam gọi Vừng là Mè vì họ bắt chước cách đọc chữ zhima của người Quảng Đông. Bộ Ma còn có nghĩa là cây gai v.v.v.
– Hai câu đầu nói về các động tác của con người (chân và tay)
– Câu 3 nói đến loài chim
– Câu 4 có tính biền ngẫu: Túc, Diện, Thủ, Hiệt- Thủ/Túc ; Diện/Hiệt. (chân & tay, đầu & mặt)
– Câu 5 nối tiếp chữ Hiệt = đầu người (nên có tóc, có râu)
– Câu 6 có tính biền ngẫu: Nha, Khuyển, Ngưu, Giác (Chó có răng nanh nhọn, Trâu có sừng cong) Đồng thời Trâu chó, cũng là 2 con vật đi đôi với nhau. (Ngưu thực ra là bò, trâu là 水牛)
– Câu 7 có tính nối liền: Cọc trâu, Dây thừng (cọc buộc trâu ắt phải có dây thừng)
– Câu 8 nói về thực vật. Qua, Cửu, Ma, Trúc
– Câu 9 nói đến Giao thông, các từ đều nằm trong cùng trường nghĩa (đi lại)
– Câu 10 nói đến các bộ phận trên cơ thể. Mao, Nhục, Bì, Cốt. Đồng thời cũng có tính biền ngẫu. Mao đi với Bì (da & lông) Cốt đi với Nhục (xương & thịt).
Câu 21-30 gồm 31 bộ:
口 – 齒
Kǒu – chǐ
甘 – 鹵 – 長 – 高
Gān – lǔ – zhǎng – gāo
至 – 入
Zhì – rù
匕 – 臼 – 刀 – 皿
Bǐ – jiù – dāo – mǐn
曰 – 立 – 言
Yuē – lì – yán
龍 – 魚 – 龜
Lóng – yú – guī
耒 – 黹
Lěi – zhǐ
玄 – 幺 – 糸 – 黃
Xuán – yāo – mì – huáng
斤 – 石 – 寸
Jīn – shí – cùn
二 – 八 – 方 – 十
Èr – bā – fāng – shí
21. KHẨU (口) LÀ MIỆNG, XỈ (齒) LÀ RĂNG
22. NGỌT CAM (甘), MẶN LỖ (鹵), DÀI TRƯỜNG (長), KIÊU CAO (高)
23. CHÍ (至) LÀ ĐẾN, NHẬP (入) LÀ VÀO
24. BỈ (匕) MÔI, CỮU (臼) CỐI, ĐAO (刀) DAO, MÃNH (皿) BỒN
25. VIẾT (曰) RẰNG, LẬP (立) ĐỨNG, LỜI NGÔN (言)
26. LONG (龍) RỒNG, NGƯ (魚) CÁ, QUY (龜) CON RÙA
27. LỖI (耒) CÀY RUỘNG, TRỈ (黹) THÊU THÙA
28. HUYỀN (玄) ĐEN, YÊU (幺) NHỎ, MỊCH (糸) TƠ, HOÀNG (黃) VÀNG
29. CÂN (斤) RÌU, THẠCH (石) ĐÁ, THỐN (寸) GANG
30. NHỊ (二) HAI, BÁT (八) TÁM, PHƯƠNG (方) VUÔNG, THẬP (十) MƯỜI
Chú giải:
1. Câu 1 nói về miệng và răng(cùng trường nghĩa)
2. Câu 2 nối tiếp câu 1, nói về vị giác, ngọt, mặn, sau đó chuyển tiếp đến sự trưởng thành (cao, dài). Sự trưởng thành có liên quan mật thiết đến răng.
3. Câu 3 tiếp tục nói đến những điều liên quan với miệng. (Đến, vào trong miệng)
4. Câu 4 nói về dụng cụ làm bếp. (muôi múc canh(thìa-spoon), cối giã gạo, con dao, cái bát mãnh (tôi tạm dịch là cái bồn cho bắt vần)
5. Được ăn rồi thì phải nói, câu này là những chữ về việc quân tử Lập Ngôn. (viết = nói rằng, và lập ngôn (tạo dựng uy tín, tiếng nói cho riêng mình)
6. Câu tiếp theo bắt đầu là con rồng (ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo). Câu này gồm 3 loài thuỷ tộc. Trong đó đều là linh vật. (Long, quy) và 1 con có thể hoá rồng (ngư-cá)
7. Câu này là chuyển tiếp, nói sang việc nông tang (cày ruộng, thêu thùa)
8. Thêu thì cần có chỉ, nên câu tiếp theo nói về bộ mịch = tơ và các bộ Huyền, yêu, đều có hình dạng giống bộ Mịch. Và bộ Hoàng = màu vàng => màu sắc, tơ sắc vàng. (đồng thời Huyền, hoàng thường đi với nhau, yêu mịch cũng vậy, và đôi khi dùng với nghĩa như nhau)
9. Câu này nói về cân đo, đong, đếm, Cân =rìu = 1 cân (đơn vị đo trọng lượng) Thạch = đá, 1 thạch (đơn vị đo khối lượng) =1 stone, thốn = 1 tấc, là đơn vị đo chiều dài, ở đây để bắt vần tôi dịch 1 thốn = 1 gang tay (sai nhưng dễ liên tưởng).
10. Câu 10 là những bộ thủ dùng để đếm, 2, 8, 10. Có thêm bộ Phương = phương hướng. (thập phương).
Câu 31-40 Gồm 24 Bộ:
女 – 儿
Nǚ – er
見 – 目 – 彳
Jiàn – mù – chì
支
Zhī
癶 – 厶
Bō – sī
殳
Shū
气 – 風 – 雨 – 齊
Qì – fēng – yǔ – qí
鹿 – 馬 – 豕
Lù – mǎ – shǐ
生 – 力 – 隶
Shēng – lì – lì
网 – 舟
Wǎng – zhōu
黑 – 白 – 赤
Hēi – bái – chì
31. NỮ (女) CON GÁI, NHÂN (儿) CHÂN NGƯỜI
32. KIẾN (見) NHÌN, MỤC (目) MẮT, XÍCH (彳) DỜI CHÂN ĐI
33. TAY CẦM QUE GỌI LÀ CHI (支 )
34. DANG CHÂN LÀ BÁT (癶), CONG THÌ LÀ TƯ (厶)
35. TAY CẦM BÚA GỌI LÀ THÙ (殳)
36. KHÍ (气) KHÔNG, PHONG (風) GIÓ, VŨ (雨) MƯA, TỀ (齊) ĐỀU
37. LỘC (鹿) HƯƠU, MÃ (馬) NGỰA, THỈ (豕) HEO
38. SỐNG SINH (生), LỰC (力) KHOẺ, ĐÃI (隶) THEO BẮT VỀ
39. VÕNG (网) LÀ LƯỚI, CHÂU (舟) THUYỀN BÈ
40. HẮC (黑) ĐEN, BẠCH (白) TRẮNG, XÍCH (赤) THÌ ĐỎ AU
Chú thích:
1. Bộ Nhân (vẽ hai chân của loài người). Có thể thấy điều này trong chữ Kiến (nhìn): Trên vẽ mắt, dưới vẽ 2 chân người, ngụ ý: Chỉ có loài người thì mới có “kiến giải” “kiến thức”
2. Nói đến nữ = phái đẹp, là phái đẹp thì khiến cho người ta fải nhìn ngắm (bộ kiến) nhìn thì bằng mắt (bộ Mục) và nhìn thấy rồi sẽ theo đuổi (bộ Xích= bước đi)
3. Chữ Chi này nghĩa gốc là “1 cành, 1 que” vẽ bàn tay 又và 1 cành cây nhỏ có 3 cái lá thành ra chữ 十. Xin lưu ý rằng bộ Hựu thường có nghĩa là bàn tay trong các chữ ghép (phồn thể). (Nguồn: Lý Lạc Nghị)
4. Dạng chân là Bát 癶 vẽ 2 bàn chân dạng ra, qua 1 quá trình lịch sử biến đổi tự dạng (hình dáng chữ) lâu dài, nó có hình dạng như ngày nay. Ví dụ: 登 bước lên (thường là làm lễ nhận ngôi, tế trời đất quỷ thần): Gồm 癶 và 豆 (1 loại đồ đựng thức ăn thời xưa làm từ gỗ) ngụ ý chân bước lên, bưng theo đồ đựng thức ăn để tế lễ. (Nguồn: Lý Lạc Nghị – như trên)
**Bộ Tư: Không biết. (tôi thấy giống 1 cái gì đó cong cong)
5.Bộ Thù: Vẽ bàn tay cầm 1 công cụ phá đá (giống như cái búa thời cổ đại) bên trên là búa, bên dưới là bộ Hựu = bàn tay.
6. Bộ Khí: Vẽ đám hơi bốc lên. Bộ Phong: Gồm chữ phàm chỉ âm đọc, bộ trùng = sâu bọ, ngụ ý gió nổi thì côn trùng sinh ra (theo Nguyễn Khuê). Bộ Vũ: Nét – là bầu trời; nét丨là từ trên xuống; nét 冂 là chỉ một vùng; bốn chấm 丶丶丶丶 là vẽ các hạt mưa. (theo Lý Lạc Nghị). Bộ Tề: Vẽ 3 bông lúa trổ đều nhau, cây ở giữa mọc trên đất cao nên cao nhất, 2 cây 2 bên mọc ở đất thấp hơn, nên bông lúa cũng thấp hơn. (theo Lý Lạc Nghị) bộ Tề này biến đổi tự dạng rất lớn, khó nhận ra được. Bạn nào có điều kiện, tìm coi chữ Tề viết theo lối tiểu triện sẽ rõ.
Bộ Tề thêm vào cạnh gió mưa, khí hậu, ngụ ý mong muốn thời tiết điều hoà. Tề = tày, đều 1 lượt: Ví dụ: Tề thiên đại thánh = đại thánh tày trời (to bằng trời). Nhất tề: Cùng(đều).
7. Tiếp đến nói về loài thú quen thuộc với người Trung Quốc: Hươu, ngựa, heo. Và các đặc tính của chúng: Súc sinh, khoẻ mạnh. Cuối cùng là việc đuổi bắt chúng (bộ Đãi)
Cuối cùng nói về sông nước thuyền bè (giang hồ) nên có hắc, có bạch, đồng thời cũng có cả bọn Đỏ
Câu 41-50 Gồm 30 Bộ:
食 – 鬥
Shí – dòu
矢 – 弓 – 矛 – 戈
Shǐ – gōng – máo – gē
歹 – 血 – 心歹 – 血 – 心
Dǎi – xuè – xīn dǎi – xuè – xīn
身 – 尸 – 鼎 – 鬲
Shēn – shī – dǐng – gé
欠 – 臣
Qiàn – chén
毋 – 非 – 黽
Wú – fēi – miǎn
禸 – 舌 – 革
Róu – shé – gé
麥 – 禾 – 黍
Mài – hé – shǔ
小 – 大
Xiǎo – dà
爿 – 舛 – 片 – 韋
Pán – chuǎn – piàn – wéi
41. THỰC (食) ĐỒ ĂN, ĐẤU (鬥) ĐÁNH NHAU
42. THỈ (矢) TÊN, CUNG (弓) NỎ, MÂU (矛) MÂU, QUA (戈) ĐÒNG
43. ĐÃI (歹) XƯƠNG, HUYẾT (血) MÁU, TÂM (心) LÒNG
44. THÂN (身) MÌNH, THI (尸) XÁC, ĐỈNH (鼎) CHUNG, CÁCH (鬲) NỒI
45. KHIẾM (欠) THIẾU THỐN, THẦN (臣) BẦY TÔI
46. VÔ (毋) ĐỪNG, PHI (非) CHỚ, MÃNH (黽) THỜI BA BA
47. NHỮU (禸) CHÂN, THIỆT (舌) LƯỠI, CÁCH (革) DA
48. MẠCH (麥) MỲ, HÒA (禾) LÚA, THỬ (黍) LÀ CÂY NGÔ
49. TIỂU (小) LÀ NHỎ, ĐẠI (大) LÀ TO
50. TƯỜNG (爿) GIƯỜNG, SUYỄN (舛) DẪM, PHIẾN (片) TỜ, VI (韋) VÂY
Chú giải:
1. Thực là đồ ăn, bởi vì ăn uống mà con người tranh giành => đánh nhau (đấu). Bộ Thực gồm Nhân và Lương (chữ 良 này nghĩa gốc là lương thực). Bộ Đấu có 2 chữ Vương(王vua), có thể coi như 2 ông vua đi từ xa đến để đánh nhau.
2. Đánh nhau thì phải dùng đến vũ khí nên có: Thỉ = mũi tên, Cung = cái cung (ở đây để bắt vần, tôi gọi là Nỏ), Mâu= cái mâu (vũ khí của Trương Phi là cái Bát xà mâu), Qua = cái đòng, 1 thứ vũ khí cổ xưa (Truyện kiều có câu: Vác Đòng chật sân)
3. Đánh nhau thì rơi xương đổ máu nên có bộ Đãi = xương tàn, Huyết= máu, và Tâm= tim, tấm lòng (luôn đi cùng với chữ Huyết)
4. Đánh nhau có kẻ còn sống, giữ được Thân, kẻ bỏ xác (bộ Thi), kẻ làm vua thì có Đỉnh ( Ví dụ: Cửu đỉnh ở Huế), có nồi to (Cách = cái nồi rất lớn).
5. Kẻ thua trận phải thần phục làm bề tôi (bộ Thần), bề tôi thì luôn luôn thiếu thốn, thiếu sót (bộ Khiếm)
6. Câu này chuyển ngoặt, khuyên răn bề tôi, chớ làm điều phi pháp (Vô, Phi) và nói về động vật (con Baba)
7. Tiếp theo nói về động vật, Nhữu = vết chân thú, Thiệt= lưỡi (loài động vật, loài người), và Cách (da thú đã thuộc, có thể làm giày, quần áo, túi v.v.v). Đều là những thứ cung cấp cho con người.
8. Tiếp đến là các loài ngũ cốc. Mạch = lúa mạch, gồm chữ Mộc + 2 chữ Nhân (2 bông lúa mạch) và bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch. 木+人+人+夂. Bộ Hoà gồm bộ Mộc 木 thêm 1 phết bên trên ngụ ý bông lúa gạo. Bộ Thử gồm bộ Hoà ngụ ý cây lúa 禾. Bộ Nhân人 = vỏ trái bắp ngô, bên dưới là vẽ 1 cái lõi bắp ngô, và 4 hạt bắp ngô. (giống bộ Thuỷ nhưng ko có nghĩa là nước 水)
9. Tiểu, Đại = nhỏ, to, là nói đến những bộ đối nghĩa
10.Tiếp theo sẽ là Tường > tương đối < Vi. Tường vẽ cái giường (chữ Sàng = giường có bộ tường.牀=床). Quay bộ Tường 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ, sẽ thấy là cái giường. Bộ Phiến ngược với bộ Tường, nghĩa là mỏng (như tờ giấy, nên tôi tạm dịch Phiến = tờ). Bộ Suyễn vẽ 2 bàn chân dẫm trên mặt đất, nhưng vì thời gian dài biến đổi tự dạng, nên khó mà nhận ra 2 bàn chân. (Bạn có thể thấy nó trong chữ Vũ = múa 舞) Bộ Vi ở giữa có 1 chữ Khẩu nghĩa là vẽ 1 toà thành. Bên trên bên dưới vẽ 2 bàn chân đang đi vòng quanh toà thành (ngụ ý bao vây). Tương tự bộ Suyễn, tự dạng biến đổi nhiều, ta khó nhận ra được. (nguồn Lý Lạc Nghị – bộ Vi, bộ Suyễn)
Câu 51-60 Gồm 22 Bộ:
夂 – 夊
Zhǐ – suī
自 – 鼻 – 耳 – 首
Zì – bí – ěr – shǒu
青 – 艹 – 色
Qīng – cao – sè
豸 – 彑
Zhì – jì
鼠
Shǔ
香 – 米 – 屮 – 用
Xiāng – mǐ – chè – yòng
斗
Dòu
干 – 工
Gàn – gōng
示
Shì
玉 – 貝
Yù – bèi
51. TRỈ (夂) BÀN CHÂN, TUY (夊) RỄ CÂY
52. TỰ (自) TỪ, TỴ (鼻) MŨI, NHĨ (耳) TAI, THỦ (首) ĐẦU.
53. THANH (青) XANH, THẢO (艹) CỎ, SẮC (色) MÀU
54. TRĨ (豸) LOÀI HỔ BÁO, KỆ (彑) ĐẦU CON HEO.
55. THỬ (鼠) LÀ CHUỘT, RẤT SỢ MÈO
56. HƯƠNG (香) THƠM, MỄ (米) GẠO, TRIỆT (屮) RÊU, DỤNG (用) DÙNG.
57. ĐẤU (斗) LÀ CÁI ĐẤU ĐỂ ĐONG
58. CHỮ CAN (干) LÁ CHẮN, CHỮ CÔNG (工) THỢ THUYỀN.
59. THỊ (示) BÀN THỜ CÚNG TỔ TIÊN,
60. NGỌC (玉) LÀ ĐÁ QUÝ, BỐI (貝) TIỀN NGÀY XƯA.
Chú giải:
1. Bộ Trỉ vẽ hình 1 cái bàn chân đang đi xuống.
Ví dụ:
a) Giáng 降=阝(đồi cao)+夂(bàn chân) + phần bên dưới cũng là vẽ hình 1 bàn chân.
Giáng nghĩa là đi xuống, vẽ 1 quả đồi (bộ phụ) và 2 bàn chân đi từ trên đồi xuống. (2 bàn chân bên phải đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi tự dạng)
b) Phùng 逄=辶(Sước)+夂(Trỉ)+丰(Phong). Ban đầu viết như thế này 夆, Phùng nghĩa là gặp gỡ, muốn gặp được thì phải đi tới (bộ Trỉ = bàn chân) bên dưới là chữ Phong chỉ âm đọc, Phong=> Phung=>Phùng. Sau đó người ta thêm bộ Sước vào cho rõ nghĩa hơn. (Sước = đi xa, ngụ ý hành động, v.v)
Bộ Tuy trông rất giống bộ Trỉ, nên đôi khi người học dễ bị nhầm lẫn. Nhưng bạn chỉ cần để ý 1 chút là sẽ phân biệt được.
Ví dụ: Chữ 麥=木+人+人+夊. Bộ Mạch là cây lúa mạch, nên vẽ Mộc = cây, hai chữ Nhân là vẽ 2 bông lúa nặng trĩu, bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch.
2. Chữ Tự ban đầu chính là vẽ cái mũi. Sau đó người ta mượn chữ “Mũi” này để chỉ nghĩa Tự = Từ đó, Tự mình. Vì vậy cần phải tạo ra 1 chữ khác chỉ cái mũi, chính là chữ Tỵ.(âm đọc cổ của Tự và Tỵ gần giống nhau)
鼻(Tỵ)=自(tự)+畀(tý).Chữ Tỵ = mũi được tạo mới là 1 chữ Hình thanh (bộ Tự bên trên chỉ nghĩa, chữ Tý bên dưới chỉ âm đọc)
畀Tý =田(điền)+廾(Củng). Tý = đem cho .Bên trên vẽ bộ Điền, tượng trưng 1 gói quà, ta có thể coi như 1 chiếc bánh chưng cho dễ nhớ. Bên dưới vẽ hai bàn tay (bộ Củng = hai bàn tay chắp lại nâng một vật). Ngụ ý, đem quà đi tặng. (âm bắc Kinh Bi4)
Bộ Nhĩ vẽ cái tai. Đã bị biến đổi tự dạng rất nhiều
Bộ Thủ vẽ đầu con thú, có 2 sừng phía trên, khá giống đầu 1 con bò. Chú ý phân biệt với bộ Hiệt vẽ đầu người, không có 2 sừng bên trên.
3.Bộ Thanh nghĩa là màu xanh. 青=生+丹 cổ văn viết bên trên là Sinh(Sanh) chỉ âm đọc (Ghi chú: âm đọc Hán cổ và âm Hán hiện đại khác nhau, có lẽ thời cổ đại, chữ Sinh và chữ Thanh có âm đọc tương đối giống nhau). Bên dưới là Đan = màu đỏ, ngụ ý màu xanh luôn đi đôi với màu đỏ.
Bộ Thảo vẽ 2 ngọn cỏ, cổ văn và lúc bấy giờ đều thuận tiện nhìn ra điều đó .
Bộ Sắc = sắc tố, vẽ con Kỳ nhông đuôi dài, 2 nét trên cùng là cái đầu con kỳ nhông, phần ở giữa vẽ cái thân con kỳ nhông, nét cong dưới cùng vẽ cái đuôi con kỳ nhông, vì kỳ nhông thường biến hóa màu rất nhanh, nên người tq lấy nó để chỉ nghĩa sắc tố .
4. Bộ Trĩ (hoặc Sãi, Trãi) vẽ hình 1 con thú đuôi dài, bên trên là cái đầu có mõm nhọn, răng dài. có thể phân ra thành:
– Đầu con thú = bộ nguyệt viết nghiêng
– Lưng và đuôi con thú là nét cong bao bên ngoài
– 4 chân con thú tượng trung = 2 nét cong bên trong (vì đây là hình vẽ con thú nhìn nghiêng)
Những loài thú dữ, xương sống dài thường dùng bộ Trĩ này để chỉ ví dụ : 豹 , 豺 , 豼 , 貇 , 貅 ,
Bộ Kệ vẽ cái đầu con heo, có mõm dài, rất khó nhận ra, nhưng ta có thể thấy tàn dư của nó trong các chữ Hán đang dùng ngày nay:彖vốn là 1 lòai heo rừng, sau mượn dùng làm chữ Soán trong kinh dịch.
5. Bộ Thử là con chuột, cổ văn vẽ hình 1 con chuột, sau đó diễn biến thành hình chữ như ngày nay. Nếu bạn lấy chữ Thử tiểu triện quay ngược kim đồng hồ 90 độ, sẽ thấy khá giống 1 con chuột đang bò 鼠.
Hiện nay, muốn nhớ được chữ này, bạn có thể nhớ theo cách sau: Thử thuộc bộ Cữu = cái cối xay gạo. Con chuột “xay”gạo cũng khá là dữ, cho nên lấy bộ Cữu tượng trưng cho cái đầu của nó. Phần bên dưới vẽ 3 nét dài 4 nét ngắn. 3 nét dài tượng trưng cho mình và đuôi con chuột, 4 nét ngắn = 4 cái chân.
6. Bộ Hương = thơm, bên trên vẽ bộ Hòa = cây lúa, bên dưới vẽ bộ Cam ( sau biến thành Viết ) nghĩa là ngọt ngào. Gộp 2 ý lại => mùi bông lúa chín ngọt ngào và thơm tho. 香 = 禾 + 甘 = 禾 + 曰
Bộ Mễ vẽ hình 1 bông lúa, sau chỉ nghĩa là gạo. Trông hình chữ khá giống bông lúa. Những chữ Hán có chứa bộ Mễ thường chỉ về các loại hạt, hạt nhỏ, thậm chí còn nhỏ đến mức không nhìn thấy ví dụ : 精, 氣
Bộ Triệt vẽ 1 ngọn cỏ, tượng trưng cho loài rêu, bộ này ít dùng
Bộ Dụng vẽ hình 1 quả chuông ( không có núm ). Người xưa đặt nó trên bàn thao tác, khi cần “ DÙNG ” đến lính hầu, người ở thì dùng tay nắm lấy lắc cho kêu. Do vậy mà người TQ vẽ cái chuông này để chỉ nghĩa Dùng, sử dụng .
6. Bộ Ất là 1 trong mười thiên can của Trung Quốc, nó rất đơn giản chỉ có 1 nét. Bộ Ất theo ông Lý Lạc Nghị vốn vẽ hình 1 con chim én, sau đó mượn chữ này để chỉ thiên can. Các bạn mới học chữ Hán cũng nên học thuộc Thiên Can gồm 10 chữ khá cơ bản. Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. Tuy rằng chúng không phải là chữ rất thường dùng nhưng cũng được dùng khá nhiều. Hơn nữa, chúng nằm trong các chữ Hán rất thường dùng.
Thiên can: 甲乙丙丁戊己更辛壬癸trong đó các chữ 甲乙丁己更là rất thường dùng, ngoài ra các chữ còn lại 丙戊辛壬癸đều nằm trong các chữ rất thường dùng khác như: 病茂宰任葵
Bộ Trùng vẽ hình 1 con rắn hổ mang, chữ Trùng ngày nay vẫn còn giữ lại khá tốt hình dáng con rắn hổ mang. Phần trên là chữ Trung giống như cái đầu con rắn hổ mang, 2 nét bên dưới vẽ hình nó đang cuộn tròn. Ngoài ra bạn có thể ghi nhớ được rằng Trung =>Trùng (về âm đọc). Ngày nay bộ Trùng được dùng chung để chỉ các loài không fải chim mà cũng không fải thú, các con vật trong thần thoại. Chú ý, ví dụ như loài dơi, vốn thuộc loài thú, nhưng vì người TQ cổ đại nhầm lẫn nên xếp nó vào loài trùng. Sự phân biệt giữa Chim, Thú, Trùng, Ngư trong hệ thống chữ Hán cũng chỉ là tương đối.
Bộ Vũ vẽ hình đôi cánh chim, trông khá giống 1 đôi cánh
Bộ Đấu vẽ hình 1 cái đấu đong gạo. Người Trung Quốc cổ đại đong bằng đấu. Nếu bạn nào là người Việt Nam gốc miền bắc chắc sẽ dễ hiểu hơn, vì người Việt Nam ở miền bắc vẫn dùng đơn vị “đấu” để đong gạo cho đến tận nhưng năm 80 của thế kỷ 20.
8. Bộ Can là cái lá chắn, hoặc là cái dụng cụ dùng để dựng giáo mác thời xưa. Nay đã biến hình chữ, khó nhận ra, tuy nhiên nó cũng rất đơn thuần, chỉ có 3 nét, nên cũng khá dễ nhớ .
Bộ Công vẽ hình cái thước thợ ( giống như thước T ngày này ) 1 dụng cụ để lấy góc vuông của người thợ Trung Quốc cổ đại. Nếu bạn nào có trình độ về thiết kế xây dựng sẽ thuận tiện tưởng tượng ra hơn .
9. Bộ Thị vẽ hình 1 cái bàn thờ cúng thời tiền sử ( họ dùng 1 mặt đá làm mặt bàn, chụm 3 khúc gỗ làm chân ) nên bộ Thị lúc bấy giờ viết : Nét trên cùng là thức ăn cúng tế, nét ngang thứ 2 là mặt bàn thờ cúng, 3 nét có chiều thẳng là vẽ chân bàn. Bộ Thị hiện có 2 cách viết được gật đầu : 示礻
10. Bộ Ngọc vẽ 1 chuỗi ngọc, cổ văn viết Ngọc 玉 và Vương 王 giống nhau, sau này người ta mới thêm 1 chấm nhỏ vào bộ Ngọc để phân biệt với chữ Vương. Rất nhiều người học chữ Hán thường nhầm là bộ “Vương” thực ra, không hề có bộ Vương, chỉ có bộ Ngọc, bộ ngọc khi nằm trong các chữ Hán phức tạp, có hình dạng của chữ Vương. VD: 珍珠,琪,瑜,琦,珀,玻璃,
Bộ Bối vẽ hình cái vỏ sò, hai nét dưới cùng là hai cái khớp trên vỏ con sò biển. Người TQ cổ đại trao đổi hàng hóa bằng vỏ sò, họ dùng vỏ sò thay thế tiền. Do vậy, Bối có nghĩa mở rộng là tiền bạc, đồ quý hiếm, của báu, vd trong tiếng Việt: Bảo bối.
Qua 1 thời gian dài biến hình, nên bộ Bối khó nhận ra được hình dạng vỏ sò, nhưng nó thường nằm trong các chữ chỉ về tiền bạc, mua bán, trao đổi, bồi thường, v..v..
Câu 61-70 Gồm 19 Bộ:
豆
Dòu
鬯 – 酉
chàng – yǒu
衣 – 巾
yī – jīn
又 – 止
yòu – zhǐ
乙 – 虫
yǐ – chóng
隹 – 羽
zhuī – yǔ
冂
jiōng
囗 – 凵
wéi – qiǎn
支 – 采
zhī – cǎi
几 – 聿 – 辛
jǐ – yù – xīn
61. ĐẬU (豆) LÀ BÁT ĐỰNG ĐỒ THỜ
62. SƯỞNG (鬯) CHUNG RƯỢU NGHỆ, DẬU (酉) VÒ RƯỢU TĂM.
63. Y (衣) LÀ ÁO, CÂN (巾) LÀ KHĂN
64. HỰU (又) BÀN TAY PHẢI, CHỈ (止) CHÂN TẠM DỪNG.
65. ẤT (乙) CHIM ÉN, TRÙNG (虫) CÔN TRÙNG
66. CHUY(隹) CHIM ĐUÔI NGẮN, VŨ (羽) LÔNG CHIM TRỜI.
67. QUYNH (冂) VÂY 3 PHÍA BÊN NGOÀI
68. VI (囗) VÂY BỐN PHÍA, KHẢM (凵) THỜI HỐ SÂU
69. PHỐC (攴) ĐÁNH NHẸ, THÁI (采) HÁI RAU
70. KỶ (几) BÀN, DUẬT (聿) BÚT, TÂN (辛) DAO HÀNH HÌNH.
Chú giải:
1. Bộ đậu vẽ hình 1 lọai dụng cụ đựng thức ăn bằng gỗ của người Trung Quốc cổ đại, nét ngang bên trên vẽ cái nắp, bộ khẩu là vẽ phần thân đựng, 3 nét dưới cùng vẽ cái chân đế .
2. Bộ Sưởng (Xưởng) vẽ hình 1 chung rượu (thường là rượu nghệ) dùng để cúng tế thời cổ đại. Có thể phân bộ Sưởng ra như sau:
鬯 Sưởng =凵(phần thân chứa rượu)+乂(2 lá nghệ)+丶丶丶丶(4 chấm tượng trưng gạo/ngũ cốc) + 匕(cái muôi để múc rượu)
Bộ Dậu酉vẽ hình 1 vò rượu ( thời cổ ). Nếu ta nhìn vào chữ Dậu酉tiểu triện, sẽ thấy khá giống 1 vò rượu. Trong văn tự cổ, Dậu酉có đôi lúc chỉ nghĩa rượu, sau này người TQ ý tưởng ra can chi, họ lấy chữ Dậu酉 này làm chi Dậu ( gà ), và tạo mới ra chữ Tửu 酒 = rượu bằng cách thêm vào 3 chấm 氵thủy .
3. Bộ Y vẽ hình 1 cái áo, chữ Y cổ văn rất giống 1 chiếc áo có 2 ống tay, 1 vạt, sau quá trình biến đổi tự dạng, nó có hình dáng như ngày nay, hơi khó nhận ra là 1 cái áo. Nếu bạn nhìn vào chữ Y tiểu triện sẽ thấy giống chiếc áo.
Hiện nay bộ Y có 2 cách viết: 衣衤
Bộ Cân vẽ hình 1 cái khăn 冂được treo trên cọc丨.冂+丨=巾
Bộ Hựu là 1 bộ khá đơn giản, nhưng ý nghĩa lại rất quan trọng, theo Lý Lạc Nghị, bộ Hựu vẽ hình bàn tay làm việc, bàn tay giỏi lao động. (Chú ý, bộ Hựu là chữ viết nên đã được giản lược nhiều, chỉ vẽ bàn tay với 3 ngón, hơn nữa rất khó nhận ra)
Tuy nhiên ngày nay bộ Hựu đã được mượn dùng làm hư tự, nhưng trong các chữ ghép có chứa bộ Hựu, nó vẫn mang ý nghĩa là bàn tay lao động. (Các bạn học chữ giản thể chú ý: Bộ Hựu trong chữ giản thể phần lớn đều không có nghĩa là bàn tay lao động, nó chỉ là cách giảm bớt nét của chữ Phồn thể mà thôi)
Ví dụ: 叉反取奴,賢 (臤=Hiền=người giỏi việc, hiền nhân-chữ cổ)
Nhưng trong các chữ giản thể như : 汉,权,艰难,鸡, v..v.. hựu đều không hề có nghĩa là bàn tay giỏi làm việc
Bộ Chỉ tương tự như bộ Hựu, vẽ 1 bàn chân, nhưng bị biến hình rất nhiều, nên khó lòng nhận ra được. Ngày nay Chỉ cũng được mượn dùng làm hư tự, nghĩa là dừng lại, đình chỉ. Nhưng trong các chữ Hán có chứa bộ Chỉ, nó thường có nghĩa là bàn chân
Ví dụ: 正,步,歸,歷
4.Bộ Ất là 1 trong mười thiên can của Trung Quốc, nó rất đơn giản chỉ có 1 nét. Bộ Ất theo ông Lý Lạc Nghị vốn vẽ hình 1 con chim én, sau đó mượn chữ này để chỉ thiên can. Các bạn mới học chữ Hán cũng nên học thuộc Thiên Can gồm 10 chữ khá cơ bản. Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. Tuy rằng chúng không phải là chữ rất thường dùng nhưng cũng được dùng khá nhiều. Hơn nữa, chúng nằm trong các chữ Hán rất thường dùng.
Thiên can: 甲乙丙丁戊己更辛壬癸trong đó các chữ 甲乙丁己更là rất thường dùng, ngòai ra các chữ còn lại 丙戊辛壬癸 đều nằm trong các chữ rất thường dùng khác như: 病茂宰任葵
Bộ Trùng vẽ hình 1 con rắn hổ mang, chữ Trùng thời nay vẫn còn giữ lại khá tốt hình dáng con rắn hổ mang. Phần trên là chữ Trung giống như cái đầu con rắn hổ mang, 2 nét bên dưới vẽ hình nó đang cuộn tròn. Ngoài ra bạn hoàn toàn có thể ghi nhớ được rằng Trung => Trùng ( về âm đọc ). Ngày nay bộ Trùng được dùng chung để chỉ các loài không phải chim mà cũng không phải thú, các con vật trong truyền thuyết thần thoại. Chú ý, ví dụ như loài dơi, vốn thuộc loài thú, nhưng vì người Trung Quốc cổ đại nhầm lẫn nên xếp nó vào loài trùng. Sự phân biệt giữa Chim, Thú, Trùng, Ngư trong mạng lưới hệ thống chữ Hán cũng chỉ là tương đối .
5. Chữ Truy ( Chuy ) là vẽ con chim có đuôi ngắn ( theo Lý Lạc Nghị – Tìm về cội nguồn chữ Hán ) nếu coi chữ tiểu triện thì hình dáng khá giống 1 con chim ( như loài sẻ ). Những bộ chỉ chim đuôi tương đối ngắn thường dùng bộ Truy. Trong mạng lưới hệ thống chữ Hán, người ta dùng song song 2 bộ Truy và Điểu để chỉ loài chim ( đuôi ngắn và đuôi dài ) Nhưng nhiều lúc cũng có sự lẫn lộn, sự phân biệt này không fải hòan tòan là đúng mực tuyệt đối. Ví dụ như chữ Kê = con gà, hoàn toàn có thể viết là bộ Truy, cũng hoàn toàn có thể viết là bộ Điểu. 雞鸡
Bộ Vũ vẽ hình đôi cánh chim, trông khá giống 1 đôi cánh, miễn bình luận.
6. Bộ Quynh vẽ 1 cái khung vây 3 phía. Theo 1 số sách có ghi là vùng đất ở xa. Nói chung tôi cảm thấy bộ Quynh có 1 số nghĩa, nên tùy vào nó ở trong chữ nào để giải thích cụ thể.
Bộ Vi có nghĩa là vây hãm, vẽ 1 cái khung vây 4 phía .
7. Bộ Khảm có nghĩa là cái hố sâu. Ta hoàn toàn có thể thấy rõ điều này trong chữ Hung = điềm dữ, không tốt đẹp ;
凶 ( Hung ) = 凵 ( Khảm ) + 乂 ( Vẽ hình 2 ngọn chông )
Người ta vẽ 1 cái hố chông để ý niệm rằng rất “ hung hiểm ”, vậy nên Khảm rõ ràng là hình cái hố sâu .
Ngoải ra bạn nên tùy vào trường hợp cụ thể để đoán nghĩa bộ thủ.
8. Bộ Phốc vẽ hình 1 tay cầm que đánh. Ý nghĩa của nó khá đa dạng, nhưng thông thường là nghĩa dùng tay vỗ nhẹ, đánh nhẹ, hoặc động tác diễn ra nhanh chóng.
攵 = 支 = 十 ( que ) + 又 ( tay )
Ví dụ : 鼓 ( bên phải vẽ bàn tay cầm que, bên trái vẽ hình cái trống )
牧 ( bên trái vẽ con bò = súc vật, bên phải vẽ bàn tay cầm que quất nhẹ để chăn bò ) Mục = chăn dắt
變 (Phần bên trên là chỉ cách đọc, bên dưới là bộ Phốc ngụ ý rất nhanh chóng ) Biến = biến đổi, biến hóa.
9.Bộ Thái, Sái nghĩa là hái rau, lựa chọn. Bên trên vẽ bộ Trảo ngụ ý bàn tay hái rau, bên dưới vẽ bộ Mộc ngụ ý loài thực vật.
采=爪+木
10. Bộ Kỷ vẽ hình 1 cái bàn thời cổ .
Bộ Duật cổ văn vẽ hình bàn tay đang cầm viết. Nên trong chữ Thư = sách có bộ Duật (tay cầm viết) và bên dưới là vẽ 1 cuốn sách:
書=聿+日
Bộ Tân vẽ hình 1 con dao dùng để thích chữ lên mặt của bọn quý tộc thời xưa dùng để hành hình tội phạm, sau đó nó có nghĩa lan rộng ra là cay đắng cũng như nghĩa vay mượn là Tân ( thiên can trong lịch TQ, ví dụ ; năm Tân dậu )
Các chữ Hán chứa Tân với nghĩa là dao hành hình :
辜=古+辛 Vô tội, hình thanh, Cổ chỉ âm đọc, Tân chỉ nghĩa
辠=罪=自+辛 Tội, cắt mũi, hội ý, Tự = cái mũi, Tân = con dao hành hình
宰=宀+辛= Quan Tể, cai quản, Bộ miên = cái nhà của quan, bộ Tân = con dao hành quyết thể hiện quyền uy.
Câu 71-82 Gồm 25 Bộ:
文
Wén
艮
Gěn
鬼 – 音
Guǐ – yīn
鼓 – 龠
Gǔ – yuè
氏
Shì
卜 – 疒
Bo – nè
彡 – 爻
Shān – yáo
襾 – 冖 –疋 – 亠
Yà – mì – pǐ – tóu
丨 – 丿 – 亅 – 丶
Gǔn – piě – jué – zhǔ
匸 – 匚 – 冫 – 卩
Xì – fāng – bīng – jié
无 – 一
Wú – yī
71. VĂN (文) LÀ CHỮ VIẾT, VĂN MINH
72. CẤN (艮) LÀ QUẺ CẤN, GIỐNG HÌNH BÁT CƠM.
73. MA LÀ QUỶ (鬼), TIẾNG LÀ ÂM (音),
74. CỔ (鼓) LÀ ĐÁNH TRỐNG, DƯỢC (龠) CẦM SÁO CHƠI.
75. THỊ (氏) LÀ HỌ CỦA CON NGƯỜI,
76. BỐC (卜) LÀ XEM BÓI, NẠCH (疒) THỜI ỐM ĐAU.
77. BÓNG LÀ SAM (彡), VẠCH LÀ HÀO (爻)
78. Á (襾) CHE, MỊCH (冖) PHỦ, SƠ (疋) ĐẦU (亠) NGHĨA NAN.
79. SỔ (丨) PHẾT (丿) MÓC (亅) CHỦ (丶) NÉT ĐƠN,
80. HỄ (匸) PHƯƠNG (匚) BĂNG (冫) TIẾT (卩), THÌ DỒN NÉT ĐÔI.
81. VÔ (无) LÀ KHÔNG, NHẤT (一) MỘ THÔI
82. DIỄN CA BỘ THỦ MUÔN ĐỜI KHÔNG QUÊN.
Chú giải:
1. Bộ Văn vẽ hình 1 người dang đứng, bộc lộ rõ nhất phần thân mình ( hình tam giác ở giữa chữ Văn ). Theo Lý Lạc Nghị, Văn nghĩa gốc là Xăm mình. Tôi được biết người Việt cổ có tục xăm mình, nên có lẽ rằng tất cả chúng ta mới tự nhận là Văn Lang 文郞chăng ?
文=丶(cái đầu) + 一(hai tay) + 乂(thân mình và 2 chân)
Sau đó Văn mới có nghĩa thêm là văn tự, chữ viết.văn minh v.v
2. Bộ Cấn 艮 nghĩa gốc là vẽ hình 1 bát ăn cổ của người TQ. 曰 là vẽ hình cái phần đựng thức ăn, nét ngang bên trong chỉ thức ăn. Phần bên dưới chữ Cấn vẽ hình cái chân của dụng cụ này (sau quá trình biến đổi tự dạng lâu dài, nên khó nhận ra)
Đến khi phát minh ra Kinh Dịch, Bát quái, người TQ bèn mượn chữ Cấn này để chỉ 1 thuật ngữ, tức là Quẻ Cấn trong bát quái. Nghĩa là bát đựng thức ăn mất đi.
Chúng ta có thể thấy nghĩa gốc của chữ Cấn trong các chữ: 食 (thức ăn cho con người) 粮 (bên là Mễ = gạo, bên là bát đựng thức ăn) 既 (ăn xong rồi, quay mặt đi nơi khác = xong, đã)
3. Bộ Quỷ vẽ hình 1 con ma, cái đầu rất to (nét phết + bộ Điền甶)2 chân dài(儿)và cái vũ khí của con ma (giống như kiểu lưỡi hái thần chết厶)
鬼=甶+儿+厶
Bộ Âm đến nay tôi vẫn chưa có tài liệu nào giải thích, nhưng tôi xin đưa ra cách nhớ chữ của tôi, các bạn có thể tham khảo:
音(âm thanh, tiếng) =立 (người vừa biết đứng, biết đi) + 曰 (bắt đầu tập nói ấy thì là Âm)
Bộ Lập = đứng, tôi tạm cho là trẻ con mới chập chững biết đi
Bộ Viết = nói rằng, nói năng, tôi cho đó là trẻ con bắt đầu tập nói.
Chữ Âm trong tiếng việt: Âm thanh, âm nhạc, âm vực, âm học, khuyếch âm, tăng âm, ghi âm (ký âm), âm giai, âm hưởng, v.v
Nguồn : Blog Tự học Tiếng Trung
_____________________________
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục