Giáo trình kinh tế vi mô chương 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (837.64 KB, 26 trang )
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
0
BÀI 6: THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN THUẦN TÚY
Nội dung
Trong bài này, người học sẽ được tiếp
cận các nội dung:
Nghiên cứu về thị trường độc quyền
thuần túy.
Các đặc trưng của thị trường độc quyền
bán thuần túy.
Tối đa hóa lợi nhuận của hãng độc
quyền bán thuần túy trong ngắn hạn và
dài hạn. Quy tắc định giá độc quyền.
Các đặc trưng và khả năng sinh lợi của
hãng độc quyền mua.
Mục tiêu
Phân tích được khái niệm và các đặc trưng
của thị trường độc quyền bán thuần túy.
Chỉ rõ thế nào là sức mạnh thị trường và
các nguyên nhân hình thành độc quyền.
Phân tích được điều kiện tối đa hóa lợi
nhuận và khả năng sinh lợi của hãng độc
quyền bán thuần túy trong cả ngắn hạn và
dài hạn.
Phân tích được quy tắc định giá của nhà
độc quyền (quy tắc ngón tay cái)
Phân tích được các đặc trưng và khả năng
sinh lợi của hãng độc quyền mua.
Hướng dẫn học
Đọc giáo trình và tài liệu liên quan
trước lúc nghe giảng và thực hành.
Sử dụng tốt các phương pháp và công
cụ trong toán học (bao gồm kiến thức
đại số và hình học lớp 12) để phân tích
và nghiên cứu bài học.
Thực hành thường xuyên và liên tục các
bài tập vận dụng để hiểu được lý thuyết
và bài tập thực hành.
Thời lượng học
8 tiết học: 5 tiết lý thuyết và 3 tiết thảo luận.
ECO101_Bai6_v2.301416226
171
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Từ nhiều năm nay, phần lớn các nhãn hiệu cà phê danh tiếng đều được bán tại các quầy tạp hóa
với giá cả không khác biệt nhiều so với giá cả của các loại cà phê thông thường khác. Thậm chí,
với chi phí quảng cáo khổng lồ của hãng sản xuất cà phê có nhãn hiệu “Folgers and Maxwell
House”, nhà sản xuất cũng thất bại trong việc tạo nên nhãn hiệu cà phê thu hút được nhiều khách
hàng trung thành trong số những người uống cà phê. Người mua xem cà phê như một hàng hóa
được tiêu chuẩn hóa, với rất ít sự khác biệt giữa các sản phẩm cà phê, người bán tự nhận thức
được họ là những người chấp nhận giá, và những nhà đầu tư thấy rất ít triển vọng dành được lợi
nhuận trong dài hạn đối với việc bán lẻ cà phê. Tuy nhiên, những điều này đã thay đổi khi
Starbuck đã thành công trong việc tạo ra cho cà phê hương vị mới. Không chỉ các cửa hàng
cà phê Starbuck đó thu được mức lợi nhuận cao mà nhiều công ty cà phê khác cũng đó thu được
lợi nhuận cao rất nhiều khi họ bắt chước hương vị mới đầy sáng tạo của Starbuck. Ví dụ,
Maxwell House cung cấp các nhãn hiệu Master Blend, Columbian Supreme, Rich french Road
và Italian Espresso Roast. Giờ đây, thay vì là những người chấp nhận giá, các hãng cung cấp các
nhãn hiệu cà phê danh tiếng có được sức mạnh đáng kể trong việc định giá nhờ thành công khi
đầu tư vào việc tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình. Thay vì có đường cầu nằm ngang,
hoàn toàn co dãn, các hãng cung cấp các nhãn hiệu cà phê danh tiếng giờ đây đối mặt với những
đường cầu dốc xuống, những đường cầu đưa lại cho họ sức mạnh thị trường trong việc định giá
cà phê của họ cao hơn các nhãn hiệu cà phê thông thường.
Mục đích của bài này là chỉ ra bằng cách nào các nhà quản lý của các hãng định giá có đường
cầu dốc xuống có thể xác định được giá cả, sản lượng và sử dụng đầu vào nhằm tối đa hóa lợi
nhuận của hãng. Cho dù hãng có bao nhiêu sức mạnh thị trường, thì mục tiêu chính của người
quản lý là tối đa hóa lợi nhuận.
Phần đầu của bài này miêu tả một vài cách đo lường sức mạnh thị trường rõ ràng và cụ thể như
là những thuật ngữ chung chung như “nhiều” hay “hạn chế”. Phần lớn bài này sẽ được dành cho
lý thuyết về độc quyền. Độc quyền xảy ra trong trường hợp một hãng sản xuất và bán một hàng
hóa hoặc dịch vụ mà không có hàng hóa hoặc dịch vụ nào có thể thay thế gần trong thị trường và
các hãng khác bị các rào cản ngăn cản gia nhập thị trường (xem case study 6.1). Kết quả là một
hãng độc quyền có nhiều sức mạnh thị trường hơn bất kỳ một hãng nào khác. Mặc dù có rất ít
hãng độc quyền thực sự trên thị trường thuần túy và phần lớn những hãng này đều phải tuân thủ
các quy định của Chính phủ nhưng nhiều hãng, kể cả hãng lớn và nhỏ đều có được sức mạnh thị
trường đáng kể nếu như hàng hóa của họ có rất ít hàng hóa có thể thay thế gần. Lý thuyết độc
quyền cung cấp cơ sở để phân tích những nhà quản lý của các hãng định giá có sức mạnh thị
trường có thể đưa ra những quyết định nhằm tối đa hóa lợi nhuận như thế nào (ngoại trừ, như đã đề
cập, các hãng độc quyền nhóm sẽ phải phụ thuộc nhiều vào quyết định của nhau).
172
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
6.1.
Thị trường độc quyền bán
6.1.1. Khái niệm
Độc quyền, trong kinh tế học, là trạng thái thị trường
Độc quyền: Một hãng sản xuất
chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản một hàng hóa mà không có
phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Trong hàng hóa nào có thể thay thế
gần trong thị trường mà các
tiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp hãng khác bị các rào cản ngăn
monos (nghĩa là một) và polein (nghĩa là bán). Đây là cản gia nhập.
một trong những dạng của thất bại thị trường, là
trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mặc dù trên thực tế hầu như
không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó
độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không
thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền được phân loại theo
nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền.
Độc quyền bán là thị trường chỉ có duy nhất một hãng cung ứng toàn bộ sản lượng của
thị trường.
Ví dụ: Hãng Microsoft độc quyền trên toàn thế giới với hệ điều hành Windows.
Hãng độc quyền có vị trí đặc biệt trên thị trường cụ thể nếu nhà độc quyền quyết định
nâng giá bán sản phẩm, hãng sẽ không phải lo về việc các đối thủ cạnh tranh sẽ đặt giá
thấp hơn để chiếm thị phần lớn hơn, làm thiệt hại tới mình. Hãng độc quyền quyết định
và kiểm soát mức giá, sản lượng cung ứng. Để hiểu rõ về thị trường độc quyền bán thuần
túy, chúng ta nghiên cứu những đặc trưng của nó.
6.1.2. Các đặc trưng của thị trường độc quyền bán thuần túy
Thị trường độc quyền bán thuần túy được nhận biết thông qua ba đặc trưng cơ bản sau:
Chỉ có một hãng duy nhất cung ứng toàn bộ sản phẩm trên thị trường.
Sản phẩm hàng hóa trên thị trường độc quyền
không có hàng hóa thay thế gần gũi. Nếu không có
sản phẩm thay thế tương tự với sản phẩm của
mình, nhà độc quyền sẽ không lo ngại về việc
người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng các sản
phẩm thay thế khi nhà độc quyền định giá cao hơn.
Sức mạnh thị trường: Khả
năng của các hãng định giá có
thể tăng giá mà không bị mất đi
tất cả doanh thu. Sức mạnh thị
trường khiến cho đường cầu
của các hãng định giá là một
đường dốc xuống.
Thị trường độc quyền bán thuần túy có rào cản lớn
về việc gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường. Rào cản gia nhập khiến cho hãng độc
quyền bán là nhà sản xuất và cung ứng duy nhất trên thị trường. Nếu không có rào
cản rút lui khỏi thị trường thì sẽ không có bất kỳ sản phẩm nào mà nhà độc quyền đó
đã cung cấp cho thị trường.
Đường cầu của hãng độc quyền là đường dốc xuống về phía phải, tuân theo luật cầu.
6.1.3. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền bán
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới độc quyền bán thuần túy, có thể là những điều kiện
chủ quan (bản thân) của hãng và những điều kiện khách quan (bên ngoài) doanh nghiệp.
Nguyên nhân cơ bản của độc quyền là hàng rào gia nhập: Doanh nghiệp độc quyền tiếp
tục là người bán duy nhất trên thị trường của nó vì các doanh nghiệp khác không thể
ECO101_Bai6_v2.301416226
173
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
gia nhập thị trường và cạnh tranh với nó. Các hàng rào ngăn cản gia nhập đến lượt nó lại
phát sinh từ các nguồn chính sau:
Quá trình sản xuất đạt được hiệu suất kinh tế tăng theo quy mô (độc quyền tự nhiên).
Một ngành được coi là độc quyền tự nhiên khi một
hãng duy nhất có thể cung cấp một hàng hóa hoặc
dịch vụ cho toàn bộ thị trường với chi phí thấp hơn
trường hợp có hai hoặc nhiều hãng. Khi đó một
hãng lớn cung cấp sản phẩm là cách sản xuất có
hiệu quả nhất. Điều này có thể thấy ở các ngành
dịch vụ công cộng như sản xuất và phân phối điện
năng, cung cấp nước sạch, đường sắt, điện thoại…
Ví dụ: Ngành cung cấp nước sạch, để cung cấp
Độc quyền điện thắp sáng
nước sạch cho dân cư ở một thị trấn nào đó, hãng
phải xây dựng mạng lưới ống dẫn trong toàn bộ thị trấn. Nếu hai hoặc nhiều doanh
nghiệp cạnh tranh nhau trong việc cung cấp dịch vụ này thì mỗi hãng phải trả một
khoản chi phí cố định để xây dựng mạng lưới ống dẫn. Do đó, tổng chi phí bình quân
của nước sẽ thấp nếu chỉ có một hãng duy nhất nào đó phục vụ cho toàn bộ thị trường.
Sự kiểm soát được yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Điều này giúp cho người
nắm giữ có vị trí gần như độc quyền trên thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi
được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do đó
quốc gia này có vị trí gần như độc quyền trên thị trường kim cương.
Bằng phát minh sáng chế: Bằng phát minh, sáng
chế được pháp luật bảo vệ là một trong những
nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo hộ bằng
sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất
mặt hàng vừa được phát minh và do vậy họ trở
thành nhà độc quyền. Ví dụ: Bill Gate chủ tịch tập
đoàn Microsoft là người phát minh sáng chế phần
mềm Microsoft Office (xem case study 6.1). Nhờ
bằng phát minh sáng chế này mà tập đoàn
Hãng độc quyền Microsoft
Microsoft đã trở thành tập đoàn độc quyền trong
việc cung cấp phần mềm này ở Mỹ.
Những quy định về bằng phát minh, sáng chế một mặt khuyến khích những phát
minh, sáng chế nhưng mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền có thể giữ được
vị trí độc quyền trong thời hạn được giữ bản quyền theo quy định của luật pháp.
Các quy định của Chính phủ trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp độc quyền
hình thành do Chính phủ trao cho một cá nhân hay doanh nghiệp nào đó đặc quyền
trong việc buôn bán một hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Nhà nước tạo ra cơ chế
độc quyền nhà nước cho một công ty như trường hợp Chính phủ Anh trao độc quyền
buôn bán với Ấn độ cho công ty Đông Ấn.
Ví dụ, Chính phủ Mỹ trao độc quyền cho công ty Network Solutions – một tổ chức
quản lý cơ sở dữ liệu của tất cả các địa chỉ Internet: .com, .net, .org, vì người ta cho
rằng những dữ liệu như vậy cần được tập trung hóa và đầy đủ.
174
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Do sở hữu được một nguồn lực lớn: điều này giúp
cho người nắm giữ có vị trí gần như trọn vẹn trên
thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi được
sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản
lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí
gần như đứng đầu trên thị trường kim cương.
Sau khi đã biết sự hình thành độc quyền bán trên
thị trường, chúng ta có thể tiếp tục đi phân tích
xem một hãng độc quyền bán ra quyết định như
thế nào về việc sản xuất bao nhiêu sản phẩm và
định giá nào cho nó. Để phân tích hành vi độc
quyền trong phần này trước tiên chúng ta phải đi
xem xét đường cầu và đường doanh thu cận biên của hãng.
Nhãn hiệu độc quyền
6.1.4. Đường cầu và đường doanh thu cận biên
Trong nội dung bài 4, chúng ta đã có sự nghiên cứu về
mối quan hệ giữa giá và doanh thu cận biên của một
hãng. Với hãng chấp nhận giá là hãng CTHH thì
đường cầu và đường doanh thu biên là trùng nhau.
Đối với hãng có mức sản lượng bán ra phụ thuộc vào
mức giá, MR luôn nhỏ hơn P trừ điểm đầu tiên.
Đường cầu của hãng độc quyền là đường dốc xuống
tuân theo luật cầu.
Sức mạnh thị trường: Khả
năng của các hãng định giá có
thể tăng giá mà không bị mất đi
tất cả doanh thu. Sức mạnh thị
trường khiến cho đường cầu
của các hãng định giá là một
đường dốc xuống.
P,R
a
0
Q phụ thuộc
vào P
MR
a/(2b)
D
b
Q
Hình 6.1. Đường cầu và đường doanh thu cận biên của hãng độc quyền bán
Mối quan hệ giữa doanh thu cận biên và độ co dãn
Khi xem xét đến đường cầu, chúng ta cũng có sự nghiên cứu về độ co dãn của cầu
theo giá, chúng ta đã thấy được mối quan hệ giữa độ co dãn và doanh thu của hãng,
dựa trên cơ sở đó hãng nên quyết định tăng giá hay giảm giá để tối đa hóa doanh thu.
Trong đồ thị về mối quan hệ đó chúng ta có đề cập đến một chỉ tiêu TR’ là đạo hàm
của hàm TR hay qua những kiến thức đã học ở bài sau chúng ta biết rõ đó là doanh
thu cận biên.
ECO101_Bai6_v2.301416226
175
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
P
A
E DPDP 1
B
a/2
EDDPP 1
0 E DPDP 1
TR’
0
TR
Đường cầu D
C
Q
a/(2b)
TRmax
0
a/(2b)
Q
Hình 6.2. Mối quan hệ giữa hệ số co dãn, doanh thu cận biên và tổng doanh thu
Qua đồ thị có thể thấy được mối quan hệ giữa độ co dãn của cầu theo giá và doanh thu
biên cũng như tổng doanh thu:
E DP < –1 thì MR > 0 hàm doanh thu là hàm đồng biến, có nghĩa là lúc này tăng lượng
cầu (đường cầu là giảm giá để tăng sản lượng bán) sẽ làm tăng doanh thu.
–1 < E DP < 0 thì MR < 0 hàm doanh thu là hàm nghịch biến, có nghĩa là lúc này giảm
lượng cầu (đường cầu là tăng giá bán, lượng cầu giảm) sẽ làm tăng doanh thu.
E DP = 0 thì MR = 0 hàm doanh thu đạt cực đại.
E DP = – ∞ thì MR = P.
Chúng ta có thể chứng minh rõ điều này như sau:
MR
TR (P Q) P Q Q P
Q P
P 1
Q
Q
Q
Q
P Q
Độ co dãn của cầu theo giá được tính bằng: E DP
Doanh thu cận biên được xác định bằng: MR
Q P
P Q
TR
1
P 1 D .
Q
EP
Vì vậy, tại các miền cầu khác nhau thì doanh thu cận biên của hãng độc quyền bán thuần
túy là khác nhau.
176
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Microsoft có phải là một hãng độc quyền?
Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong các vụ kiện chống độc quyền chống lại
Microsoft gần đây bắt nguồn từ câu hỏi liệu Microsoft có phải là một hãng độc quyền trên thị
trường hệ điều hành dành cho máy tính cá nhân (PC). Và thậm chí nếu Microsoft thực sự là
một hãng độc quyền trên thị trường hệ điều hành dành cho Windows, liệu nó đủ sức mạnh
thị trường để làm thiệt hại cho người tiêu dùng hay không? Và thậm chí nếu Microsoft có
được sức mạnh thị trường đủ để gây thiệt hại cho người tiêu dùng, liệu người tiêu dùng sẽ
được lợi khi Microsoft bị chia tách thành hai công ty nhỏ hơn hay không? Đừng suy nghĩ
ngay rằng chúng tôi có thể trả lời những câu hỏi này chỉ trong một ví dụ ngắn hay ngay cả
một ví dụ dài cho vấn đề phức tạp này. Chúng tôi không thể. Nhưng chúng tôi có thể minh
họa sự phức tạp của câu hỏi vô cùng thú vị này bằng cách điều tra quan điểm của nhiều nhà
kinh tế được đăng trên nhiều ấn phẩm về tin tức kinh doanh.
Alan Reynolds (Viện trưởng viện nghiên cứu kinh tế thuộc Viện Hudson)
Có thể nói theo cách thông thường rằng phần mềm Windows của Microsoft “được sử dụng
cho hơn 90% máy tính cá nhân trên toàn thế giới”. Tỷ lệ này có thể gây ra sự lo lắng nếu nó
hàm ý rằng Microsoft kiểm soát 90% thị trường hệ điều hành máy tính. Để đánh giá sự hữu
ích của thị phần này, chúng tôi phải xem xét xác định thị trường được dùng để tính toán.
Như chúng tôi đã nhấn mạnh trong giáo trình này, một thị trường được xác định đúng đắn
nên bao gồm tất cả các sản phẩm hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng biết được là hàng thay
thế cho sản phẩm của một hãng. Reynolds lập luận rằng Bộ Tư pháp đã xác định thị trường
hệ điều hành máy tính quá hẹp và như vậy đã thổi phồng thị phần của hãng Microsoft trên
thị trường hệ điều hành.
Bộ Tư pháp xác định thị trường trong trường hợp của Microsoft chỉ là “máy tính của các cá
nhân riêng lẻ sử dụng bộ vi xử lý của Intel”. Reynolds lưu ý rằng việc xác định quá hẹp
phạm vi thị trường nơi hãng Microsoft hoạt động đã loại trừ những đối thủ cạnh tranh của
Microsoft như là hãng máy tính Apple (bởi vì họ không sử dụng bộ vi xử lý của Intel); các
trạm máy của Sun Microsystem; bất kỳ một hệ điều hành được sử dụng như là một phần
của một mạng giao dịch (ví dụ: Solaris, UNIX); và hệ điều hành sử dụng trong các thiết bị
cầm tay. Tóm lại, Reynolds tin Bộ Tư pháp đã chơi gian lận nhằm chống lại Microsoft bằng
cách loại trừ nhiều đối thủ thực sự của hệ điều hành Windows của hãng Microsoft. Reynolds
lưu ý rằng, trong các ngành công nghệ cao, xuất hiện các hãng thống lĩnh là chuyện bình
thường: Quycken chiếm 80% thị trường phần mềm tài chính gia đình, Netscape từng nắm
giữ 90% thị trường trình duyệt và Intel nắm giữ 76% thị trường bộ vi xử lý.
Richard Schmalensee (nhà kinh tế học tại Học viện Công nghệ Masachuset, MIT,
và là nhân chứng của Microsoft)
Trong quá trình thẩm vấn như là một nhân chứng của Microsoft, Schmalensee đã đưa ra
một luận điểm đặc biệt sâu sắc: Microsoft quả thực đã nắm giữ gần như toàn bộ thị trường
hệ điều hành, nhưng nó không có sức mạnh thị trường mạnh mẽ và không phải là một hãng
độc quyền gây hại cho người tiêu dùng. Schmalensee tính toán rằng nếu Microsoft quả thực
là một hãng độc quyền nắm giữ sức mạnh thị trường vì nó không phải hoặc phải cạnh tranh
rất ít với các đối thủ, thì giá cả mà tối đa hóa lợi nhuận cho Microsoft của hệ điều hành
Windows 98 phải nằm đâu đó trong khoảng giữa $900 và $2.000. Công tố viên của Bộ Tư
pháp đã bày tỏ sự ngạc nhiên trước sự tính toán này khi hỏi Schmalensee rằng ông ta có
nghĩ mức giá $2.000 là mức giá tối đa hóa lợi nhuận Microsoft nên thực sự thu cho phần
mềm Windows. “Dĩ nhiên là không bởi Microsoft gặp phải sự cạnh tranh đáng kể trong dài
hạn. Đó là ý kiến đúng đắn”. Như chúng tôi đã giải thích trong giáo trình, mức độ sức mạnh
thị trường mà hãng độc quyền nắm giữ phụ thuộc vào sự sẵn có của các hàng hóa có khả
năng thay thế cao. Schmalensee giải thích rằng Windows 98 không chỉ phải đối mặt với các
ECO101_Bai6_v2.301416226
177
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Microsoft có phải là một hãng độc quyền?
đối thủ cạnh tranh tiềm năng từ những hãng mới sẽ gia nhập thị trường trong tương lai, mà
nó cũng phải cạnh tranh với 2 sản phẩm đã được sử dụng rất rộng rãi là Windows 3.1 và
Windows 95. Có lẽ sự bảo vệ tốt nhất của người tiêu dùng trước lập luận Microsoft là một
hãng độc quyền là hãy sở hữu một phiên bản mới của hệ điều hành Windows.
Franklin Fisher (nhà kinh tế học tại học viện công nghệ Masachuset, MIT, và là
nhân chứng của Bộ Tư pháp)
“Microsoft đã dính líu vào sự quản lý chống cạnh tranh mà không có sự bắt buộc lý lẽ bào
chữa kinh tế nào cho ảnh hưởng của nó tới việc hạn chế cạnh tranh” theo lời khai của
Franklin Fisher, một chuyên gia trong các vấn đề độc quyền và chống độc quyền. Chính phủ
đã đưa ra bằng chứng là nhiều biên bản ghi nhớ và các tài liệu chiến lược quốc tế của
Microsoft. Ngôn ngữ trong những tài liệu này vẽ lên bức tranh của một hãng bị ám ảnh bởi ý
nghĩ đánh bại đối thủ cạnh tranh của nó bằng mọi cách có thể. Trong một E-mail được
truyền đi giữa các nhà quản lý cấp cao của Microsoft về vấn đề phá hoại ngôn ngữ phần
mềm Java: “Phá hoại luôn luôn là chiến thuật tốt nhất của chúng tôi… Phá hoại trong hầu
hết các trường hợp luôn tốt hơn một cuộc tấn công trực diện. Nó để lại sự cạnh tranh rối
loạn; họ sẽ không biết cần phải tấn công cái gì nữa”. Mặc dù chiến thuật được Microsoft sử
dụng nhằm đánh bại đối thủ của hãng có vẻ nhẫn tâm đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi
hoài nghi rằng những loại biên bản ghi nhớ tương tự có thể được tìm thấy nếu như phiên
tòa bao gồm Pfizer, Toyota, Bank of America hay bất kỳ hãng tối đa hóa lợi nhuận nào khác.
Tạp chí The Economist (ý kiến được trích trong bài xã luận đăng trên tạp chí The
Business News)
Trong một bài xã luận, Tạp chí The Economist biểu thị mối quan tâm của họ rằng nhiều thị
trường công nghệ cao trong nền kinh tế mới trải qua ngoại ứng mạng lưới, điều làm tăng
khả năng thống lĩnh một thị trường của một hãng đơn lẻ. Một khi một hãng thống lĩnh thiết
lập một tập hợp khách hàng đông đảo, những người đang sử dụng những nhãn hiệu hàng
công nghệ cao của hãng, người tiêu dùng lúc này có thể trở nên không muốn sử dụng
những thương hiệu khác, và như vậy tạo nên một độc quyền bằng cách ngăn chặn sự gia
nhập của các hãng mới và của các công nghệ mới. Đối với các cơ quan giám sát chống độc
quyền được giao nhiệm vụ ngăn chặn việc hình thành các hãng độc quyền mới và xoá bỏ
các hãng độc quyền đang tồn tại, việc cải tiến sản phẩm liên tục và giá của các sản phẩm
giảm liên tục khiến cho họ khó khăn trong việc chứng minh người tiêu dùng bị thiệt hại bởi
“sự lạm dụng độc quyền” trên thị trường đồ công nghệ cao. Kết quả là tạp chí The
Economist lo lắng rằng Microsoft có thể kiềm chế sự sáng tạo và gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng cho người tiêu dùng những sản phẩm công nghệ cao và nền kinh tế mới.
Tạp chí The Economist, cũng giống như Franklin Fisher, xem các hành vi kinh doanh của
Microsoft như những chứng cứ về việc hãng có ý định sử dụng sức mạnh thị trường để duy
trì sự thống lĩnh thị trường của hãng. “Bằng chứng đáng kinh ngạc của E-mail và các giấy tờ
quản lý đã mô tả sự sẵn sàng của một công ty, dường như, làm tất cả mọi thứ để bảo vệ
thế độc quyền của hệ điều hành Windows của họ… Khi đó, như trong trường hợp của
Microsoft, sự điều hành của một hãng độc quyền dường như bóp nghẹt sự sáng tạo trên
những thị trường trong đó sự cạnh tranh được nhìn nhận rộng rãi như là sự đổi mới, thì
những lập luận cho sự can thiệp chống độc quyền là bắt buộc”.
Gary Becker (nhà kinh tế đoạt giải Nobel – Đại học Chicago)
Bộ Tư pháp đề xuất tách hãng Microsoft thành hai hãng độc lập: Một công ty chuyên về hệ
điều hành (Windows) và một công ty chuyên về các phần mềm ứng dụng (MS office,
Internet Explorer, và các ứng dụng khác của Microsoft). Bộ Tư pháp tin rằng sự chia tách là
cần thiết nhằm khuyến khích sự đổi mới công nghệ nhanh hơn nữa. Becker chỉ ra hai vấn đề
178
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Microsoft có phải là một hãng độc quyền?
đối với lập luận của Bộ Tư pháp. Thứ nhất, các nhà kinh tế không chắc rằng cạnh tranh sẽ
khuyến khích đổi mới công nghệ nhanh hơn. Becker đề cập tới tư tưởng của Joseph
Schumpeter (1883 – 1950), người tin rằng thị trường độc quyền tạo ra tỷ lệ đổi mới công
nghệ cao hơn so với thị trường cạnh tranh, về vấn đề này. Theo Schumpeter, độc quyền
thúc đẩy đổi mới công nghệ hơn bởi vì họ không phải lo lắng về các đối thủ cạnh tranh bắt
chước một cách nhanh chóng những sự sáng tạo của họ, và làm giảm lợi nhuận của họ.
Becker cũng lập luận rằng Bộ Tư pháp đã không cung cấp được bất kỳ bằng chứng định
lượng được rằng vị trí độc quyền mà Microsoft nắm giữ trên thị trường hệ điều hành đã làm
chậm quá trình phát triển công nghệ trong ngành công nghiệp máy tính truy cập Internet:
Chính phủ và các chuyên gia của Chính phủ trích dẫn những đổi mới tiềm năng được cho là
bị ngăn cản bởi các hành vi hiếu chiến của Microsoft. Thậm chí nếu những ví dụ đó là chính
xác thì Chính phủ cũng không quan tâm xem liệu có hay không những sáng tạo đổi mới
công nghệ khác được khuyến khích bởi một thị trường rộng lớn dành cho những ứng dụng
phần mềm mới có thể được tạo ra trên cơ sở nền tảng hệ điều hành Windows.
Bốn mươi năm qua, đã có rất nhiều sự tiến bộ công nghệ trong ngành công nghiệp máy tính –
Internet. Những tiến bộ đó, Becker đã chỉ ra, không hề chậm lại khi Microsoft tạo dựng vị
thế của hãng trong hệ điều hành trong suốt 20 năm cuối của giai đoạn này. Có lẽ các đối
thủ của Microsoft, những người phàn nàn tại toà, hy vọng Bộ Tư pháp bảo vệ họ khỏi sự
cạnh tranh mạnh mẽ của Microsoft hơn là thúc đẩy sự cạnh tranh thực sự?
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của ví dụ này, chúng tôi muốn rằng có thể cho các bạn
câu trả lời cho tất cả những câu hỏi này nhưng chúng tôi không thể. Trên thực tế, những
câu trả lời cho tất cả những gì liên quan trong tình huống này được minh chứng là rất khó
khăn. Cuối cùng, thẩm phán của phiên toà, thẩm phán Thomas Penfield Jackson, đã thấy
Microsoft phạm tội độc quyền hoá bất hợp pháp và yêu cầu tách Microsoft thành hai hãng.
Tại phiên toà phúc thẩm, Toà phúc thẩm Hoa Kỳ đã huỷ bỏ quyết định chia tách và yêu cầu
thẩm phán Jackson không tham gia tiếp tục vụ kiện. Vào tháng 11 năm 2001, Microsoft và
Bộ Tư pháp đạt được một thoả thuận và được thông qua tại một phiên toà khác vào tháng
11 năm 2002 được xử bởi thẩm phán Colleen Kollar-Kotelly. Rõ ràng rằng, câu hỏi về sự độc
quyền bất hợp pháp đã được minh chứng là khá thách thức với tất cả những ai quan tâm.
Bạn nên cố gắng có kết luận của chính mình và bàn luận những lập luận của mình với các
bạn cùng lớp và giáo viên. Vụ kiện này có lẽ sẽ cũng được tranh cãi trong nhiều năm.
Nguồn: Alan Reynolds, “US v Microsoft”, The Wall Street Journal, 4/4/1999; “Big Friendly
Giant”, The Economist, 30/1/1999; John R.Wilke và Keithe Perine, “Final Government
Witness Testifies Against Microsoft in Antitrust Trial”, The Wall Street Journal, 6/1/1999;
“Lessons from Microsoft”, The Economist, 6/3/1999; Garry S.Becker, “Uncle Sam Has No
Business Busting up Microsoft”, Business Week, 19/1/2000; Don Clack, Mark Wigfield, Nick
Wingfield và Rebecca Buckman, “Judge Approves Most of Pact, in Legal Victory for
Microsoft”, The Wall Street Journal, 1/11/2002.
6.2.
Tối đa hóa lợi nhuận của hãng độc quyền bán thuần túy trong ngắn hạn
6.2.1. Điều kiện tối đa hóa lợi nhuận
Điều kiện tối đa hóa lợi nhuận của hãng độc quyền giống điều kiện tối đa hóa lợi nhuận
chung của các hãng mà chúng ta đã nghiên cứu trong bài 4.
MR = MC
ECO101_Bai6_v2.301416226
179
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
C, R
MC
A
N
S1
E
S2
M
B
MR
O
Q1
Q2
Q*
Q
Hình 6.3. Điều kiện tối đa hóa lợi nhuận của hãng độc quyền
Giả sử hãng sản xuất tại mức sản lượng Q1 < Q*. Xét riêng tại mức sản lượng thứ Q1.
Nếu hãng bán được thì doanh thu tăng thêm MR AQ1. Để sản xuất thêm sản lượng
thứ Q1 thì chi phí thêm MC BQ1 .
Ta thấy MR > MC tức là doanh thu tăng thêm lớn hơn chi phí bỏ thêm để sản xuất sản
lượng thứ Q1.
Suy ra lợi nhuận tăng là AB ( khoảng cách theo chiều dọc giữa MC và MR). Bất kỳ sản
lượng nào có MR > MC thì việc sản xuất và bán thêm sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuận
của hãng.
Từ Q1 đến Q* là các mức sản lượng có MR > MC hãng sản xuất và bán thêm sản
lượng thì lợi nhuận sẽ tăng lên.
S
ABE
S1
tại Q* >
tại Q1 = S
ABE
Giả sử hãng sản xuất tại mức sản lượng Q2 > Q*
Xét riêng tại mức sản lượng thứ Q2.
Nếu hãng bán được thì doanh thu tăng thêm
MR MQ 2
Để sản xuất thêm sản lượng thứ Q2 thì chi phí thêm
MC NQ 2
Ta thấy NQ 2 MQ 2 MC MR, hay lợi nhuận giảm.
Tại đơn vị sản lượng thứ Q2 là giảm lợi nhuận của hãng là
Thương hiệu độc quyền
MN ( khoảng cách theo chiều dọc giữa MC và MR).
Bất kỳ sản lượng nào có MC > MR thì việc sản xuất và bán thêm sản lượng sẽ làm giảm
lợi nhuận của hãng.
Từ Q2 về Q* là các mức sản lượng có MC > MR hãng sản xuất và bán thêm sản
lượng thì lợi nhuận sẽ giảm xuống.
180
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
S
MNE
S2 tại Q* >
tại Q2 = S
MNE
Nếu MR > MC thì tăng Q sẽ tăng .
Nếu MR < MC thì giảm Q sẽ tăng .
Vậy tại Q* thì hãng tối đa hóa lợi nhuận, hãng độc quyền bán tối đa hóa lợi nhuận của
mình tại điểm doanh thu biên bằng với chi phí cận biên.
6.2.2. Lựa chọn sản lượng tối ưu của hãng độc quyền trong ngắn hạn
Dựa vào công thức tính lợi nhuận chúng ta có thể xác định lợi nhuận của hãng độc
quyền như sau:
π = TR – TC
Chúng ta có thể đưa công thức trên về dạng:
π = P.Q – ATC × Q = (P – ATC) × Q
Phương trình xác định lợi nhuận này cho chúng ta biết:
Hãng có lợi nhuận kinh tế dương khi P > ATC.
Hãng có lợi nhuận kinh tế bằng 0 khi P = ATC.
Hãng bị thua lỗ nhưng vẫn tiếp tục sản xuất khi AVC < P < ATC .
Hãng đóng cửa sản xuất khi P < AVC.
Ngoài ra chúng ta có thể thấy rõ hơn thông qua đồ thị chứng minh như sau:
a. Xét giá thị trường P0 > ATC
Khi giá thị trường P0 > ATC ta xác định được mức sản lượng trên thị trường Q*. Doanh
thu của hãng độc quyền là: TR P Q* SOP EQ*
0
Tổng chi phí của hãng là TC ATC Q* SOABQ* .
Lợi nhuận sẽ là: TR TC SOP EQ* SOABQ* SABEP0 > 0
0
Vậy lợi nhuận mà hãng thu được khi giá thị trường P0 > ATC là dương hay hãng kinh
doanh có lãi.
C
MC
E
P0
Hãng có lãi
LN
B
A
MR
0
AC
ATC
Q*
P
Q
Hình 6.4. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P > ATC
ECO101_Bai6_v2.301416226
181
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
b. Xét giá thị trường P0 = ATC
Khi giá thị trường P0 = ATC ta xác định được mức sản lượng trên thị trường là Q*.
Doanh thu của hãng độc quyền là: TR P Q* SOP EQ* .
0
Tổng chi phí của hãng là: TC ATC Q SOP EQ* .
*
0
= TR – TC = 0
lợi nhuận mà hãng thu được bằng 0 hay hãng hòa vốn.
Điểm E là điểm hòa vốn với mức giá thị trường P0 = ATC
Phòa vốn = ATC
Vậy hãng hòa vốn khi mức giá thị trường P0 = ATC
C
MC
Hãng hòa vốn
AC
ATC
P0
E
P
MR
0
Q*
Q
Hình 6.5. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P = ATC
c. Xét giá thị trường AVC < P0 < ATC
Khi giá thị trường AVC < P0 < ATC ta xác định được mức sản lượng trên thị trường là
Q*. Doanh thu của hãng độc quyền là: TR = PxQ* = SOP EQ*
0
*
Tổng chi phí của hãng là TC = ATC x Q = SOABQ*
= TR – TC = SOP EQ* SOABQ* SABEP0 < 0
0
Vậy khi giá thị trường AVC < P0 < ATC thì hãng bị lỗ.
Khi bị lỗ hãng có tiếp tục sản xuất?
So sánh phần thua lỗ và chi phí cố định:
Chi phí biến đổi tại mức sản lượng Q*: TVC AVC Q* NQ* Q* SOMNQ*
Chi phí cố định là:
TFC TC TVC SABNM
Nếu hãng sản xuất thì hãng lỗ SABEP0. Nếu ngừng sản xuất hãng bị thua lỗ bằng chi phí
cố định là SABNM SABEP0. Do đó, hãng vẫn tiếp tục sản xuất để tối thiểu hóa lỗ. Doanh
thu khi sản xuất tại mức sản lượng Q* bằng SOP EQ* bù đắp được cho toàn bộ chi phí biến
0
đổi và một phần chi phí cố định.
182
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Do đó, hãng sẽ tiếp tục sản xuất để mức lỗ là nhỏ nhất và hãng chỉ bị thua lỗ một phần
chi phí cố định. Trong trường hợp này, hãng tối đa hóa lợi nhuận hàm ý phải tối thiểu
hóa thua lỗ.
C
Tối thiểu
lỗ
MC
ATC
AC
B
A
P0
E
M
N
AVC
MR
0
Q*
P
Q
Q*
Hình 6.6. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp AVC < P0 < ATC
d. Xét giá thị trường P ≤ AVC
Giả sử giá thị trường P0 = AVC. Doanh thu của hãng độc quyền là:
TR = P x Q* = SOP EQ* .
0
Tổng chi phí của hãng là TC = ATC x Q* = SOABQ* .
= TR – TC = SOP EQ* SOABQ* SABEP0 < 0.
0
Hãng bị lỗ phần diện tích SABEP0 .
So sánh phần thua lỗ với chi phí cố định:
Chi phí biến đổi tại mức sản lượng Q*: TVC AVC Q* EQ* Q* SOP EQ* .
0
Chi phí cố định: TFC TC TVC SABEP0 = phần thua lỗ nếu hãng tiếp tục sản
xuất. Vì thế, hãng lỗ toàn bộ chi phí cố định.
C
A
MC
B
AC
ATC
FC
AVC
P0
E
Điểm đóng cửa
MR
0
Q*
P
Q
Hình 6.7. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P0 = AVC
Giả sử lúc này giá thị trường giảm xuống P0 < AVC thì hãng không chỉ lỗ toàn bộ chi
phí cố định mà còn mất một phần chi phí biến đổi.
ECO101_Bai6_v2.301416226
183
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
bắt đầu từ P0 AVC thì hãng bắt đầu tính đến việc đóng cửa
E là điểm đóng cửa của hãng.
Sở dĩ gọi E là điểm đóng cửa vì nếu giá nhỏ hơn mức giá ở E hay P < AVC, khi đó hãng
không chỉ bị lỗ hết chi phí cố định mà một phần của chi phí biến đổi.
C
MC
B
A
FC
AC
ATC
AVC
P0
E
1 phần AVC
MR
0
P
Q*
Q
Hình 6.8. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P0 < AVC
Vậy hãng độc quyền bán thuần túy thu được lợi nhuận dương khi P > ATC; hãng thu
được lợi nhuận kinh tế bằng 0 khi P = ATC; hãng bị thua lỗ nhưng vẫn tiếp tục sản xuất
khi AVC < P < ATC; và hãng ngừng sản xuất khi P AVC. Quyết định mức sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận của hãng sẽ thỏa mãn điều kiện MC = MR và P > AVC.
Một câu hỏi đặt ra, với hãng CTHH đường cung của hãng là đường MC tính từ điểm
đóng cửa đi lên. Đường cung của hãng độc quyền có như vậy không? Hãng độc quyền
bán thuần túy không có đường cung do mọi sự lựa chọn sản lượng tối ưu đều dựa
trên đường cầu, tuân theo luật cầu.
6.2.3. Quy tắc định giá
Chúng ta biết rằng giá và sản lượng phải được lựa
chọn sao cho doanh thu biên bằng với chi phí biên,
nhưng làm thế nào để người quản lý hãng xác định
được mức giá và sản lượng trong thực tế. Để hiểu
được vấn đề trên thì chúng ta đi phân tích điều kiện tối
đa hóa lợi nhuận của hãng.
Hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận tại mức sản
lượng mà tại đó:
MR = MC
Chúng ta chứng minh được
MR P(1
Ta có P MC P (P
184
Độc quyền xăng dầu
1
1
MC
) MC P(1 D ) P
D
1
EP
EP
1 D
EP
P
P
P MC
1
) D 0
P
D
EP
EP
P
ED
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Như vậy, hãng độc quyền luôn đặt giá lớn hơn chi phí cận biên.
Để đo lượng sức mạnh độc quyền, ta xem xét mức chênh lệch giữa giá bán và chi phí
cận biên. Sức mạnh độc quyền bán là khả năng định giá cao hơn chi phí cận biên. Sự
khác nhau cơ bản giữa hãng cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền là doanh
nghiệp độc quyền có sức mạnh thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận thì hãng cạnh tranh
hoàn hảo đặt giá bằng chi phí cận biên, còn doanh nghiệp độc quyền bán lại đặt giá cao
hơn chi phí cận biên (P > MC).
Sức mạnh độc quyền được nhà kinh tế Abba Lerner đưa vào năm 1934 và được gọi là
chỉ số Lerner:
P MC
P
(0 L 1)
L
Chỉ số Lerner này luôn có giá trị giữa 0 và 1. Chỉ số L cho biết giá càng cao hơn chi phí
cận biên thì chỉ số L càng lớn và khi đó sức mạnh độc quyền sẽ càng lớn hơn. Hãng sẽ
không có sức mạnh độc quyền khi L = 0 và P = MC, trường hợp này xẩy ra khi hãng là
cạnh tranh hoàn hảo.
Vì
P MC
1
1
D => L D
EP
P
EP
E DP là độ co dãn của đường cầu đối với hãng mà không phải của đường cầu thị trường.
Từ công thức trên cho ta thấy khi cầu càng co dãn thì sức mạnh độc quyền càng nhỏ, khi
cầu càng ít co dãn thì sức mạnh độc quyền sẽ càng lớn.
Từ công thức trên ta so sánh hai trường hợp cầu kém co dãn và cầu co dãn nhiều. Từ hai
đồ thị dưới đây ta thấy, khi cầu co dãn ít (đường cầu dốc hơn) thì khoảng cách giữa P và
MC là lớn và khi có dãn nhiều (đường cầu thoải hơn) khoảng cách này là nhỏ.
6.3.
Lựa chọn lợi nhuận tối đa của hãng độc quyền bán trong dài hạn
Giả định rằng, trong dài hạn, các hàng rào ngăn cản gia nhập thị trường đều có hiệu lực
và hãng độc quyền thuần túy vẫn giữ được thế độc quyền bán của mình.
Trong dài hạn, hãng độc quyền bán thuần túy tối đa hóa lợi nhuận ở mức sản lượng mà
tại đó:
MR = LMC
Tương tự như trong ngắn hạn, quyết định dài hạn của hãng độc quyền bán sẽ sản xuất
nếu P LAC và rời khỏi ngành nếu P < LAC.
Trong dài hạn, hãng độc quyền sẽ điều chỉnh quy mô về mức tối ưu. Có nghĩa trong dài
hạn hãng có điều kiện để lựa chọn quy mô nào phù hợp nhất để có thể tối đa hóa lợi
nhuận và tối thiểu hóa chi phí.
Chúng ta cũng đã chứng minh được quy mô tối ưu là quy mô mà tại đó đường ATC tiếp
xúc với đường LAC tại mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận.
Lưu ý: Điều kiện tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn của hãng độc quyền bán trên chúng
ta đã giả định rằng trong dài hạn vẫn chỉ tồn tại một mình nó. Vì trên thực tế, trong dài
hạn thì không chỉ có một hãng độc quyền vì quốc gia nào trên thế giới đều có luật cạnh
trạnh tranh (chống độc quyền).
ECO101_Bai6_v2.301416226
185
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
C,P,R
LMC
P0
H
A
AC
ATC
LAC
LNDH
B
E2
MC
0
Q*
MR
P
Q2
Q2
Q
Hình 6.9. Lựa chọn lợi nhuận của hãng độc quyền bán trong dài hạn
Do đó, trong dài hạn, khi có lợi nhuận kinh tế dương sẽ có thêm 1 hoặc 2 hãng hoặc
nhiều hãng tham gia nên độc quyền bán bị phá vỡ. Vì có nhiều hãng tham gia vào thị
trường nên cung sản phẩm tăng lên, làm cho giá sản phẩm giảm xuống. Giá giảm cho
đến khi giá P = LAC và MR = LMC và lợi nhuận bằng 0.
Trong dài hạn thì tổng chi phí cố định được khấu hao hết, do đó, khi LAC nằm bên phía
trên đường cầu hay P < LAC thì hãng sẽ đóng cửa.
Ở phần trên chúng ta đã nghiên cứu tập trung vào phía người bán trên thị trường độc
quyền. Chúng ta sẽ đi nghiên cứu tiếp đến phía người mua.
6.4.
Độc quyền mua thuần túy
6.4.1. Các đặc trưng của độc quyền mua thuần túy
Khái niệm độc quyền thường dùng để chỉ độc quyền bán nhưng tương tự như độc quyền
bán cũng có độc quyền mua – một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn tại một người
mua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong trường hợp độc quyền
mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua sản phẩm từ những
người bán. Doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong
trường hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao hơn và
mua yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh.
Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền mua vì nó
sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một vài yếu tố đầu
vào của nó có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào không duy nhất thì
doanh nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh giá các yếu tố đầu vào nếu
nó có quy mô lớn. Thị trường độc quyền mua là thị trường chỉ có một người mua duy
nhất một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó. Trên thị trường độc quyền mua, sức mạnh thị
trường thuộc về người mua. Nhu cầu của doanh nghiệp chính là nhu cầu của thị trường.
6.4.2. Lựa chọn sản lượng của hãng độc quyền mua thuần túy
Trong độc quyền mua hãng là người mua duy nhất đứng trước đường cung của thị
trường. Đường cung này phản ánh các mức giá mà người bán sẵn sàng bán ở các mức
sản lượng khác nhau, là hàm số của mức giá mà người tiêu dùng trả. Vì vậy, đường cung
của thị trường là đường chi tiêu bình quân (S = AE).
186
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
Chi tiêu cận biên (ME): là mức thay đổi của tổng chi tiêu do thay đổi một đơn vị sản
lượng hàng hóa được mua.
Đường chi tiêu cận biên:
Ta có: ME
TE
Q
Trong đó TE là tổng mức chi tiêu của người mua (được xác định bằng giá nhân với
lượng: TE = P x Q).
Q là sự thay đổi của sản lượng hàng hóa được mua.
Từ công thức trên ta có:
ME
TE (P Q) P Q P
P Q(P / Q)
Q
Q
Q
Vì (P / Q) luôn dương nên ME là một số dương và luôn lớn hơn giá bán.
Vậy đường ME nằm phía bên trên đường cung.
Do chỉ có một người mua duy nhất nên đường cầu của nhà độc quyền mua chính là
đường tổng giá trị đối với người mua khi mua hàng. Hay đường cầu trùng với đường giá
trị cận biên của doanh nghiệp D = MV. Cũng giống như người tiêu dùng, nhà độc quyền
mua sẽ mua số lượng hàng hóa, dịch vụ cho đến khi đơn vị sản lượng đem lại giá trị cận
biên bằng với chi tiêu cận biên để trả cho đơn vị mua cuối cùng, tức là MV = ME.
Ta có giá trị ròng của việc mua hàng được xác định theo công thức:
NB = TV – TE
Trong đó: TV là tổng giá trị thu được đối với người mua, TE là tổng chi tiêu
Lợi ích ròng được tối đa hóa lợi nhuận khi
NB’Q = 0 NB’Q = (TV – TE)’ = MV – ME = 0 MV = ME
P
ME
S=AE
P
PC
P*
D=MV
O
Q*
QC
Q
Hình 6.10. Lựa chọn sản lượng tối ưu của hãng độc quyền mua
Trên đồ thị ta biểu diễn lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp độc quyền mua tại:
ME = MV. Với mức sản lượng là Q* và mức giá phải trả là P*.
ECO101_Bai6_v2.301416226
187
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Một độc quyền tồn tại nếu một hãng đơn lẻ sản xuất và bán một loại hàng hóa hay dịch vụ mà
không có hàng hóa hay dịch vụ nào thay thế và các hãng mới bị ngăn cản gia nhập thị trường
trong dài hạn.
Sức mạnh thị trường là khả năng của một hãng có thể tăng giá mà không mất toàn bộ doanh thu.
Bất kỳ hãng nào đối mặt với đường cầu dốc xuống đều có sức mạnh thị trường. Sức mạnh thị
trường giúp hãng có khả năng tăng giá lên trên chi phí bình quân và thu được lợi nhuận kinh tế.
Trong dài hạn, hãng với sức mạnh thị trường có thể thu lợi nhuận kinh tế bởi sự gia nhập của các
hãng mới là khó khăn. Để trở thành một hãng độc quyền thực sự, phải tồn tại những rào cản ngăn
cản các hãng đối thủ gia nhập thị trường và lấy đi lợi nhuận kinh tế của hãng độc quyền. Các rào
cản gia nhập bao gồm tính kinh tế nhờ quy mô, các rào cản do Chính phủ tạo ra, kiểm soát các
đầu vào, rào cản do sự trung thành của khách hàng, hạn chế khả năng chuyển đổi và hiệu ứng
mạng lưới.
Hệ số Lerner, (P – MC)/P, đo lường tỷ phần so với giá mà giá cả vượt quá chi phí cận biên (tức
là mức giá cạnh tranh). Hệ số Lerner càng lớn, sức mạnh thị trường càng lớn.
Trong ngắn hạn, nhà quản lý của một hãng có sức mạnh thị trường tối đa hóa lợi nhuận bằng
cách sản xuất và bán mức sản lượng thỏa mãn MR = SMC chừng nào mà P ≥ AVC. Nếu P <
AVC ở mọi mức sản lượng, nhà quản lý nên đóng cửa trong ngắn hạn. Trong dài hạn, nhà quản
lý nên sản xuất mức sản lượng thỏa mãn MR = LMC và điều chỉnh quy mô nhà máy sao cho quy
mô sản xuất là tối ưu để sản xuất mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận. Quy mô nhà máy tối ưu là
quy mô mà đường chi phí bình quân ngắn hạn tiếp xúc với đường chi phí bình quân dài hạn tại
mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận. Nếu P < LAC với mọi mức sản lượng, hãng độc quyền nên
rời khỏi ngành.
Trong trường hợp độc quyền mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua
sản phẩm từ những người bán. Thị trường độc quyền mua là thị trường chỉ có một người mua
duy nhất một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó. Trên thị trường độc quyền mua, sức mạnh thị trường
thuộc về người mua. Nhu cầu của doanh nghiệp chính là nhu cầu của thị trường.
188
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích và lấy một ví dụ minh họa về một hãng độc quyền bán thuần túy và chỉ rõ cách
thức mà hãng này lựa chọn sản lượng và lợi nhuận trong ngắn hạn và dài hạn.
2. Phân tích và lấy một ví dụ minh họa về một hãng độc quyền mua thuần túy và chỉ rõ cách
thức mà hãng này lựa chọn sản lượng và lợi nhuận trong ngắn hạn.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích khái niệm của độc quyền thuần túy, các đặc trưng của độc quyền thuần túy và
các nguyên nhân dẫn đến độc quyền. Tại sao hãng độc quyền được coi là hãng có sức mạnh
thị trường?
2. Phân tích sự lựa chọn giá bán và mức sản lượng tối ưu để tối đa hóa lợi nhuận của hãng độc
quyền thuần túy trong ngắn hạn và trong dài hạn.
3. Xây dựng một mô hình của một hãng độc quyền thuần túy để chỉ ra việc hãng này sẽ lựa
chọn mức sản lượng và mức giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn.
4. Xây dựng một mô hình của một hãng độc quyền thuần túy để chỉ ra việc hãng này sẽ lựa
chọn mức sản lượng và mức giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn.
5. Phân tích hệ số Lerner phản ánh mức độ độc quyền của một hãng độc quyền thuần túy.
6. Giải thích tại sao hãng độc quyền bán thuần túy muốn tối đa hóa lợi nhuận sẽ luôn sản xuất
và bán ở miền cầu co dãn. Nếu chi phí bằng 0, nhà quản lý sẽ sản xuất mức đầu ra là bao
nhiêu? Giải thích.
7. Độc quyền mua thuần túy là gì? Hãy phân tích cách thức hãng độc quyền mua lựa chọn mức
sản lượng tối ưu. Chỉ ra tổn thất phúc lợi do loại hình độc quyền này gây ra cho xã hội.
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Hãng độc quyền luôn đặt giá cho sản phẩm của mình tại miền cầu co dãn.
2. Khi hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận, mức giá bán của hãng luôn lớn hơn chi phí cận biên.
3. Hãng độc quyền bán không có đường cung.
4. Một hãng độc quyền đang sản xuất ở mức sản lượng mà tại đó giá bằng $80, doanh thu
cận biên bằng $40, tổng chi phí bình quân bằng $100, chi phí cận biên bằng $40 và chi phí
cố định bình quân bằng $10. Để tối đa hóa lợi nhuận hãng cần phải giảm sản lượng và tăng
giá bán.
5. Đường cầu của thị trường cạnh tranh hoàn hảo là một đường cầu nằm ngang, trong khi
đường cầu của thị trường độc quyền là một đường có độ dốc âm.
6. Hãng độc quyền là hãng “đặt giá”, trong khi hãng cạnh tranh hoàn hảo là hãng “chấp nhận giá”.
7. Nếu một hãng độc quyền đang sản xuất ở mức sản lượng có P < AVC, hãng vẫn nên tiếp tục
sản xuất trong ngắn hạn.
8. Hãng độc quyền là hãng “đặt giá”, do vậy hãng có thể đặt bất cứ mức giá nào mà hãng muốn.
ECO101_Bai6_v2.301416226
189
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
9. Thị trường độc quyền luôn đặt giá cao hơn và cung ứng ít sản lượng hơn so với cạnh tranh
hoàn hảo.
10. Khi sản xuất ở mức sản lượng thỏa mãn điều kiện MR = MC, hãng độc quyền sẽ luôn tối đa
hóa lợi nhuận.
11. Khi chi phí cố định thay đổi, để tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn, hãng độc quyền vẫn giữ
nguyên mức sản lượng tối ưu như trước.
12. Hãng độc quyền có thể được hình thành khi hãng đó là hãng duy nhất có được nguồn cung
của yếu tố đầu vào cơ bản trong quá trình sản xuất.
13. Hãng độc quyền sẽ tối đa hóa doanh thu khi lựa chọn mức sản lượng tại miền cầu co dãn.
14. Sức mạnh độc quyền mua có thể làm cho những người bán hàng trên thị trường này thu được
mức giá cao hơn so với thị trường CTHH.
15. Trên thị trường độc quyền mua, đường chi tiêu cận biên nằm trên đường cung thị trường.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Khi các nhà kinh tế thúc giục Chính phủ loại bỏ độc quyền bán, họ làm thế chủ yếu nhằm
mục đích
A. ngăn chặn sự tăng trưởng của doanh nghiệp lớn.
B. mở rộng những dịch vụ công cộng có tính kinh tế của quy mô.
C. ngăn chặn không cho giảm số các hãng nhỏ.
D. bảo vệ cạnh tranh trong nền kinh tế.
2. Lời phát biểu nào sau đây là đúng?
A. Đường cung độc quyền là phần của đường chi phí cận biên nằm trên mức chi phí biến đổi
trung bình tối thiểu.
B. Đường cung độc quyền là kết quả của mối quan hệ một – một giữa giá và lượng.
C. Hãng độc quyền không có đường cung vì lượng cung ở một mức giá cụ thể phụ thuộc vào
đường cầu về sản phẩm của hãng độc quyền đó.
D. Nhà độc quyền không có đường cung vì đường chi phí cận biên (của nhà độc quyền) thay
đổi đáng kể theo thời gian.
3. Nếu một hãng cung ứng toàn bộ thị trường thì cấu trúc của thị trường thuộc dạng nào?
A. Cạnh tranh hoàn hảo.
B. Độc quyền nhóm.
C. Độc quyền thuần túy.
D. Cạnh tranh độc quyền.
4. So với hãng cạnh tranh hoàn hảo, nhận định nào là đúng về hãng độc quyền bán thuần túy?
A. Đặt giá cao hơn.
B. Bán nhiều sản lượng hơn.
C. Bán ít sản lượng hơn.
D. Đặt giá cao hơn và bán ít sản lượng hơn.
5. Tính kinh tế của quy mô (còn gọi hiệu suất quy mô) đề cập đến vấn đề nào?
A. Khi sản lượng tăng chi phí trung bình trong dài hạn giảm.
B. Đặt các giá khác nhau cho các khách hàng khác nhau.
190
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
C. Một yếu tố nào đó dựng lên các rào cản gia nhập đối với các đối thủ cạnh tranh mới.
D. Khi sản xuất ra các sản phẩm khác nhau bằng cùng một nhà máy và máy móc thiết bị thì
chi phí trung bình thấp hơn.
6. Nếu hãng độc quyền muốn tối đa hóa lợi nhuận thì hãng phải làm điều gì?
A. Tối đa hóa doanh thu.
B. Tối đa hóa lợi nhuận tính theo đơn vị sản phẩm.
C. Chọn mức sản lượng nào có chi phí trung bình ở mức tối thiểu.
D. Lựa chọn sản lượng tối ưu thỏa mãn MR = MC.
7. Một hãng độc quyền có thể quyết định mức giá phân biệt cho các thị trường khác nhau khi
A. những khách hàng dễ dàng chuyển giữa các thị trường này.
B. co dãn của cầu theo giá là khác nhau ở các thị trường.
C. chi phí biên là không đổi.
D. số khách hàng trong các thị trường là gần như nhau.
8. Hãng độc quyền là hãng
A. chấp nhận giá.
B. đặt mức giá và sản lượng ở bất kỳ mức nào nó muốn.
C. phải tính đến chiến lược của những đối thủ cạnh tranh tiềm năng.
D. có doanh thu cận biên thấp hơn mức giá bán.
9. Hệ số Lerner cho biết điều gì?
A. Sức mạnh độc quyền của hãng độc quyền bán thuần túy.
B. Sự chênh lệch giữa giá và chi phí cận biên.
C. Độ co dãn của cầu theo giá.
D. Mức giá của sản phẩm.
10. Một hãng độc quyền thuần tuý sản xuất ra một sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần và
rào cản gia nhập ngành là
A. không đáng kể.
B. không có.
C. đáng kể.
D. chưa chính xác.
11. Một hãng độc quyền sản xuất ở mức doanh thu cận biên vượt quá chi phí biên, nhận định nào
sau đây là đúng?
A. Hãng này có thể tăng lợi nhuận bằng cách tăng sản lượng.
B. Hãng này có thể tăng lợi nhuận bằng cách giảm sản lượng.
C. Hãng này đang tạo ra lợi nhuận kinh tế.
D. Hãng này đang kiếm được lợi nhuận kinh tế âm (thua lỗ).
12. Trong thị trường độc quyền, nhận định nào là đúng?
A. Đường cầu của thị trường ở bên trên và song song với đường chi phí biên.
B. Việc tăng giá không dẫn đến một sự suy giảm trong số lượng cầu.
C. Đường doanh thu cận biên dốc xuống.
D. Không xác định được hình dạng của đường cầu.
ECO101_Bai6_v2.301416226
191
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
13. Hãng Y là độc quyền, hãng này đang bán hàng ở mức giá 4 triệu USD. Chi phí biên là 3 triệu
USD và độ co dãn theo giá của cầu là –0,6. Để tối đa hóa lợi nhuận, hãng nên______
A.
B.
C.
D.
tối đa hoá lợi nhuận.
phải tăng sản lượng.
phải giảm sản lượng.
phải giảm giá.
14. Các rào cản gia nhập một ngành độc quyền
A.
B.
C.
D.
là các yếu tố kỹ thuật ngăn cản các hãng mới gia nhập ngành.
cho phép các hãng đang ở trong ngành tiếp tục thu được lợi nhuận kinh tế.
hàm ý rằng doanh thu cận biên lớn hơn chi phí cận biên.
là các yếu tố kỹ thuật ngăn cản các hãng mới gia nhập ngành và hàm ý rằng doanh thu
cận biên lớn hơn chi phí cận biên.
15. Một hãng độc quyền sản xuất trong ngắn hạn có hàm cầu P = 30 – 0,2Q và hàm chi phí cận
biên MC = 6 + 0,6Q. Mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận của hãng là
A. 24
B. 34
C. 44
D. 54
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài số 1:
Một hãng có đường cầu sản phẩm là P = 80 – Q. Hãng có chi phí bình quân không đổi bằng 20 ở mọi
mức sản lượng.
a. Cho biết chi phí cố định của hãng là bao nhiêu?
b. Tìm mức giá và mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận của hãng.
c. Hãng sẽ lựa chọn bán sản phẩm ở mức giá nào nếu theo đuổi mục tiêu tối đa hóa doanh thu?
d. Xác định lợi nhuận tối đa của hãng độc quyền.
Trả lời:
a. Đề bài cho chi phí bình quân không đổi bằng 20 ở mọi mức sản lượng. Có nghĩa là chi phí
bình quân (ATC) luôn bằng 20 ở mọi mức sản lượng.
ATC = 20 do đó TC = ATC × Q = 20Q
Toàn bộ chi phí đều phụ thuộc vào mức sản lượng hay nói cách khác đều là chi phí biến đổi.
Trong chi phí này không có chi phí cố định.
Do đó, chi phí cố định của hãng (TFC) = 0.
b. Xác định mức giá và mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận: Đây không phải là hãng CTHH nên
điều kiện tối đa hóa lợi nhuận phải áp dụng là điều kiện: MR = MC.
MR = 80 – 2Q = MC = 20, hay Q* = 30; P* = 80 – 30 = 50.
c. Áp dụng điều kiện tối đa hóa doanh thu MR = 0. Đáp số: P = 40.
d. Lợi nhuận tối đa của hãng = TR – TC = 30 x 50 – 20 x 30 = 900.
Bài số 2:
Một hãng độc quyền có hàm cầu sản phẩm là: Q = 120 – 10P
a. Nếu hãng bán sản phẩm với mức giá là P = 5 thì doanh thu của hãng là bao nhiêu?
b. Giả sử hãng đang bán với mức giá P = 6. Nếu hãng muốn tăng lợi nhuận, hãng phải tăng hay
giảm giá? (Cho ATC = 4).
192
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
c. Nếu hãng đang bán với mức giá P = 12. Hãng dự định giảm giá để tăng doanh thu. Quyết
định của hãng có đúng không? Tại sao?
Trả lời:
a. Đáp số: Q = 70 → TR = P × Q = 5 × 70 = 350
b. Để biết được hãng cần tăng hay giảm giá để có thể tăng được lợi nhuận, cách làm đơn giản
nhất là tìm ra được mức giá tối đa hóa lợi nhuận, so sánh mức giá tối đa hóa lợi nhuận với
mức giá của đầu bài để rút ra kết luận). Áp dụng điều kiện tối đa hóa lợi nhuận MR = MC.
Ta có MR = 18 – 0,2Q và MC = 4 → Q* = 70, thay vào phương trình hàm cầu → P = 11.
Hãng đang bán với mức giá P = 6, trong khi đó mức giá tối đa hóa lợi nhuận là P = 11,
như vậy để tăng lợi nhuận hãng cần phải tăng giá (nhưng chỉ tăng cho đến khi P = 11 thì
dừng lại).
c. Để biết hãng cần tăng hay giảm giá để tăng được doanh thu, cần tìm ra mức giá tối đa hóa
doanh thu). Áp dụng điều kiện tối đa hóa doanh thu MR = 0 → P = 9. Mức giá làm doanh thu
tối đa là P = 9. Hãng đang bán với mức giá P = 15, như vậy để tăng doanh thu hãng cần phải
giảm giá bán, và giảm cho đến khi P = 9. Như vậy quyết định giảm giá của hãng là ĐÚNG,
nhưng chỉ giảm cho đến khi P = 9 thì dừng.
Bài số 3:
Một hãng độc quyền có hàm cầu sản phẩm là P = 200 – 0,001Q và hàm tổng chi phí là
TC = 0,001Q2 + 100Q. (đơn vị tính của Q là sản phẩm và tiền tính theo USD)
a. Nếu hãng muốn tối đa hóa lợi nhuận thì lợi nhuận tối đa đó bằng bao nhiêu?
b. Nếu hãng muốn tối đa hóa doanh thu thì hãng sẽ lựa chọn mức giá và mức sản lượng nào?
Khi đó, lợi nhuận của hãng bằng bao nhiêu? So sánh với mức lợi nhuận ở câu (a) và cho
nhận xét.
c. Giả sử Chính phủ đánh thuế 15 USD/sản phẩm bán ra, hãy so sánh mức sản lượng và lợi
nhuận trong trường hợp này với trường hợp đầu. Tính tổng số thuế mà Chính phủ thu được.
Trả lời:
a. Áp dụng điều kiện MR = MC, ta có: Q* = 25.000, P = 175; πmax = 4.375.000 – 3.125.000 =
1.250.000 (USD)
b. Tối đa hóa doanh thu P = 100 USD, Q = 100.000;
π = 10.000.000 – 20.000.000 = –10.000.000 (USD)
Kết quả hai câu (a) và (b) khác nhau. Điều này có nghĩa là: Tối đa hóa doanh thu không đồng
nghĩa với tối đa hóa lợi nhuận. Khi hãng có doanh thu tối đa thì hãng không thể đạt lợi nhuận
tối đa. Vì hai điều kiện khác nhau, điều kiện để tối đa hóa lợi nhuận là MR = MC, còn điều
kiện tối đa hóa doanh thu là MR = 0.
c. Khi Chính phủ đánh thuế, Q*mới = 21.250 và π = 3.798.437,5 – 2.895.312,5 = 903.125
(USD). So với trước khi bị đánh thuế sản lượng giảm 3.750 và lợi nhuận giảm 346.875
(USD). Tổng số thuế mà Chính phủ thu được T = 15 × 21.250 = 318.750 (USD).
Bài 4:
Một hãng sản xuất trong ngắn hạn có hàm cầu ngược là P = 120 – 2Q và hàm tổng chi phí là
TC = 2Q2 + 4Q + 16.
a. Viết phương trình các hàm chi phí AVC, ATC, AFC, TVC, TFC và MC.
ECO101_Bai6_v2.301416226
193
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
b.
c.
d.
e.
Xác định doanh thu tối đa của hãng. Tính độ co dãn của cầu theo giá tại mức giá này.
Xác định lợi nhuận tối đa của hãng. Tính độ co dãn của cầu theo giá tại mức giá này.
“Khi doanh thu tối đa, hãng sẽ có lợi nhuận tối đa”, câu nói này đúng hay sai? Vì sao?
Giả sử Chính phủ đánh một mức thuế t = 2 trên mỗi đơn vị sản phẩm bán ra, khi đó lợi nhuận
tối đa của hãng là bao nhiêu?
Trả lời:
a. Viết phương trình các hàm chi phí AVC, ATC, AFC, TVC, TFC và MC
TC 2Q 2 4Q 16
TFC 16
MC 4Q 4
AVC 2Q 4
AFC
16
Q
TVC 2Q 2 4Q
ATC 2Q 4
16
Q
b. Xác định doanh thu tối đa của hãng.
Hàm cầu ngược P = 120 – 2Q, khi đó
TR P Q 120 2Q Q 120Q 2Q 2
TR 120 4Q MR
TR O 120 4Q 0 Q 30; P 60
TR MAX 30.60 1800
c. Điều kiện cần và đủ để tối đa hoá lợi nhuận là
MR SMC 120 4Q 4Q 4 Q 14,5; P 91
MAX TR TC 825
d. Khi doanh thu tối đa hãng nhân được lợi nhuận tối đa là sai vì
1
TR MAX MR O
2
Điều kiện lợi nhuận tối đa MR = MC
Từ 1 và 2 ta được MC = 0 vô lí
e. Khi Chính phủ đánh thuế t = 2/sp bán ra khi đó
TC t TC tQ 2Q 2 6Q 16
MC t MC t 4Q 6
Điều kiện tối đa hoá lợi nhuận của hãng độc quyền là
MR SMC 120 4Q 4Q 6 Q
MAX
194
57
183
;P
4
2
2
57 183
57 183 57
57
2
TR TC
(2Q 6Q 16)
2 6 16 .
4 2
4 2
4
4
ECO101_Bai6_v2.3014106226
Bài 6: Thị trường độc quyền thuần túy
ĐÁP ÁN CÁC PHẦN CỦA BÀI 6
1. Đáp án phần Câu hỏi đúng hay sai
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Đ
Đ
Đ
S
S
Đ
S
S
Xem thêm: Cách tính điểm Đại học Văn hóa Hà Nội
Đ
S
Đ
Đ
S
S
Đ
2. Đáp án phần Lựa chọn câu trả lời đúng nhất
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
D
C
C
D
A
D
B
D
A
C
A
C
C
A
A
ECO101_Bai6_v2.301416226
195
những nguyên do hình thành độc quyền. Phân tích được điều kiện kèm theo tối đa hóa lợinhuận và năng lực sinh lợi của hãng độcquyền bán thuần túy trong cả thời gian ngắn vàdài hạn. Phân tích được quy tắc định giá của nhàđộc quyền ( quy tắc ngón tay cái ) Phân tích được những đặc trưng và khả năngsinh lợi của hãng độc quyền mua. Hướng dẫn họcĐọc giáo trình và tài liệu liên quantrước lúc nghe giảng và thực hành thực tế. Sử dụng tốt những giải pháp và côngcụ trong toán học ( gồm có kiến thứcđại số và hình học lớp 12 ) để phân tíchvà nghiên cứu và điều tra bài học kinh nghiệm. Thực hành tiếp tục và liên tục cácbài tập vận dụng để hiểu được lý thuyếtvà bài tập thực hành thực tế. Thời lượng học8 tiết học : 5 tiết kim chỉ nan và 3 tiết bàn luận. ECO101_Bai6_v2. 301416226171B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyTừ nhiều năm nay, hầu hết những thương hiệu cafe nổi tiếng đều được bán tại những quầy tạp hóavới Chi tiêu không độc lạ nhiều so với giá thành của những loại cafe thường thì khác. Thậm chí, với ngân sách quảng cáo khổng lồ của hãng sản xuất cafe có thương hiệu “ Folgers and MaxwellHouse ”, đơn vị sản xuất cũng thất bại trong việc tạo nên thương hiệu cafe lôi cuốn được nhiều kháchhàng trung thành với chủ trong số những người uống cafe. Người mua xem cafe như một hàng hóađược tiêu chuẩn hóa, với rất ít sự độc lạ giữa những loại sản phẩm cafe, người bán tự nhận thứcđược họ là những người đồng ý giá, và những nhà đầu tư thấy rất ít triển vọng dành được lợinhuận trong dài hạn so với việc kinh doanh bán lẻ cafe. Tuy nhiên, những điều này đã đổi khác khiStarbuck đã thành công xuất sắc trong việc tạo ra cho cafe mùi vị mới. Không chỉ những cửa hàngcà phê Starbuck đó thu được mức doanh thu cao mà nhiều công ty cafe khác cũng đó thu đượclợi nhuận cao rất nhiều khi họ bắt chước mùi vị mới đầy phát minh sáng tạo của Starbuck. Ví dụ, Maxwell House cung ứng những thương hiệu Master Blend, Columbian Supreme, Rich french Roadvà Italian Espresso Roast. Giờ đây, thay vì là những người gật đầu giá, những hãng cung ứng cácnhãn hiệu cafe nổi tiếng có được sức mạnh đáng kể trong việc định giá nhờ thành công xuất sắc khiđầu tư vào việc tạo ra sự độc lạ cho mẫu sản phẩm của mình. Thay vì có đường cầu nằm ngang, trọn vẹn co dãn, những hãng phân phối những thương hiệu cafe khét tiếng giờ đây đương đầu với nhữngđường cầu dốc xuống, những đường cầu đưa lại cho họ sức mạnh thị trường trong việc định giácà phê của họ cao hơn những thương hiệu cafe thường thì. Mục đích của bài này là chỉ ra bằng cách nào những nhà quản trị của những hãng định giá có đườngcầu dốc xuống hoàn toàn có thể xác lập được Chi tiêu, sản lượng và sử dụng nguồn vào nhằm mục đích tối đa hóa lợinhuận của hãng. Cho dù hãng có bao nhiêu sức mạnh thị trường, thì tiềm năng chính của ngườiquản lý là tối đa hóa doanh thu. Phần đầu của bài này miêu tả một vài cách đo lường và thống kê sức mạnh thị trường rõ ràng và đơn cử nhưlà những thuật ngữ chung chung như “ nhiều ” hay “ hạn chế ”. Phần lớn bài này sẽ được dành cholý thuyết về độc quyền. Độc quyền xảy ra trong trường hợp một hãng sản xuất và bán một hànghóa hoặc dịch vụ mà không có sản phẩm & hàng hóa hoặc dịch vụ nào hoàn toàn có thể sửa chữa thay thế gần trong thị trường vàcác hãng khác bị những rào cản ngăn cản gia nhập thị trường ( xem case study 6.1 ). Kết quả là mộthãng độc quyền có nhiều sức mạnh thị trường hơn bất kể một hãng nào khác. Mặc dù có rất íthãng độc quyền thực sự trên thị trường thuần túy và hầu hết những hãng này đều phải tuân thủcác lao lý của nhà nước nhưng nhiều hãng, kể cả hãng lớn và nhỏ đều có được sức mạnh thịtrường đáng kể nếu như sản phẩm & hàng hóa của họ có rất ít sản phẩm & hàng hóa hoàn toàn có thể sửa chữa thay thế gần. Lý thuyết độcquyền phân phối cơ sở để nghiên cứu và phân tích những nhà quản trị của những hãng định giá có sức mạnh thịtrường hoàn toàn có thể đưa ra những quyết định hành động nhằm mục đích tối đa hóa doanh thu như thế nào ( ngoại trừ, như đã đềcập, những hãng độc quyền nhóm sẽ phải phụ thuộc vào nhiều vào quyết định hành động của nhau ). 172ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túy6. 1. Thị trường độc quyền bán6. 1.1. Khái niệmĐộc quyền, trong kinh tế học, là trạng thái thị trườngĐộc quyền : Một hãng sản xuấtchỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản một sản phẩm & hàng hóa mà không cóphẩm không có loại sản phẩm sửa chữa thay thế thân thiện. Trong sản phẩm & hàng hóa nào hoàn toàn có thể thay thếgần trong thị trường mà cáctiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp hãng khác bị những rào cản ngănmonos ( nghĩa là một ) và polein ( nghĩa là bán ). Đây là cản gia nhập. một trong những dạng của thất bại thị trường, làtrường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh đối đầu. Mặc dù trên thực tiễn hầu nhưkhông thể tìm được trường hợp phân phối tuyệt đối hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đóđộc quyền thuần túy hoàn toàn có thể coi là không sống sót nhưng những dạng độc quyền khôngthuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu suất cao của quyền lợi xã hội. Độc quyền được phân loại theonhiều tiêu thức : mức độ độc quyền, nguyên do của độc quyền, cấu trúc của độc quyền. Độc quyền bán là thị trường chỉ có duy nhất một hãng đáp ứng hàng loạt sản lượng củathị trường. Ví dụ : Hãng Microsoft độc quyền trên toàn quốc tế với hệ quản lý và điều hành Windows. Hãng độc quyền có vị trí đặc biệt quan trọng trên thị trường đơn cử nếu nhà độc quyền quyết địnhnâng giá cả mẫu sản phẩm, hãng sẽ không phải lo về việc những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu sẽ đặt giáthấp hơn để chiếm thị phần lớn hơn, làm thiệt hại tới mình. Hãng độc quyền quyết địnhvà trấn áp mức giá, sản lượng đáp ứng. Để hiểu rõ về thị trường độc quyền bán thuầntúy, tất cả chúng ta nghiên cứu và điều tra những đặc trưng của nó. 6.1.2. Các đặc trưng của thị trường độc quyền bán thuần túyThị trường độc quyền bán thuần túy được phân biệt trải qua ba đặc trưng cơ bản sau : Chỉ có một hãng duy nhất đáp ứng hàng loạt loại sản phẩm trên thị trường. Sản phẩm sản phẩm & hàng hóa trên thị trường độc quyềnkhông có sản phẩm & hàng hóa sửa chữa thay thế thân mật. Nếu không cósản phẩm sửa chữa thay thế tương tự như với loại sản phẩm củamình, nhà độc quyền sẽ không quan ngại về việcngười tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng những sảnphẩm thay thế sửa chữa khi nhà độc quyền định giá cao hơn. Sức mạnh thị trường : Khảnăng của những hãng định giá cóthể tăng giá mà không bị mất đitất cả lệch giá. Sức mạnh thịtrường khiến cho đường cầucủa những hãng định giá là mộtđường dốc xuống. Thị trường độc quyền bán thuần túy có rào cản lớnvề việc gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường. Rào cản gia nhập khiến cho hãng độcquyền bán là nhà phân phối và đáp ứng duy nhất trên thị trường. Nếu không có ràocản rút lui khỏi thị trường thì sẽ không có bất kể loại sản phẩm nào mà nhà độc quyền đóđã phân phối cho thị trường. Đường cầu của hãng độc quyền là đường dốc xuống về phía phải, tuân theo luật cầu. 6.1.3. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền bánCó rất nhiều nguyên do dẫn tới độc quyền bán thuần túy, hoàn toàn có thể là những điều kiệnchủ quan ( bản thân ) của hãng và những điều kiện kèm theo khách quan ( bên ngoài ) doanh nghiệp. Nguyên nhân cơ bản của độc quyền là hàng rào gia nhập : Doanh nghiệp độc quyền tiếptục là người bán duy nhất trên thị trường của nó vì những doanh nghiệp khác không thểECO101_Bai6_v2. 301416226173B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túygia nhập thị trường và cạnh tranh đối đầu với nó. Các hàng rào ngăn cản gia nhập đến lượt nó lạiphát sinh từ những nguồn chính sau : Quá trình sản xuất đạt được hiệu suất kinh tế tài chính tăng theo quy mô ( độc quyền tự nhiên ). Một ngành được coi là độc quyền tự nhiên khi mộthãng duy nhất hoàn toàn có thể phân phối một sản phẩm & hàng hóa hoặcdịch vụ cho hàng loạt thị trường với ngân sách thấp hơntrường hợp có hai hoặc nhiều hãng. Khi đó mộthãng lớn cung ứng mẫu sản phẩm là cách sản xuất cóhiệu quả nhất. Điều này hoàn toàn có thể thấy ở những ngànhdịch vụ công cộng như sản xuất và phân phối điệnnăng, cung ứng nước sạch, đường tàu, điện thoại thông minh … Ví dụ : Ngành phân phối nước sạch, để cung cấpĐộc quyền điện thắp sángnước sạch cho dân cư ở một thị xã nào đó, hãngphải kiến thiết xây dựng mạng lưới ống dẫn trong hàng loạt thị xã. Nếu hai hoặc nhiều doanhnghiệp cạnh tranh đối đầu nhau trong việc cung ứng dịch vụ này thì mỗi hãng phải trả mộtkhoản ngân sách cố định và thắt chặt để thiết kế xây dựng mạng lưới ống dẫn. Do đó, tổng ngân sách bình quâncủa nước sẽ thấp nếu chỉ có một hãng duy nhất nào đó ship hàng cho hàng loạt thị trường. Sự trấn áp được yếu tố nguồn vào của quy trình sản xuất. Điều này giúp cho ngườinắm giữ có vị trí gần như độc quyền trên thị trường. Một ví dụ nổi bật là Nam Phiđược chiếm hữu những mỏ kim cương chiếm phần nhiều sản lượng của quốc tế và do đóquốc gia này có vị trí gần như độc quyền trên thị trường kim cương. Bằng ý tưởng sáng tạo : Bằng ý tưởng, sángchế được pháp lý bảo vệ là một trong nhữngnguyên tự tạo ra độc quyền vì luật bảo lãnh bằngsáng chế chỉ cho phép một đơn vị sản xuất sản xuấtmặt hàng vừa được ý tưởng và do vậy họ trởthành nhà độc quyền. Ví dụ : Bill Gate quản trị tậpđoàn Microsoft là người ý tưởng sáng tạo phầnmềm Microsoft Office ( xem case study 6.1 ). Nhờbằng ý tưởng sáng tạo này mà tập đoànHãng độc quyền MicrosoftMicrosoft đã trở thành tập đoàn lớn độc quyền trongviệc cung ứng ứng dụng này ở Mỹ. Những lao lý về bằng ý tưởng, sáng tạo một mặt khuyến khích những phátminh, sáng tạo nhưng mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền hoàn toàn có thể giữ đượcvị trí độc quyền trong thời hạn được giữ bản quyền theo lao lý của lao lý. Các lao lý của nhà nước trong nhiều trường hợp, những doanh nghiệp độc quyềnhình thành do nhà nước trao cho một cá thể hay doanh nghiệp nào đó đặc quyềntrong việc kinh doanh một sản phẩm & hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Nhà nước tạo ra cơ chếđộc quyền nhà nước cho một công ty như trường hợp nhà nước Anh trao độc quyềnbuôn bán với Ấn độ cho công ty Đông Ấn. Ví dụ, nhà nước Mỹ trao độc quyền cho công ty Network Solutions – một tổ chứcquản lý cơ sở tài liệu của tổng thể những địa chỉ Internet :. com ,. net ,. org, vì người ta chorằng những tài liệu như vậy cần được tập trung chuyên sâu hóa và không thiếu. 174ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túy Do chiếm hữu được một nguồn lực lớn : điều này giúpcho người nắm giữ có vị trí gần như toàn vẹn trênthị trường. Một ví dụ nổi bật là Nam Phi đượcsở hữu những mỏ kim cương chiếm phần đông sảnlượng của quốc tế và do đó vương quốc này có vị trígần như đứng đầu trên thị trường kim cương. Sau khi đã biết sự hình thành độc quyền bán trênthị trường, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể liên tục đi phân tíchxem một hãng độc quyền bán ra quyết định hành động nhưthế nào về việc sản xuất bao nhiêu loại sản phẩm vàđịnh giá nào cho nó. Để nghiên cứu và phân tích hành vi độcquyền trong phần này thứ nhất tất cả chúng ta phải đixem xét đường cầu và đường lệch giá cận biên của hãng. Nhãn hiệu độc quyền6. 1.4. Đường cầu và đường lệch giá cận biênTrong nội dung bài 4, tất cả chúng ta đã có sự nghiên cứu và điều tra vềmối quan hệ giữa giá và lệch giá cận biên của mộthãng. Với hãng đồng ý giá là hãng CTHH thìđường cầu và đường lệch giá biên là trùng nhau. Đối với hãng có mức sản lượng bán ra nhờ vào vàomức giá, MR luôn nhỏ hơn P trừ điểm tiên phong. Đường cầu của hãng độc quyền là đường dốc xuốngtuân theo luật cầu. Sức mạnh thị trường : Khảnăng của những hãng định giá cóthể tăng giá mà không bị mất đitất cả lệch giá. Sức mạnh thịtrường khiến cho đường cầucủa những hãng định giá là mộtđường dốc xuống. P, RQ phụ thuộcvào PMRa / ( 2 b ) Hình 6.1. Đường cầu và đường lệch giá cận biên của hãng độc quyền bán Mối quan hệ giữa lệch giá cận biên và độ co dãnKhi xem xét đến đường cầu, tất cả chúng ta cũng có sự điều tra và nghiên cứu về độ co dãn của cầutheo giá, tất cả chúng ta đã thấy được mối quan hệ giữa độ co dãn và lệch giá của hãng, dựa trên cơ sở đó hãng nên quyết định hành động tăng giá hay giảm giá để tối đa hóa lệch giá. Trong đồ thị về mối quan hệ đó tất cả chúng ta có đề cập đến một chỉ tiêu TR ’ là đạo hàmcủa hàm TR hay qua những kỹ năng và kiến thức đã học ở bài sau tất cả chúng ta biết rõ đó là doanhthu cận biên. ECO101_Bai6_v2. 301416226175B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyE DPDP 1 a / 2EDDPP 10 E DPDP 1TR ’ TRĐường cầu Da / ( 2 b ) TRmaxa / ( 2 b ) Hình 6.2. Mối quan hệ giữa thông số co dãn, lệch giá cận biên và tổng doanh thuQua đồ thị hoàn toàn có thể thấy được mối quan hệ giữa độ co dãn của cầu theo giá và doanh thubiên cũng như tổng doanh thu : E DP < – 1 thì MR > 0 hàm lệch giá là hàm đồng biến, có nghĩa là lúc này tăng lượngcầu ( đường cầu là giảm giá để tăng sản lượng bán ) sẽ làm tăng lệch giá. – 1 < E DP < 0 thì MR < 0 hàm lệch giá là hàm nghịch biến, có nghĩa là lúc này giảmlượng cầu ( đường cầu là tăng giá bán, lượng cầu giảm ) sẽ làm tăng lệch giá. E DP = 0 thì MR = 0 hàm lệch giá đạt cực lớn. E DP = – ∞ thì MR = P.Chúng ta hoàn toàn có thể chứng tỏ rõ điều này như sau : MR TR ( P Q ) P Q Q PQ P P 1 Q Q Q QP Q Độ co dãn của cầu theo giá được tính bằng : E DP Doanh thu cận biên được xác lập bằng : MR Q P P Q TR1 P 1 D . QEP Vì vậy, tại những miền cầu khác nhau thì lệch giá cận biên của hãng độc quyền bán thuầntúy là khác nhau. 176ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyMicrosoft có phải là một hãng độc quyền ? Một trong những yếu tố gây tranh cãi nhất trong những vụ kiện chống độc quyền chống lạiMicrosoft gần đây bắt nguồn từ câu hỏi liệu Microsoft có phải là một hãng độc quyền trên thịtrường hệ quản lý dành cho máy tính cá thể ( PC ). Và thậm chí còn nếu Microsoft thực sự làmột hãng độc quyền trên thị trường hệ quản lý dành cho Windows, liệu nó đủ sức mạnhthị trường để làm thiệt hại cho người tiêu dùng hay không ? Và thậm chí còn nếu Microsoft cóđược sức mạnh thị trường đủ để gây thiệt hại cho người tiêu dùng, liệu người tiêu dùng sẽđược lợi khi Microsoft bị chia tách thành hai công ty nhỏ hơn hay không ? Đừng suy nghĩngay rằng chúng tôi hoàn toàn có thể vấn đáp những câu hỏi này chỉ trong một ví dụ ngắn hay ngay cảmột ví dụ dài cho yếu tố phức tạp này. Chúng tôi không hề. Nhưng chúng tôi hoàn toàn có thể minhhọa sự phức tạp của câu hỏi vô cùng mê hoặc này bằng cách tìm hiểu quan điểm của nhiều nhàkinh tế được đăng trên nhiều ấn phẩm về tin tức kinh doanh thương mại. Alan Reynolds ( Viện trưởng viện nghiên cứu và điều tra kinh tế tài chính thuộc Viện Hudson ) Có thể nói theo cách thường thì rằng ứng dụng Windows của Microsoft “ được sử dụngcho hơn 90 % máy tính cá thể trên toàn quốc tế ”. Tỷ lệ này hoàn toàn có thể gây ra sự lo ngại nếu nóhàm ý rằng Microsoft trấn áp 90 % thị trường hệ quản lý và điều hành máy tính. Để nhìn nhận sự hữuích của thị trường này, chúng tôi phải xem xét xác lập thị trường được dùng để giám sát. Như chúng tôi đã nhấn mạnh vấn đề trong giáo trình này, một thị trường được xác lập đúng đắnnên gồm có toàn bộ những loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng biết được là hàng thaythế cho mẫu sản phẩm của một hãng. Reynolds lập luận rằng Bộ Tư pháp đã xác lập thị trườnghệ điều hành quản lý máy tính quá hẹp và như vậy đã thổi phồng thị trường của hãng Microsoft trênthị trường hệ quản lý và điều hành. Bộ Tư pháp xác lập thị trường trong trường hợp của Microsoft chỉ là “ máy tính của những cánhân riêng không liên quan gì đến nhau sử dụng bộ vi giải quyết và xử lý của Intel ”. Reynolds chú ý quan tâm rằng việc xác lập quá hẹpphạm vi thị trường nơi hãng Microsoft hoạt động giải trí đã loại trừ những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu củaMicrosoft như là hãng máy tính Apple ( do tại họ không sử dụng bộ vi giải quyết và xử lý của Intel ) ; cáctrạm máy của Sun Microsystem ; bất kể một hệ quản lý được sử dụng như thể một phầncủa một mạng thanh toán giao dịch ( ví dụ : Solaris, UNIX ) ; và hệ điều hành quản lý sử dụng trong những thiết bịcầm tay. Tóm lại, Reynolds tin Bộ Tư pháp đã chơi gian lận nhằm mục đích chống lại Microsoft bằngcách loại trừ nhiều đối thủ cạnh tranh thực sự của hệ quản lý Windows của hãng Microsoft. Reynoldslưu ý rằng, trong những ngành công nghệ cao, Open những hãng thống lĩnh là chuyện bìnhthường : Quycken chiếm 80 % thị trường ứng dụng kinh tế tài chính mái ấm gia đình, Netscape từng nắmgiữ 90 % thị trường trình duyệt và Intel nắm giữ 76 % thị trường bộ vi giải quyết và xử lý. Richard Schmalensee ( nhà kinh tế tài chính học tại Học viện Công nghệ Masachuset, MIT, và là nhân chứng của Microsoft ) Trong quy trình thẩm vấn như thể một nhân chứng của Microsoft, Schmalensee đã đưa ramột vấn đề đặc biệt quan trọng thâm thúy : Microsoft quả thực đã nắm giữ gần như hàng loạt thị trườnghệ điều hành quản lý, nhưng nó không có sức mạnh thị trường can đảm và mạnh mẽ và không phải là một hãngđộc quyền gây hại cho người tiêu dùng. Schmalensee giám sát rằng nếu Microsoft quả thựclà một hãng độc quyền nắm giữ sức mạnh thị trường vì nó không phải hoặc phải cạnh tranhrất ít với những đối thủ cạnh tranh, thì Chi tiêu mà tối đa hóa doanh thu cho Microsoft của hệ điều hànhWindows 98 phải nằm đâu đó trong khoảng chừng giữa $ 900 và $ 2.000. Công tố viên của Bộ Tưpháp đã bày tỏ sự quá bất ngờ trước sự thống kê giám sát này khi hỏi Schmalensee rằng ông ta cónghĩ mức giá $ 2.000 là mức giá tối đa hóa doanh thu Microsoft nên thực sự thu cho phầnmềm Windows. “ Dĩ nhiên là không bởi Microsoft gặp phải sự cạnh tranh đối đầu đáng kể trong dàihạn. Đó là quan điểm đúng đắn ”. Như chúng tôi đã lý giải trong giáo trình, mức độ sức mạnhthị trường mà hãng độc quyền nắm giữ nhờ vào vào sự sẵn có của những sản phẩm & hàng hóa có khảnăng sửa chữa thay thế cao. Schmalensee lý giải rằng Windows 98 không chỉ phải đương đầu với cácECO101_Bai6_v2. 301416226177B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyMicrosoft có phải là một hãng độc quyền ? đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu tiềm năng từ những hãng mới sẽ gia nhập thị trường trong tương lai, mànó cũng phải cạnh tranh đối đầu với 2 loại sản phẩm đã được sử dụng rất thoáng rộng là Windows 3.1 vàWindows 95. Có lẽ sự bảo vệ tốt nhất của người tiêu dùng trước lập luận Microsoft là mộthãng độc quyền là hãy chiếm hữu một phiên bản mới của hệ quản lý và điều hành Windows. Franklin Fisher ( nhà kinh tế tài chính học tại học viện chuyên nghành công nghệ tiên tiến Masachuset, MIT, và lànhân chứng của Bộ Tư pháp ) “ Microsoft đã dính líu vào sự quản trị chống cạnh tranh đối đầu mà không có sự bắt buộc lý lẽ bàochữa kinh tế tài chính nào cho ảnh hưởng tác động của nó tới việc hạn chế cạnh tranh đối đầu ” theo lời khai củaFranklin Fisher, một chuyên viên trong những yếu tố độc quyền và chống độc quyền. Chính phủđã đưa ra dẫn chứng là nhiều biên bản ghi nhớ và những tài liệu kế hoạch quốc tế củaMicrosoft. Ngôn ngữ trong những tài liệu này vẽ lên bức tranh của một hãng bị ám ảnh bởi ýnghĩ vượt mặt đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu của nó bằng mọi cách hoàn toàn có thể. Trong một E-mail đượctruyền đi giữa những nhà quản trị cấp cao của Microsoft về yếu tố phá hoại ngôn từ phầnmềm Java : “ Phá hoại luôn luôn là giải pháp tốt nhất của chúng tôi … Phá hoại trong hầuhết những trường hợp luôn tốt hơn một cuộc tiến công trực diện. Nó để lại sự cạnh tranh đối đầu rốiloạn ; họ sẽ không biết cần phải tiến công cái gì nữa ”. Mặc dù giải pháp được Microsoft sửdụng nhằm mục đích vượt mặt đối thủ cạnh tranh của hãng có vẻ như nhẫn tâm so với chúng tôi, nhưng chúng tôihoài nghi rằng những loại biên bản ghi nhớ tương tự như hoàn toàn có thể được tìm thấy nếu như phiêntòa gồm có Pfizer, Toyota, Bank of America hay bất kể hãng tối đa hóa doanh thu nào khác. Tạp chí The Economist ( quan điểm được trích trong bài xã luận đăng trên tạp chí TheBusiness News ) Trong một bài xã luận, Tạp chí The Economist biểu lộ mối chăm sóc của họ rằng nhiều thịtrường công nghệ cao trong nền kinh tế tài chính mới trải qua ngoại ứng mạng lưới, điều làm tăngkhả năng thống lĩnh một thị trường của một hãng đơn lẻ. Một khi một hãng thống lĩnh thiếtlập một tập hợp người mua phần đông, những người đang sử dụng những thương hiệu hàngcông nghệ cao của hãng, người tiêu dùng lúc này hoàn toàn có thể trở nên không muốn sử dụngnhững tên thương hiệu khác, và như vậy tạo nên một độc quyền bằng cách ngăn ngừa sự gianhập của những hãng mới và của những công nghệ tiên tiến mới. Đối với những cơ quan giám sát chống độcquyền được giao trách nhiệm ngăn ngừa việc hình thành những hãng độc quyền mới và xoá bỏcác hãng độc quyền đang sống sót, việc nâng cấp cải tiến mẫu sản phẩm liên tục và giá của những sản phẩmgiảm liên tục khiến cho họ khó khăn vất vả trong việc chứng tỏ người tiêu dùng bị thiệt hại bởi “ sự lạm dụng độc quyền ” trên thị trường đồ công nghệ cao. Kết quả là tạp chí TheEconomist lo ngại rằng Microsoft hoàn toàn có thể kiềm chế sự phát minh sáng tạo và gây ra những thiệt hạinghiêm trọng cho người tiêu dùng những loại sản phẩm công nghệ cao và nền kinh tế tài chính mới. Tạp chí The Economist, cũng giống như Franklin Fisher, xem những hành vi kinh doanh thương mại củaMicrosoft như những chứng cứ về việc hãng có dự tính sử dụng sức mạnh thị trường để duytrì sự thống lĩnh thị trường của hãng. “ Bằng chứng đáng kinh ngạc của E-mail và những giấy tờquản lý đã miêu tả sự sẵn sàng chuẩn bị của một công ty, có vẻ như, làm toàn bộ mọi thứ để bảo vệthế độc quyền của hệ điều hành quản lý Windows của họ … Khi đó, như trong trường hợp củaMicrosoft, sự điều hành quản lý của một hãng độc quyền có vẻ như bóp nghẹt sự phát minh sáng tạo trênnhững thị trường trong đó sự cạnh tranh đối đầu được nhìn nhận thoáng rộng như thể sự thay đổi, thìnhững lập luận cho sự can thiệp chống độc quyền là bắt buộc ”. Gary Becker ( nhà kinh tế tài chính đoạt giải Nobel – Đại học Chicago ) Bộ Tư pháp đề xuất kiến nghị tách hãng Microsoft thành hai hãng độc lập : Một công ty chuyên về hệđiều hành ( Windows ) và một công ty chuyên về những ứng dụng ứng dụng ( MS office, Internet Explorer, và những ứng dụng khác của Microsoft ). Bộ Tư pháp tin rằng sự chia tách làcần thiết nhằm mục đích khuyến khích sự thay đổi công nghệ tiên tiến nhanh hơn nữa. Becker chỉ ra hai vấn đề178ECO101_Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyMicrosoft có phải là một hãng độc quyền ? so với lập luận của Bộ Tư pháp. Thứ nhất, những nhà kinh tế tài chính không chắc rằng cạnh tranh đối đầu sẽkhuyến khích thay đổi công nghệ tiên tiến nhanh hơn. Becker đề cập tới tư tưởng của JosephSchumpeter ( 1883 – 1950 ), người tin rằng thị trường độc quyền tạo ra tỷ suất thay đổi côngnghệ cao hơn so với thị trường cạnh tranh đối đầu, về yếu tố này. Theo Schumpeter, độc quyềnthúc đẩy thay đổi công nghệ tiên tiến hơn chính do họ không phải lo ngại về những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu bắtchước một cách nhanh gọn những sự phát minh sáng tạo của họ, và làm giảm doanh thu của họ. Becker cũng lập luận rằng Bộ Tư pháp đã không cung ứng được bất kể vật chứng địnhlượng được rằng vị trí độc quyền mà Microsoft nắm giữ trên thị trường hệ quản lý và điều hành đã làmchậm quy trình tăng trưởng công nghệ tiên tiến trong ngành công nghiệp máy tính truy vấn Internet : nhà nước và những chuyên viên của nhà nước trích dẫn những thay đổi tiềm năng được cho làbị ngăn cản bởi những hành vi hiếu chiến của Microsoft. Thậm chí nếu những ví dụ đó là chínhxác thì nhà nước cũng không chăm sóc xem liệu có hay không những phát minh sáng tạo đổi mớicông nghệ khác được khuyến khích bởi một thị trường to lớn dành cho những ứng dụngphần mềm mới hoàn toàn có thể được tạo ra trên cơ sở nền tảng hệ quản lý và điều hành Windows. Bốn mươi năm qua, đã có rất nhiều sự tân tiến công nghệ tiên tiến trong ngành công nghiệp máy tính – Internet. Những văn minh đó, Becker đã chỉ ra, không hề chậm lại khi Microsoft tạo dựng vịthế của hãng trong hệ điều hành quản lý trong suốt 20 năm cuối của quy trình tiến độ này. Có lẽ những đốithủ của Microsoft, những người phàn nàn tại toà, kỳ vọng Bộ Tư pháp bảo vệ họ khỏi sựcạnh tranh can đảm và mạnh mẽ của Microsoft hơn là thôi thúc sự cạnh tranh đối đầu thực sự ? Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của ví dụ này, chúng tôi muốn rằng hoàn toàn có thể cho những bạncâu vấn đáp cho tổng thể những câu hỏi này nhưng chúng tôi không hề. Trên trong thực tiễn, nhữngcâu vấn đáp cho tổng thể những gì tương quan trong trường hợp này được vật chứng là rất khókhăn. Cuối cùng, thẩm phán của phiên toà, thẩm phán Thomas Penfield Jackson, đã thấyMicrosoft phạm tội độc quyền hoá phạm pháp và nhu yếu tách Microsoft thành hai hãng. Tại phiên toà phúc thẩm, Toà phúc thẩm Hoa Kỳ đã huỷ bỏ quyết định hành động chia tách và yêu cầuthẩm phán Jackson không tham gia liên tục vụ kiện. Vào tháng 11 năm 2001, Microsoft vàBộ Tư pháp đạt được một thoả thuận và được trải qua tại một phiên toà khác vào tháng11 năm 2002 được xử bởi thẩm phán Colleen Kollar-Kotelly. Rõ ràng rằng, câu hỏi về sự độcquyền phạm pháp đã được vật chứng là khá thử thách với toàn bộ những ai chăm sóc. Bạn nên cố gắng nỗ lực có Kết luận của chính mình và bàn luận những lập luận của mình với cácbạn cùng lớp và giáo viên. Vụ kiện này có lẽ rằng sẽ cũng được tranh cãi trong nhiều năm. Nguồn : Alan Reynolds, “ US v Microsoft ”, The Wall Street Journal, 4/4/1999 ; “ Big FriendlyGiant ”, The Economist, 30/1/1999 ; John R.Wilke và Keithe Perine, “ Final GovernmentWitness Testifies Against Microsoft in Antitrust Trial ”, The Wall Street Journal, 6/1/1999 ; “ Lessons from Microsoft ”, The Economist, 6/3/1999 ; Garry S.Becker, “ Uncle Sam Has NoBusiness Busting up Microsoft ”, Business Week, 19/1/2000 ; Don Clack, Mark Wigfield, NickWingfield và Rebecca Buckman, “ Judge Approves Most of Pact, in Legal Victory forMicrosoft ”, The Wall Street Journal, 1/11/2002. 6.2. Tối đa hóa doanh thu của hãng độc quyền bán thuần túy trong ngắn hạn6. 2.1. Điều kiện tối đa hóa lợi nhuậnĐiều kiện tối đa hóa doanh thu của hãng độc quyền giống điều kiện kèm theo tối đa hóa lợi nhuậnchung của những hãng mà tất cả chúng ta đã điều tra và nghiên cứu trong bài 4. MR = MCECO101_Bai6_v2. 301416226179B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyC, RMCS1S2MRQ1Q2Q * Hình 6.3. Điều kiện tối đa hóa doanh thu của hãng độc quyềnGiả sử hãng sản xuất tại mức sản lượng Q1 < Q *. Xét riêng tại mức sản lượng thứ Q1. Nếu hãng bán được thì lệch giá tăng thêm MR AQ1. Để sản xuất thêm sản lượngthứ Q1 thì ngân sách thêm MC BQ1. Ta thấy MR > MC tức là lệch giá tăng thêm lớn hơn ngân sách bỏ thêm để sản xuất sảnlượng thứ Q1. Suy ra doanh thu tăng là AB ( khoảng cách theo chiều dọc giữa MC và MR ). Bất kỳ sảnlượng nào có MR > MC thì việc sản xuất và bán thêm sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuậncủa hãng. Từ Q1 đến Q * là những mức sản lượng có MR > MC hãng sản xuất và bán thêm sảnlượng thì doanh thu sẽ tăng lên. SABE S1 tại Q * > tại Q1 = SABEGiả sử hãng sản xuất tại mức sản lượng Q2 > Q * Xét riêng tại mức sản lượng thứ Q2. Nếu hãng bán được thì lệch giá tăng thêmMR MQ 2 Để sản xuất thêm sản lượng thứ Q2 thì ngân sách thêmMC NQ 2T a thấy NQ 2 MQ 2 MC MR, hay doanh thu giảm. Tại đơn vị chức năng sản lượng thứ Q2 là giảm doanh thu của hãng làThương hiệu độc quyềnMN ( khoảng cách theo chiều dọc giữa MC và MR ). Bất kỳ sản lượng nào có MC > MR thì việc sản xuất và bán thêm sản lượng sẽ làm giảmlợi nhuận của hãng. Từ Q2 về Q * là những mức sản lượng có MC > MR hãng sản xuất và bán thêm sảnlượng thì doanh thu sẽ giảm xuống. 180ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túy SMNE S2 tại Q * > tại Q2 = SMNENếu MR > MC thì tăng Q sẽ tăng . Nếu MR < MC thì giảm Q sẽ tăng . Vậy tại Q * thì hãng tối đa hóa doanh thu, hãng độc quyền bán tối đa hóa doanh thu củamình tại điểm lệch giá biên bằng với ngân sách cận biên. 6.2.2. Lựa chọn sản lượng tối ưu của hãng độc quyền trong ngắn hạnDựa vào công thức tính doanh thu tất cả chúng ta hoàn toàn có thể xác lập doanh thu của hãng độcquyền như sau : π = TR – TCChúng ta hoàn toàn có thể đưa công thức trên về dạng : π = P.Q – ATC × Q = ( P – ATC ) × QPhương trình xác lập doanh thu này cho tất cả chúng ta biết : Hãng có doanh thu kinh tế tài chính dương khi P > ATC. Hãng có doanh thu kinh tế tài chính bằng 0 khi P = ATC. Hãng bị thua lỗ nhưng vẫn liên tục sản xuất khi AVC < P < ATC. Hãng ngừng hoạt động sản xuất khi P < AVC.Ngoài ra tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ hơn trải qua đồ thị chứng tỏ như sau : a. Xét giá thị trường P0 > ATCKhi giá thị trường P0 > ATC ta xác lập được mức sản lượng trên thị trường Q *. Doanhthu của hãng độc quyền là : TR P Q * SOP EQ * Tổng chi phí của hãng là TC ATC Q * SOABQ *. Lợi nhuận sẽ là : TR TC SOP EQ * SOABQ * SABEP0 > 0V ậy doanh thu mà hãng thu được khi giá thị trường P0 > ATC là dương hay hãng kinhdoanh có lãi. MCP0Hãng có lãiLNMRACATCQ * Hình 6.4. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P > ATCECO101_Bai6_v2. 301416226181B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyb. Xét giá thị trường P0 = ATCKhi giá thị trường P0 = ATC ta xác lập được mức sản lượng trên thị trường là Q *. Doanh thu của hãng độc quyền là : TR P Q * SOP EQ *. Tổng chi phí của hãng là : TC ATC Q SOP EQ *. = TR – TC = 0 doanh thu mà hãng thu được bằng 0 hay hãng hòa vốn. Điểm E là điểm hòa vốn với mức giá thị trường P0 = ATC Phòa vốn = ATCVậy hãng hòa vốn khi mức giá thị trường P0 = ATCMCHãng hòa vốnACATCP0MRQ * Hình 6.5. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P = ATCc. Xét giá thị trường AVC < P0 < ATCKhi giá thị trường AVC < P0 < ATC ta xác lập được mức sản lượng trên thị trường làQ *. Doanh thu của hãng độc quyền là : TR = PxQ * = SOP EQ * Tổng chi phí của hãng là TC = ATC x Q = SOABQ * = TR – TC = SOP EQ * SOABQ * SABEP0 < 0V ậy khi giá thị trường AVC < P0 < ATC thì hãng bị lỗ. Khi bị lỗ hãng có liên tục sản xuất ? So sánh phần thua lỗ và ngân sách cố định và thắt chặt : giá thành biến hóa tại mức sản lượng Q * : TVC AVC Q * NQ * Q * SOMNQ * Chi tiêu cố định và thắt chặt là : TFC TC TVC SABNMNếu hãng sản xuất thì hãng lỗ SABEP0. Nếu ngừng sản xuất hãng bị thua lỗ bằng chi phícố định là SABNM SABEP0. Do đó, hãng vẫn liên tục sản xuất để tối thiểu hóa lỗ. Doanhthu khi sản xuất tại mức sản lượng Q * bằng SOP EQ * bù đắp được cho hàng loạt ngân sách biếnđổi và một phần ngân sách cố định và thắt chặt. 182ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyDo đó, hãng sẽ liên tục sản xuất để mức lỗ là nhỏ nhất và hãng chỉ bị thua lỗ một phầnchi phí cố định và thắt chặt. Trong trường hợp này, hãng tối đa hóa doanh thu hàm ý phải tối thiểuhóa thua lỗ. Tối thiểulỗMCATCACP0AVCMRQ * Q * Hình 6.6. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp AVC < P0 < ATCd. Xét giá thị trường P ≤ AVCGiả sử giá thị trường P0 = AVC. Doanh thu của hãng độc quyền là : TR = P x Q * = SOP EQ *. Tổng chi phí của hãng là TC = ATC x Q * = SOABQ *. = TR – TC = SOP EQ * SOABQ * SABEP0 < 0. Hãng bị lỗ phần diện tích quy hoạnh SABEP0. So sánh phần thua lỗ với ngân sách cố định và thắt chặt : giá thành đổi khác tại mức sản lượng Q * : TVC AVC Q * EQ * Q * SOP EQ *. giá thành cố định và thắt chặt : TFC TC TVC SABEP0 = phần thua lỗ nếu hãng liên tục sảnxuất. Vì thế, hãng lỗ hàng loạt ngân sách cố định và thắt chặt. MCACATCFCAVCP0Điểm đóng cửaMRQ * Hình 6.7. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P0 = AVCGiả sử lúc này giá thị trường giảm xuống P0 < AVC thì hãng không chỉ lỗ hàng loạt chiphí cố định và thắt chặt mà còn mất một phần ngân sách đổi khác. ECO101_Bai6_v2. 301416226183B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túy mở màn từ P0 AVC thì hãng khởi đầu tính đến việc đóng cửa E là điểm ngừng hoạt động của hãng. Sở dĩ gọi E là điểm đóng cửa vì nếu giá nhỏ hơn mức giá ở E hay P < AVC, khi đó hãngkhông chỉ bị lỗ hết ngân sách cố định và thắt chặt mà một phần của ngân sách biến hóa. MCFCACATCAVCP01 phần AVCMRQ * Hình 6.8. Lựa chọn sản lượng trong trường hợp P0 < AVCVậy hãng độc quyền bán thuần túy thu được doanh thu dương khi P > ATC ; hãng thuđược doanh thu kinh tế tài chính bằng 0 khi P = ATC ; hãng bị thua lỗ nhưng vẫn liên tục sản xuấtkhi AVC < P < ATC ; và hãng ngừng sản xuất khi P AVC. Quyết định mức sản lượngtối đa hóa doanh thu của hãng sẽ thỏa mãn nhu cầu điều kiện kèm theo MC = MR và P > AVC.Một câu hỏi đặt ra, với hãng CTHH đường cung của hãng là đường MC tính từ điểmđóng cửa đi lên. Đường cung của hãng độc quyền có như vậy không ? Hãng độc quyềnbán thuần túy không có đường cung do mọi sự lựa chọn sản lượng tối ưu đều dựatrên đường cầu, tuân theo luật cầu. 6.2.3. Quy tắc định giáChúng ta biết rằng giá và sản lượng phải được lựachọn sao cho lệch giá biên bằng với ngân sách biên, nhưng làm thế nào để người quản lý hãng xác địnhđược mức giá và sản lượng trong trong thực tiễn. Để hiểuđược yếu tố trên thì tất cả chúng ta đi nghiên cứu và phân tích điều kiện kèm theo tốiđa hóa doanh thu của hãng. Hãng độc quyền tối đa hóa doanh thu tại mức sảnlượng mà tại đó : MR = MCChúng ta chứng tỏ đượcMR P. ( 1 Ta có P MC P ( P 184 Độc quyền xăng dầuMC ) MC P ( 1 D ) P EPEP1 DEPP MC ) D 0 PEPEPEDECO101_Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyNhư vậy, hãng độc quyền luôn đặt giá lớn hơn ngân sách cận biên. Để đo lượng sức mạnh độc quyền, ta xem xét mức chênh lệch giữa giá cả và chi phícận biên. Sức mạnh độc quyền bán là năng lực định giá cao hơn ngân sách cận biên. Sựkhác nhau cơ bản giữa hãng cạnh tranh đối đầu hoàn hảo nhất và doanh nghiệp độc quyền là doanhnghiệp độc quyền có sức mạnh thị trường. Để tối đa hóa doanh thu thì hãng cạnh tranhhoàn hảo đặt giá bằng ngân sách cận biên, còn doanh nghiệp độc quyền bán lại đặt giá caohơn ngân sách cận biên ( P > MC ). Sức mạnh độc quyền được nhà kinh tế tài chính Abba Lerner đưa vào năm 1934 và được gọi làchỉ số Lerner : P MC ( 0 L 1 ) L Chỉ số Lerner này luôn có giá trị giữa 0 và 1. Chỉ số L cho biết giá càng cao hơn chi phícận biên thì chỉ số L càng lớn và khi đó sức mạnh độc quyền sẽ càng lớn hơn. Hãng sẽkhông có sức mạnh độc quyền khi L = 0 và P = MC, trường hợp này xẩy ra khi hãng làcạnh tranh tuyệt đối. VìP MC D => L DEPEPE DP là độ co dãn của đường cầu so với hãng mà không phải của đường cầu thị trường. Từ công thức trên cho ta thấy khi cầu càng co dãn thì sức mạnh độc quyền càng nhỏ, khicầu càng ít co dãn thì sức mạnh độc quyền sẽ càng lớn. Từ công thức trên ta so sánh hai trường hợp cầu kém co dãn và cầu co dãn nhiều. Từ haiđồ thị dưới đây ta thấy, khi cầu co dãn ít ( đường cầu dốc hơn ) thì khoảng cách giữa P vàMC là lớn và khi có dãn nhiều ( đường cầu thoải hơn ) khoảng cách này là nhỏ. 6.3. Lựa chọn doanh thu tối đa của hãng độc quyền bán trong dài hạnGiả định rằng, trong dài hạn, những hàng rào ngăn cản gia nhập thị trường đều có hiệu lựcvà hãng độc quyền thuần túy vẫn giữ được thế độc quyền bán của mình. Trong dài hạn, hãng độc quyền bán thuần túy tối đa hóa doanh thu ở mức sản lượng màtại đó : MR = LMCTương tự như trong thời gian ngắn, quyết định hành động dài hạn của hãng độc quyền bán sẽ sản xuấtnếu P LAC và rời khỏi ngành nếu P < LAC.Trong dài hạn, hãng độc quyền sẽ kiểm soát và điều chỉnh quy mô về mức tối ưu. Có nghĩa trong dàihạn hãng có điều kiện kèm theo để lựa chọn quy mô nào tương thích nhất để hoàn toàn có thể tối đa hóa lợinhuận và tối thiểu hóa ngân sách. Chúng ta cũng đã chứng tỏ được quy mô tối ưu là quy mô mà tại đó đường ATC tiếpxúc với đường LAC tại mức sản lượng tối đa hóa doanh thu. Lưu ý : Điều kiện tối đa hóa doanh thu trong dài hạn của hãng độc quyền bán trên chúngta đã giả định rằng trong dài hạn vẫn chỉ sống sót một mình nó. Vì trên thực tiễn, trong dàihạn thì không chỉ có một hãng độc quyền vì vương quốc nào trên quốc tế đều có luật cạnhtrạnh tranh ( chống độc quyền ). ECO101_Bai6_v2. 301416226185B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyC, P., RLMCP0ACATCLACLNDHE2MCQ * MRQ2Q2Hình 6.9. Lựa chọn doanh thu của hãng độc quyền bán trong dài hạnDo đó, trong dài hạn, khi có doanh thu kinh tế tài chính dương sẽ có thêm 1 hoặc 2 hãng hoặcnhiều hãng tham gia nên độc quyền bán bị phá vỡ. Vì có nhiều hãng tham gia vào thịtrường nên cung mẫu sản phẩm tăng lên, làm cho giá mẫu sản phẩm giảm xuống. Giá giảm chođến khi giá P = LAC và MR = LMC và doanh thu bằng 0. Trong dài hạn thì tổng ngân sách cố định và thắt chặt được khấu hao hết, do đó, khi LAC nằm bên phíatrên đường cầu hay P < LAC thì hãng sẽ đóng cửa. Ở phần trên tất cả chúng ta đã nghiên cứu và điều tra tập trung chuyên sâu vào phía người bán trên thị trường độcquyền. Chúng ta sẽ đi nghiên cứu và điều tra tiếp đến phía người mua. 6.4. Độc quyền mua thuần túy6. 4.1. Các đặc trưng của độc quyền mua thuần túyKhái niệm độc quyền thường dùng để chỉ độc quyền bán nhưng tương tự như như độc quyềnbán cũng có độc quyền mua – một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ sống sót một ngườimua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong trường hợp độc quyềnmua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua mẫu sản phẩm từ nhữngngười bán. Doanh nghiệp độc quyền bán hoàn toàn có thể đồng thời là độc quyền mua và trongtrường hợp này doanh thu siêu ngạch của nó rất lớn vì bán mẫu sản phẩm với giá cao hơn vàmua yếu tố nguồn vào thấp hơn mức cân đối của thị trường cạnh tranh đối đầu. Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện kèm theo thuận tiện để trở thành độc quyền mua vì nósản xuất ra loại sản phẩm không có mẫu sản phẩm sửa chữa thay thế thân thiện và do đó một vài yếu tố đầuvào của nó hoàn toàn có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố nguồn vào không duy nhất thìdoanh nghiệp độc quyền bán cũng có năng lực chi phối mạnh giá những yếu tố nguồn vào nếunó có quy mô lớn. Thị trường độc quyền mua là thị trường chỉ có một người mua duynhất một loại sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ nào đó. Trên thị trường độc quyền mua, sức mạnh thịtrường thuộc về người mua. Nhu cầu của doanh nghiệp chính là nhu yếu của thị trường. 6.4.2. Lựa chọn sản lượng của hãng độc quyền mua thuần túyTrong độc quyền mua hãng là người mua duy nhất đứng trước đường cung của thịtrường. Đường cung này phản ánh những mức giá mà người bán sẵn sàng chuẩn bị bán ở những mứcsản lượng khác nhau, là hàm số của mức giá mà người tiêu dùng trả. Vì vậy, đường cungcủa thị trường là đường tiêu tốn trung bình ( S = AE ). 186ECO101 _Bai6_v2. 3014106226B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyChi tiêu cận biên ( ME ) : là mức đổi khác của tổng tiêu tốn do đổi khác một đơn vị chức năng sảnlượng sản phẩm & hàng hóa được mua. Đường tiêu tốn cận biên : Ta có : ME TE QTrong đó TE là tổng mức tiêu tốn của người mua ( được xác lập bằng giá nhân vớilượng : TE = P x Q ). Q là sự biến hóa của sản lượng sản phẩm & hàng hóa được mua. Từ công thức trên ta có : ME TE ( P Q ) P Q P P Q ( P. / Q ) Q Q QVì ( P. / Q ) luôn dương nên ME là một số dương và luôn lớn hơn giá cả. Vậy đường ME nằm phía bên trên đường cung. Do chỉ có một người mua duy nhất nên đường cầu của nhà độc quyền mua chính làđường tổng giá trị so với người mua khi mua hàng. Hay đường cầu trùng với đường giátrị cận biên của doanh nghiệp D = MV. Cũng giống như người tiêu dùng, nhà độc quyềnmua sẽ mua số lượng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ cho đến khi đơn vị chức năng sản lượng đem lại giá trị cậnbiên bằng với tiêu tốn cận biên để trả cho đơn vị chức năng mua ở đầu cuối, tức là MV = ME.Ta có giá trị ròng của việc mua hàng được xác lập theo công thức : NB = TV – TETrong đó : TV là tổng giá trị thu được so với người mua, TE là tổng chi tiêuLợi ích ròng được tối đa hóa doanh thu khiNB’Q = 0 NB’Q = ( TV – TE ) ’ = MV – ME = 0 MV = MEMES = AEPCP * D = MVQ * QCHình 6.10. Lựa chọn sản lượng tối ưu của hãng độc quyền muaTrên đồ thị ta trình diễn lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp độc quyền mua tại : ME = MV. Với mức sản lượng là Q * và mức giá phải trả là P *. ECO101_Bai6_v2. 301416226187B ài 6 : Thị trường độc quyền thuần túyTÓM LƯỢC CUỐI BÀIMột độc quyền sống sót nếu một hãng đơn lẻ sản xuất và bán một loại sản phẩm & hàng hóa hay dịch vụ màkhông có sản phẩm & hàng hóa hay dịch vụ nào thay thế sửa chữa và những hãng mới bị ngăn cản gia nhập thị trườngtrong dài hạn. Sức mạnh thị trường là năng lực của một hãng hoàn toàn có thể tăng giá mà không mất hàng loạt lệch giá. Bất kỳ hãng nào đương đầu với đường cầu dốc xuống đều có sức mạnh thị trường. Sức mạnh thịtrường giúp hãng có năng lực tăng giá lên trên ngân sách trung bình và thu được doanh thu kinh tế tài chính. Trong dài hạn, hãng với sức mạnh thị trường hoàn toàn có thể thu doanh thu kinh tế tài chính bởi sự gia nhập của cáchãng mới là khó khăn vất vả. Để trở thành một hãng độc quyền thực sự, phải sống sót những rào cản ngăncản những hãng đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường và lấy đi doanh thu kinh tế tài chính của hãng độc quyền. Các ràocản gia nhập gồm có tính kinh tế tài chính nhờ quy mô, những rào cản do nhà nước tạo ra, trấn áp cácđầu vào, rào cản do sự trung thành với chủ của người mua, hạn chế năng lực quy đổi và hiệu ứngmạng lưới. Hệ số Lerner, ( P – MC ) / P., thống kê giám sát tỷ phần so với giá mà Ngân sách chi tiêu vượt quá ngân sách cận biên ( tứclà mức giá cạnh tranh đối đầu ). Hệ số Lerner càng lớn, sức mạnh thị trường càng lớn. Trong thời gian ngắn, nhà quản trị của một hãng có sức mạnh thị trường tối đa hóa doanh thu bằngcách sản xuất và bán mức sản lượng thỏa mãn nhu cầu MR = SMC chừng nào mà P ≥ AVC. Nếu P.
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục