Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam ,nguyên nhân suy thoái và giải pháp – Tài liệu text

Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam ,nguyên nhân suy thoái và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.93 KB, 28 trang )

BÀI TIỂU LUẬN SINH THÁI NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI: Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam ,nguyên nhân suy thoái và
giải pháp
Nhóm sinh viên thực hiện : 1.Nguyễn Thị Hồng Duyên
2. Lữ Thị Hồng Định

I. MỞ ĐẦU
Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở để phát
triển kinh tế – xã hộih mà còn giữ chức năng sinh thái cực kì quan trọng: rừng tham gia vào
quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxi, và các nguyên tố cơ bản khác trên
hành tinh, duy trì tính ổn định màu mở của đầt làm giẩm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các
thiên tai bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí.
Tuy nhiên có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp, đó là áp lực
về dân số của các vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai
thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp kiến thức bản địa chưa
được phát huy hoạt động khuyến nông khuyến lâm chua phát triển, chính sách nhà nước về
quản lý rừng còn nhiều bất cập cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi…
Vì vậy vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi
để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham
gia tích cực của cộng đồng dân cư và công tác quản lý bảo vệ phát triển. Trong những năm
gần đây nhà nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách tác động mạnh đến đời sống
nhân dân như: giao đất lâm nghiệp, khoán quản lý bảo vệ rừng, quy chết về quản lý rừng
phòng hộ quy chết hưởng lợi. Trong khi xây dựng các quy định về quản lý bảo vệ rừng
trong phạm vi cả nước phải nghiên cứu và tính toán nhu cầu thực tế chính đáng của người
dân mới có thể đảm bảo tính khả thi của các quy định, đồng thời đảm bảo cho rừng không
bị khai thác quá mức ảnh hưởng xấu đến chức năng của rừng tự nhiên.
II.NỘI DUNG
1. Hiện trạng:
Nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới, rừng nước ta nổi tiếng về tài nguyên gỗ,
nhất là đặc sản có giá trị.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng có tình trạng chung như những nước đang phát triển khác, diện
tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng. Theo bản đồ rừng của Maurand vào năm 1945 thì nước
ta có 14,352 triệu ha rừng, chiếm tỷ lệ 43,8% so với diện tích tự nhiên.
Theo số liệu điều tra của viện qui hoạch rừng thì đến năm 1975 còn 9,5 triệu ha rừng,
chiếm 29,1% diện tích tự nhiên, đến năm 1981 còn 7,4 triệu, chiếm 24%, đến năm 1989 có
9,3 triệu, trong đó có những rừng mới trồng.
Diện tích rừng ở Việt Nam so với diện tích đất tự nhiên
STT Khu vực Diện tích đất tự nhiên (1000 ha) Diện tích rừng (1000 ha)
Tỷ lệ % diện tích rừng/đất tự nhiên (%)
1 Bắc Bộ11.570 6955 60,0
2 Trung Bộ 14.754 6580 44,6
3 Nam Bộ 6470 817 13,0
Cả nước 32.794 14.352 43,8
(Theo Maurand, 1945)
Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 – 1995). Rừng ngập mặn
ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao
– đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch.
Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh
cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực.
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các
hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường
hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài
nguyên nước, giảm phát thải CO
2
.
• Trong vòng 25 năm qua, toàn bộ vùng rừng tự nhiên mất đi hơn 5 triệu ha ở cả vùng cao
và vùng ven biển, trung bình mỗi năm mất đi khoảng 250.000 ha. Trong mấy năm qua,
diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, 28,2% theo thống kê đến năm 2004 thì độ che phủ
rừng toàn quốc lên đến 36,7% (bảng 3.2)
Bảng 3.2. Diễn biến về diện tích rừng ở Việt Nam (đơn vị tính: 1.000.000ha)

Năm 1945 1976 1980 1985 1990 1995 1999 2002 2004
Tổngdiệntích(ha) 14,30 11,16 10,60 9,89 9,17 9,30 10,99 11,78 12,30
Rừng trồng (ha) 0,00 0,01 0,42 0,58 0,74 1,05 1,52 1,91 2,21
Rừngtự
nhiên(ha)
14,30 11,07 10,18 9,30 8,43 8,25 9,47 9,86 10,89
Độ che phủ (%) 43,00 33,80 32,10 30,00 27,80 28,20 33,20 35,8 36,7
(nguồn:Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, Phần Đa dạng sinh học, 2005)
Các kiểu rừng chính ở Việt Nam
Điều kiện tự nhiên khí hậu và các nhân tố khác đã tạo cho cây rừng sinh trưởng và phát
triển quanh năm, thảm thực vật rừng phong phú đa dạng với nhiều kiểu rừng. Theo các nhà
Lâm nghiệp, người ta chia ra các kiểu rừng sau : (Báo cáo về hiện trạng môi trường Việt
Nam năm 1994, Cục Môi trường).
1. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới
Người ta còn gọi là rừng mưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới ẩm, kiểu rừng này thường gặp trên
các vùng núi cao, dưới 800 m ở phía Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗn
loài thuộc họ quen thuộc ở vùng nhiệt đới như họ Đậu (Papilionoideae), họ Dầu
(Dipterocarpaceae), chúng phát triển tươi tốt thành nhiều tầng với nhiều năm tuổi khác
nhau. Ở kiểu rừng này còn có rất nhiều thực vật phụ sinh như phong lan và cây dây leo
thân cỏ (song mây) và thân gỗ.
Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới có năng suất sinh học rất cao, và có nhiều loài gỗ quí.
Sự thuận lợi về môi trường, phong phú về thức ăn đã tạo ra một quần thể động vật phong
phú về chủng loại và số lượng.
2. Rừng khộp
Còn gọi là rừng thưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới rụng lá, thường thấy ở miền Nam tại các
vùng có độ cao dưới 1000 m. Thành phần gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức
độ khác nhau.
Trên nhiều vùng đất bằng phẳng ở Tây Nguyên thường đọng nước trong mùa mưa, và cạn
nước trong mùa khô, thêm vào đó lửa rừng tàn phá thường xuất hiện rừng Khộp nghèo với
vài loài cây họ Dầu mọc thưa thớt, sinh trưởng chậm.

Trên sườn dốc, nơi có tầng đất sâu hơn hoặc có nước tương đối thuận lợi hơn, nhất là ở
vùng đất đỏ bazalt và ven sông suối thường xuất hiện rừng khộp giàu có, thành phần loài
phong phú, cây mọc dầy thành nhiều tầng xanh tươi, cho nhiều gỗ cứng, gỗ quí với kích
thước lớn như : Giáng hương, Trắc, Cẩm lai, Gụ, Mun… và nhiều loài gỗ Sao, Dầu.
Rừng khộp là nơi tập trung của nhiều loài thú nổi tiếng vùng Châu Á như: Hươu, Nai, Voi,
Khỉ, Vượn… trong đó có các loài thú quí hiếm của thế giới như Bò xám Cuprey, Tê Giác.
Rừng khộp nghèo để tạo thành đồng cỏ chăn nuôi. Đất rừng khộp giàu để phát triển cây
công nghiệp, cây lương thực và cây ăn trái… Ở rừng này, người ta thường áp dụng lối canh
tác nông lâm kết hợp.
3. Rừng lá kim
Ở các vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với các loài thực vật lá kim (Tùng,
Bách, Thông 2 lá, Thông 3 lá) đã tạo nên những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên Lâm
Đồng. Tùy theo độ cao và chế độ ẩm cụ thể mà rừng thông có thể xen lẫn với cây lá rộng
của rừng Khộp hoặc của rừng thường xanh Á nhiệt đới.
Rừng thông ở đây cung cấp gỗ xây dựng, gỗ gia dụng, làm bột giấy. Nhựa thông dùng để
chế biến colofan, dầu thông, nhiều loại hóa chất khác nhau là những mặt hàng xuất khẩu có
giá trị cao. Ở dưới tán rừng thông hoặc xen kẻ với cây công nghiệp, cây thuốc, cây ăn trái
hoặc các đồng cỏ chăn nuôi.
Ở các vùng cao trên 1500 m thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng có rừng lá kim, nhưng
khu vực nhỏ hơn, thường gặp là thông, Pơmu là loại quí.
4. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đới
Thường gặp ở các vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, phần lớn gồm các cây hiện diện
thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Long Não (Lauraceae), họ Thạch Nam (Ericaceae)… và các
cây Tre, Nứa (họ Poaceae). thực vật phụ sinh phát triển mạnh, thường là Phong lan
(Orchidaceae), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng (Polypodiaceae) và các cây Thảo quả (họ
Zingiberaceae). Ở vùng rừng này, người ta thường trồng những cây thuốc như: Đỗ Trọng
(họ Eucommiaceae), Quế (họ Lauraceae), Nhân sâm (họ Araliaceae)…
5. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi
Thành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú, chủ yếu là rừng thường xanh, cây rụng
lá chiếm tỷ lệ nhỏ. Các loài cây đặc hữu của vùng này gồm : Nghiến (họ Tilliaceae), cây

Kim giao (họ Podocarpaceae), cây Trai ly (họ Clusiaceae)… là những loại gỗ quí, thường
chúng có đặc điểm chung là ưa Calci, chịu hạn, ít chịu chua. Nhiều loài vừa có bộ rễ phát
triển sâu, vừa có khả năng kiềm chế thoát nước trên mặt lá. Nhưng cũng có những loài rễ
cạn, chúng sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm và rụng lá vào mùa khô. Nơi gần đầu
nguồn do hang động đưa nước từ nơi khác đến, nên chúng ta thường gặp cây nhiệt đới
thường xanh và Tre, Trúc. Rừng này thích hợp cho các loài vật cần hang động để lẫn trốn
thú dữ như: Sơn dương, khỉ, vượn… Đây là loại rừng đặc sắc đối với con người vì nơi đây
còn giữ lại nhiều nguồn gen, quí, có giá trị cao trong nghiên cứu khoa học, rừng quốc gia
Cúc Phương được thành lập theo kiểu này.
6. Rừng ngập mặn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử dụng bởi nhân dân sống
trong vùng biển nhiều thế kỷ không gây ra sự mất cân bằng sinh thái. Tuy nhiên trong
những năm gần đây, sự gia tăng dân số (đặc biệt sự di dân), lợi tức của nhân dân địa
phương thấp, và sự phát triển nhanh chóng kinh tế đã gây ra sự khai thác quá mức và sự
phá hoại gây hậu quả cho những khu rừng ngập mặn. Vả lại, chính sách của Việt Nam cho
sự tái xây dựng kinh tế làm phát triển sự khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên,
dưới chính sách này, sự phát triển nuôi tôm trong những khu vực rừng ngập mặn là một
trong những chiến lược phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà thủy canh được xem như một
trong những mối đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam.
Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinh
trưởng tốt, đặc biệt là bán đảo Cà Mau (tỉnh Cà Mau).
Trước năm 1945, ở Cà Mau có trên 150.000 ha rừng già, cây to cao, trong tổng số 400.000
ha rừng ngập mặn của cả nước. Nhưng trong thời gian chiến tranh từ năm 1962 đến 1971,
chất độc hóa học của Mỹ đã hủy diệt nhiều khu rừng rộng lớn ở Cà Mau và huyện Cần Giờ
(TP.HCM)…
Sau chiến tranh, Bộ Lâm Nghiệp đã cố gắng phục hồi, có kế hoạch chỉ đạo trồng lại rừng
ngập mặn, nhưng do nhiều cơ quan và nhân dân lại phá rừng làm đầm nuôi tôm nên diện
tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nhanh chóng.
Theo GS. Phan Nguyên Hồng thì rừng ngập mặn ở Việt Nam có khoảng hơn 50 loài cây,
phân bố không giống nhau ở các khu vực ven biển. Có 4 khu vực chủ yếu như sau :

– Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng).
Rừng ngập mặn phát triển nhờ các đảo che chắn ở phía ngoài. Các loài cây chủ yếu là :
đước, vẹt, vẹt dìa, sú mấm. Do có mùa Đông lạnh nên cây chỉ cao từ 1,5 m đến 7 m.
– Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Cửa Lạch Trường (Thanh Hóa)
Tuy có các bãi bồi rộng, giàu phù sa, nhưng ở đây bãi biển trống trãi, không có các đảo che
chắn gió nên chỉ có một ít rừng ngập mặn trong các cửa sông, với các loài ưa nước lợ như:
bần, vẹt dìa, sú, ô rô… Bần có kích thước khá lớn, cao từ 8 m đến 12 m, đường kính từ 15
đến 25 cm.
– Khu vực ven biển miền Trung : kéo dài từ Lạch Trường đến Vũng Tàu.
Bãi bồi hẹp, ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên chỉ có những dãi rừng hẹp ở phía
trong các cửa sông, chủ yếu là các cây nhỏ, cây bụi, gồm có đước, đưng, vẹt, sú, mấm…
– Khu vực Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Hà Tiên :
Nơi đây có nhiều bãi bồi rộng, giàu phù sa, do hệ thống sông Đồng Nai, Cửu Long cung
cấp, ít gió bão nên rừng ngập mặn phát triển tốt, nhất là ở Cà Mau. Rừng có nhiều loài cây
như : đước, dưng, vẹt, dà, mấm, dừa nước. Chúng ta có các rừng ngập mặn ở các tỉnh :
Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau… và huyện Cần Giờ (TP.HCM). Riêng
tỉnh Bến Tre, các rừng ngập mặn ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, sau thời gian chiến tranh,
đến nay phần lớn là rừng trồng mới, và mang tính cách rừng phòng hộ môi trường hơn là
kinh tế, còn ở rừng ngập mặn Ba Tri có sân chim Mỹ Hòa, khá phong phú về giống loài
động vật và thực vật : về thực vật có 59 loài, trong đó có 39 loài thực vật trồng và 20 loài
hoang dại, tất cả thuộc 33 họ (Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 1996), và 84 loài chim thuộc 35 họ
(Trần Thanh Tòng, 1996)
Tuy nhiên, hiện nay rừng ngập mặn bị tàn phá nhiều để lấy đất làm đầm nuôi tôm, hoặc lấy
gỗ, củi… Rừng đã và đang suy thoái nghiêm trọng, chính nó đã gây ảnh hưởng xấu cho
nhân dân khi có thiên tai hoặc khí hậu thay đổi. Được đánh giá là rừng phòng hộ môi
trường có biện pháp quản lý tốt qua chính sách giao đất, khoán rừng, nổi bật và đáng kể
nhất là rừng ngập mặn Cần Giờ, và nên chú ý bảo quản cây chà là
2/ Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
 Chiến tranh:

Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa
gây suy thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến
tranh và 2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá
học do Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng
(WB, 1995). Sau khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng 9,5
triệu ha – với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một
diện tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho
quân và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí
do chiến tranh để lại sau đó.
 Khai thác quá mức.
– Khai thác gỗ:
Là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗ
tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với
vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu
m
3
/năm và khoảng 1-2 triệu m
3
ngoài kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai
đoạn 1992 -1996 khoảng 1,5 m
3
gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m
3
gỗ/năm được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Hình 2.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu rừng phòng hộ và
rừng đặc dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính

dẫn tới việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng
gỗ trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm.
Việc kinh doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm
soát thấp, việc xử lý những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn chế.
Ngổn ngang gỗ lậu.
– Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe
dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng
lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ
rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó
còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế
của nhiều người vùng núi.
– Khai thác, buôn bán các sản phẩm ngoài gỗ
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song,
mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài)
Chúng được khai thác với những mục địch khác nhau: để dùng, để bán trên thị trường
trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là khu hệ động vật hoang dã đã bị khai thác một cách
bừa bãi và kiệt quệ. Có khoảng 70 loài thuộc các lớp chim thú bò sát bị khai thác thường
xuyên để khai thác sử dụng cho các loại mục đích khác
việc kinh doanh các loài hoang dã nhát là rắn,rùa,baba ,tắc kè …để làm món ăn đặc sản
,làm thuốc,đồ lưu niệm …và xuất khẩu bất hợp pháp ngày càng tăng.
Trong khi đó khai thác lâm sản vốn là nguồn sống lâu đời của một bộ phận khá lớn người
dân
 Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có thực trạng chung như những nước đang tăng trưởng khác, diệntích rừng bị thu hẹp nhanh gọn. Theo map rừng của Maurand vào năm 1945 thì nướcta có 14,352 triệu ha rừng, chiếm tỷ suất 43,8 % so với diện tích quy hoạnh tự nhiên. Theo số liệu tìm hiểu của viện qui hoạch rừng thì đến năm 1975 còn 9,5 triệu ha rừng, chiếm 29,1 % diện tích quy hoạnh tự nhiên, đến năm 1981 còn 7,4 triệu, chiếm 24 %, đến năm 1989 có9, 3 triệu, trong đó có những rừng mới trồng. Diện tích rừng ở Việt Nam so với diện tích quy hoạnh đất tự nhiênSTT Khu vực Diện tích đất tự nhiên ( 1000 ha ) Diện tích rừng ( 1000 ha ) Tỷ lệ % diện tích quy hoạnh rừng / đất tự nhiên ( % ) 1 Bắc Bộ11. 570 6955 60,02 Trung Bộ 14.754 6580 44,63 Nam Bộ 6470 817 13,0 Cả nước 32.794 14.352 43,8 ( Theo Maurand, 1945 ) Diện tích rừng bị suy giảm từ 43 % xuống còn 28,2 % ( 1943 – 1995 ). Rừng ngập mặnven biển cũng bị suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng giảm 80 % diện tích quy hoạnh do bị quy đổi thành những ao – đầm nuôi trồng thuỷ món ăn hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích quy hoạnh rừng tuy có tăng lên 37 % ( năm 2005 ), nhưng tỷ suất rừng nguyên sinhcũng vẫn chỉ ở mức khoảng chừng 8 % so với 50 % của những nước trong khu vực. Đây là một thử thách lớn so với Việt Nam trong ứng phó với biến hóa khí hậu, trong cáchoạt động triển khai tiềm năng năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm mục đích tăng cườnghiệu quả bảo tồn và dịch vụ của những hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tàinguyên nước, giảm phát thải CO • Trong vòng 25 năm qua, hàng loạt vùng rừng tự nhiên mất đi hơn 5 triệu ha ở cả vùng caovà vùng ven biển, trung bình mỗi năm mất đi khoảng chừng 250.000 ha. Trong mấy năm qua, diện tích quy hoạnh rừng có khunh hướng tăng lên, 28,2 % theo thống kê đến năm 2004 thì độ che phủrừng toàn nước lên đến 36,7 % ( bảng 3.2 ) Bảng 3.2. Diễn biến về diện tích quy hoạnh rừng ở Việt Nam ( đơn vị chức năng tính : một triệu ha ) Năm 1945 1976 1980 1985 1990 1995 1999 2002 2004T ổngdiệntích ( ha ) 14,30 11,16 10,60 9,89 9,17 9,30 10,99 11,78 12,30 Rừng trồng ( ha ) 0,00 0,01 0,42 0,58 0,74 1,05 1,52 1,91 2,21 Rừngtựnhiên ( ha ) 14,30 11,07 10,18 9,30 8,43 8,25 9,47 9,86 10,89 Độ bao trùm ( % ) 43,00 33,80 32,10 30,00 27,80 28,20 33,20 35,8 36,7 ( nguồn : Báo cáo thực trạng môi trường tự nhiên Việt Nam, Phần Đa dạng sinh học, 2005 ) Các kiểu rừng chính ở Việt NamĐiều kiện tự nhiên khí hậu và những tác nhân khác đã tạo cho cây rừng sinh trưởng và pháttriển quanh năm, thảm thực vật rừng đa dạng và phong phú phong phú với nhiều kiểu rừng. Theo những nhàLâm nghiệp, người ta chia ra những kiểu rừng sau : ( Báo cáo về thực trạng thiên nhiên và môi trường ViệtNam năm 1994, Cục Môi trường ). 1. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đớiNgười ta còn gọi là rừng mưa nhiệt đới gió mùa, rừng nhiệt đới gió mùa ẩm, kiểu rừng này thường gặp trêncác vùng núi cao, dưới 800 m ở phía Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗnloài thuộc họ quen thuộc ở vùng nhiệt đới gió mùa như họ Đậu ( Papilionoideae ), họ Dầu ( Dipterocarpaceae ), chúng tăng trưởng xanh tươi thành nhiều tầng với nhiều năm tuổi khácnhau. Ở kiểu rừng này còn có rất nhiều thực vật phụ sinh như phong lan và cây dây leothân cỏ ( tuy nhiên mây ) và thân gỗ. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới gió mùa có hiệu suất sinh học rất cao, và có nhiều loài gỗ quí. Sự thuận tiện về thiên nhiên và môi trường, đa dạng chủng loại về thức ăn đã tạo ra một quần thể động vật hoang dã phongphú về chủng loại và số lượng. 2. Rừng khộpCòn gọi là rừng thưa nhiệt đới gió mùa, rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá, thường thấy ở miền Nam tại cácvùng có độ cao dưới 1000 m. Thành phần gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mứcđộ khác nhau. Trên nhiều vùng đất phẳng phiu ở Tây Nguyên thường đọng nước trong mùa mưa, và cạnnước trong mùa khô, thêm vào đó lửa rừng tàn phá thường Open rừng Khộp nghèo vớivài loài cây họ Dầu mọc thưa thớt, sinh trưởng chậm. Trên sườn dốc, nơi có tầng đất sâu hơn hoặc có nước tương đối thuận tiện hơn, nhất là ởvùng đất đỏ bazalt và ven sông suối thường Open rừng khộp phong phú, thành phần loàiphong phú, cây mọc dầy thành nhiều tầng xanh tươi, cho nhiều gỗ cứng, gỗ quí với kíchthước lớn như : Giáng hương, Trắc, Cẩm lai, Gụ, Mun … và nhiều loài gỗ Sao, Dầu. Rừng khộp là nơi tập trung chuyên sâu của nhiều loài thú nổi tiếng vùng Châu Á Thái Bình Dương như : Hươu, Nai, Voi, Khỉ, Vượn … trong đó có những loài thú quí hiếm của quốc tế như Bò xám Cuprey, Tê Giác. Rừng khộp nghèo để tạo thành đồng cỏ chăn nuôi. Đất rừng khộp giàu để tăng trưởng câycông nghiệp, cây lương thực và cây ăn trái … Ở rừng này, người ta thường vận dụng lối canhtác nông lâm tích hợp. 3. Rừng lá kimỞ những vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với những loài thực vật lá kim ( Tùng, Bách, Thông 2 lá, Thông 3 lá ) đã tạo nên những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên LâmĐồng. Tùy theo độ cao và chế độ ẩm đơn cử mà rừng thông hoàn toàn có thể xen lẫn với cây lá rộngcủa rừng Khộp hoặc của rừng thường xanh Á nhiệt đới. Rừng thông ở đây phân phối gỗ kiến thiết xây dựng, gỗ gia dụng, làm bột giấy. Nhựa thông dùng đểchế biến colofan, dầu thông, nhiều loại hóa chất khác nhau là những mẫu sản phẩm xuất khẩu cógiá trị cao. Ở dưới tán rừng thông hoặc xen kẻ với cây công nghiệp, cây thuốc, cây ăn tráihoặc những đồng cỏ chăn nuôi. Ở những vùng cao trên 1500 m thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng có rừng lá kim, nhưngkhu vực nhỏ hơn, thường gặp là thông, Pơmu là loại quí. 4. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đớiThường gặp ở những vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, hầu hết gồm những cây hiện diệnthuộc họ Dẻ ( Fagaceae ), họ Long Não ( Lauraceae ), họ Thạch Nam ( Ericaceae ) … và cáccây Tre, Nứa ( họ Poaceae ). thực vật phụ sinh tăng trưởng mạnh, thường là Phong lan ( Orchidaceae ), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng ( Polypodiaceae ) và những cây Thảo quả ( họZingiberaceae ). Ở vùng rừng này, người ta thường trồng những cây thuốc như : Đỗ Trọng ( họ Eucommiaceae ), Quế ( họ Lauraceae ), Nhân sâm ( họ Araliaceae ) … 5. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới gió mùa trên núi đá vôiThành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú và đa dạng, hầu hết là rừng thường xanh, cây rụnglá chiếm tỷ suất nhỏ. Các loài cây đặc hữu của vùng này gồm : Nghiến ( họ Tilliaceae ), câyKim giao ( họ Podocarpaceae ), cây Trai ly ( họ Clusiaceae ) … là những loại gỗ quí, thườngchúng có đặc thù chung là ưa Calci, chịu hạn, ít chịu chua. Nhiều loài vừa có bộ rễ pháttriển sâu, vừa có năng lực kiềm chế thoát nước trên mặt lá. Nhưng cũng có những loài rễcạn, chúng sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm và rụng lá vào mùa khô. Nơi gần đầunguồn do hang động đưa nước từ nơi khác đến, nên tất cả chúng ta thường gặp cây nhiệt đớithường xanh và Tre, Trúc. Rừng này thích hợp cho những loài vật cần hang động để lẫn trốnthú dữ như : Sơn dương, khỉ, vượn … Đây là loại rừng rực rỡ so với con người vì nơi đâycòn giữ lại nhiều nguồn gen, quí, có giá trị cao trong điều tra và nghiên cứu khoa học, rừng quốc giaCúc Phương được xây dựng theo kiểu này. 6. Rừng ngập mặn ở Việt NamỞ Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử dụng bởi nhân dân sốngtrong vùng biển nhiều thế kỷ không gây ra sự mất cân đối sinh thái xanh. Tuy nhiên trongnhững năm gần đây, sự ngày càng tăng dân số ( đặc biệt quan trọng sự di dân ), cống phẩm của nhân dân địaphương thấp, và sự tăng trưởng nhanh gọn kinh tế tài chính đã gây ra sự khai thác quá mức và sựphá hoại gây hậu quả cho những khu rừng ngập mặn. Vả lại, chủ trương của Việt Nam chosự tái thiết kế xây dựng kinh tế tài chính làm tăng trưởng sự khai thác những nguồn tài nguyên vạn vật thiên nhiên, dưới chủ trương này, sự tăng trưởng nuôi tôm trong những khu vực rừng ngập mặn là mộttrong những kế hoạch tăng trưởng vương quốc. Chính vì thế mà thủy canh được xem như mộttrong những mối rình rập đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam. Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinhtrưởng tốt, đặc biệt quan trọng là bán đảo Cà Mau ( tỉnh Cà Mau ). Trước năm 1945, ở Cà Mau có trên 150.000 ha rừng già, cây to cao, trong tổng số 400.000 ha rừng ngập mặn của cả nước. Nhưng trong thời hạn cuộc chiến tranh từ năm 1962 đến 1971, chất độc hóa học của Mỹ đã tiêu diệt nhiều khu rừng to lớn ở Cà Mau và huyện Cần Giờ ( TP.Hồ Chí Minh ) … Sau cuộc chiến tranh, Bộ Lâm Nghiệp đã cố gắng nỗ lực hồi sinh, có kế hoạch chỉ huy trồng lại rừngngập mặn, nhưng do nhiều cơ quan và nhân dân lại phá rừng làm đầm nuôi tôm nên diệntích rừng ngập mặn bị thu hẹp nhanh gọn. Theo GS. Phan Nguyên Hồng thì rừng ngập mặn ở Việt Nam có khoảng chừng hơn 50 loài cây, phân bổ không giống nhau ở những khu vực ven biển. Có 4 khu vực hầu hết như sau : – Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái ( Quảng Ninh ) đến Đồ Sơn ( Hải Phòng Đất Cảng ). Rừng ngập mặn tăng trưởng nhờ những hòn đảo che chắn ở phía ngoài. Các loài cây chủ yếu là : đước, vẹt, vẹt dìa, sú mấm. Do có mùa Đông lạnh nên cây chỉ cao từ 1,5 m đến 7 m. – Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Cửa Lạch Trường ( Thanh Hóa ) Tuy có những bãi bồi rộng, giàu phù sa, nhưng ở đây bãi biển trống trãi, không có những hòn đảo chechắn gió nên chỉ có một chút ít rừng ngập mặn trong những cửa sông, với những loài ưa nước lợ như : bần, vẹt dìa, sú, ô rô … Bần có size khá lớn, cao từ 8 m đến 12 m, đường kính từ 15 đến 25 cm. – Khu vực ven biển miền Trung : lê dài từ Lạch Trường đến Vũng Tàu. Bãi bồi hẹp, ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên chỉ có những dãi rừng hẹp ở phíatrong những cửa sông, hầu hết là những cây nhỏ, cây bụi, gồm có đước, đưng, vẹt, sú, mấm … – Khu vực Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Hà Tiên : Nơi đây có nhiều bãi bồi rộng, giàu phù sa, do mạng lưới hệ thống sông Đồng Nai, Cửu Long cungcấp, ít gió bão nên rừng ngập mặn tăng trưởng tốt, nhất là ở Cà Mau. Rừng có nhiều loài câynhư : đước, dưng, vẹt, dà, mấm, dừa nước. Chúng ta có những rừng ngập mặn ở những tỉnh : Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau … và huyện Cần Giờ ( TP.Hồ Chí Minh ). Riêngtỉnh Bến Tre, những rừng ngập mặn ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, sau thời hạn cuộc chiến tranh, đến nay phần đông là rừng trồng mới, và mang tính cách rừng phòng hộ môi trường tự nhiên hơn làkinh tế, còn ở rừng ngập mặn Ba Tri có sân chim Mỹ Hòa, khá đa dạng và phong phú về giống loàiđộng vật và thực vật : về thực vật có 59 loài, trong đó có 39 loài thực vật trồng và 20 loàihoang dại, toàn bộ thuộc 33 họ ( Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 1996 ), và 84 loài chim thuộc 35 họ ( Trần Thanh Tòng, 1996 ) Tuy nhiên, lúc bấy giờ rừng ngập mặn bị tàn phá nhiều để lấy đất làm đầm nuôi tôm, hoặc lấygỗ, củi … Rừng đã và đang suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng, chính nó đã gây tác động ảnh hưởng xấu chonhân dân khi có thiên tai hoặc khí hậu biến hóa. Được nhìn nhận là rừng phòng hộ môitrường có giải pháp quản trị tốt qua chủ trương giao đất, khoán rừng, điển hình nổi bật và đáng kểnhất là rừng ngập mặn Cần Giờ, và nên chú ý quan tâm dữ gìn và bảo vệ cây chà là2 / Nguyên nhân2. 1. Nguyên nhân trực tiếp  Chiến tranh : Chiến tranh không những là nguyên do trực tiếp mà còn là nguyên do sâu xagây suy thoái và khủng hoảng ĐDSH. Trong tiến trình 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiếntranh và 2 cuộc xung đột biên giới rất là quyết liệt. Chỉ trong tiến trình từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoáhọc do Mỹ rải xuống hầu hết ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng chừng 4,5 triệu ha rừng ( WB, 1995 ). Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh diện tích quy hoạnh rừng cả nước chỉ còn lại khoảng chừng 9,5 triệu ha – với 10 % rừng nguyên sinh, chiếm khoảng chừng 28 % diện tích quy hoạnh cả nước. Chiến tranh đã gây dịch chuyển lớn về phân bổ dân cư giữa những vùng, đồng thời mộtdiện tích lớn đất rừng bị khám phá để trồng cây lương thực bảo vệ phục vụ hầu cần tại chỗ choquân và dân. Không những thế những loài động vật hoang dã hoang dã còn bị rình rập đe dọa bởi những loại vũ khído cuộc chiến tranh để lại sau đó.  Khai thác quá mức. – Khai thác gỗ : Là mối rình rập đe dọa lớn so với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗtự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng tác động lớn đối vớivùng cư trú của những loài động vật hoang dã hoang dã. Trong quy trình tiến độ từ năm 1986 – 1991, trung bình lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu / năm và khoảng chừng 1-2 triệu mngoài kế hoạch ( khoảng chừng 80.000 ha bị mất mỗi năm ) ; giaiđoạn 1992 – 1996 khoảng chừng 1,5 mgỗ / năm ; Từ năm 1997 tới nay khoảng chừng 0,35 triệu mgỗ / năm được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam. Hình 2.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừngNạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong những khu rừng phòng hộ vàrừng đặc dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị hết sạch nhanh gọn. Nguyên nhân chínhdẫn tới việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó trấn áp vì nhu yếu dùnggỗ trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm. Việc kinh doanh thương mại gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu suất cao kiểmsoát thấp, việc giải quyết và xử lý những vụ vi phạm khai thác và luân chuyển gỗ trái phép còn hạn chế. Ngổn ngang gỗ lậu. – Khai thác củi làm nguyên vật liệu : Khai thác củi làm nguyên vật liệu có quy mô lớn và kho trấn áp, đây cùng là mối đedọa rất lớn so với ĐDSH. Nhu cầu nguồn năng lượng từ củi chiếm tới 75 % tổng nhu yếu nănglượng của quốc gia, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nguyên vật liệu được khai thác từrừng tự nhiên ( RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nguyên vật liệu gỗ củi ) Trước năm 1995, có khoảng chừng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đócòn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thếcủa nhiều người vùng núi. – Khai thác, kinh doanh những loại sản phẩm ngoài gỗRừng Việt Nam có khoảng chừng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như tuy nhiên, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc ( khoảng chừng 1.000 loài ) Chúng được khai thác với những mục địch khác nhau : để dùng, để bán trên thị trườngtrong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là khu hệ động vật hoang dã hoang dã đã bị khai thác một cáchbừa bãi và kiệt quệ. Có khoảng chừng 70 loài thuộc những lớp chim thú bò sát bị khai thác thườngxuyên để khai thác sử dụng cho những loại mục tiêu khácviệc kinh doanh thương mại những loài hoang dã nhát là rắn, rùa, baba, tắc kè … để làm món ăn đặc sản nổi tiếng, làm thuốc, đồ lưu niệm … và xuất khẩu phạm pháp ngày càng tăng. Trong khi đó khai thác lâm sản vốn là nguồn sống truyền kiếp của một bộ phận khá lớn ngườidân  Xây dựng hạ tầng .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận