Sài Gòn nhân vật

Giới thiệu sơ lược một số ít nhân vật của TP HCM – Gia Định trong 300 năm qua. Có người sinh trưởng ở TP HCM – Gia Định, có người quê quán ở nơi khác nhưng cuộc sống và hoạt động giải trí lại gắn bó với quy trình tăng trưởng của thành phố .
Tên nhân vật xếp theo thứ tự A, B, C. ..

Sương Nguyệt Anh (1864 – 1921)

Tên thật là Nguyễn Xuân Khuê, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ, bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ.
Năm 1918 bà làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (xuất bản ở Sài Gòn), trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là chủ bút tờ báo của giới phụ nữ nước ta.

Bạn đang đọc: Sài Gòn nhân vật">Sài Gòn nhân vật

Nguyễn Thái Bình

Sinh 14-1-1948 tại Cần Giuộc, Long An. Mười giờ sáng ngày 2-7-1972 khi chiếc Boeing 747 mang số hiệu 841 của hãng hàng không Liên Mỹ PAN AM vừa đáp xuống trường bay sân bay Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thái Bình đã bị William H. Mills, nhân viên cấp dưới cơ quan tình báo Mỹ CIA, cùng đi trên máy bay bắn 4 phát đạn vào ngực rồi ném xác anh xuống đường sân bay .
Hai tháng trước đó, Nguyễn Thái Bình tốt nghiệp kỹ sư công nghiệp thực phẩm và ngư nghiệp với hạng danh dự tại Viện ĐH Washington. Được cấp học bổng Leadership đi du học tại Mỹ từ năm 1968, anh luôn nghĩ về quốc gia mình, dân tộc bản địa mình. Anh tham gia những cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Nước Ta, viết nhiều bài báo ( bằng tiếng Việt và tiếng Anh ) tố cáo những tội ác mà quân viễn chinh Mỹ gây ra cho đồng bào mình, làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc bày tỏ khát vọng độc lập và tự do của nhân dân Nước Ta. Đặc biệt trong lễ phát bằng tốt nghiệp ĐH ( 5-1972 ) anh công bố tài liệu Nợ máu ( Blood Debt ), lên án nhà nước Mỹ đã gây ra bao đau thương, chết chóc và tàn phá trên quê nhà anh. Trong thư ngỏ gửi Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon đề ngày 1-7-1972 tức một ngày trước khi quyết tử, Nguyễn Thái Bình viết : ” [ Tôi ] trở lại Nước Ta để đứng trong hàng ngũ nhân dân Nước Ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bản địa … Không một vũ khí nào, không một rình rập đe dọa nào hoàn toàn có thể khiến tôi chùn bước … Nếu tôi có bị giết thì cả triệu người Nước Ta sẽ thay thế sửa chữa tôi chiến đấu cho tới ngày nào chúng tôi chấm hết được cuộc chiến vô luân, vô nhân đạo này ” .

Trương Tấn Bửu (1752 – 1827)

Danh tướng đời Gia Long, quê làng Hưng Lễ, Bảo Phước, tỉnh Vĩnh Long ( nay là Giồng Trôm, Bến Tre ). Theo giúp Nguyễn Phúc Ánh Gia Long, làm Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng, quyền lãnh chức Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Nhâm Thân 1812, thực thụ Phó Tổng trấn Gia Định. Ông mất ngày 2-8-1827 tại Phú Nhuận. Thành phố Hồ Chí Minh còn miếu mộ ông .

Nguyễn Hữu Cảnh (tức Nguyễn Hữu Kính, 1650 – 1700)

Quê gốc ở Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1692 ông làm Tổng binh, lập trấn Thuận Thành ( Ninh Thuận và Bình Thuận ngày này ), sau làm Trấn thủ dinh Bình Khang ( Khánh Hòa thời nay ) .
Năm 1698, ông được cử làm Thống suất vào Nam Kinh lược xây dựng những đơn vị chức năng hành chính, thiết kế xây dựng cỗ máy chính quyền sở tại những phủ, dinh, huyện, chiêu tập dân khai khẩn đất hoang, lập làng, xóm. Ông được phong tước Lễ Thành Hầu và Vĩnh An Hầu. Sau khi qua đời, ông được nhiều địa phương ở Nam Bộ thờ làm Thành hoàng .

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)

Quê làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Đỗ tú tài trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Ra Huế học thêm để chờ khoa thi Kỷ Dậu 1849. Bỗng được tin mẹ mất, ông trở về chịu tang, dọc đường bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Ông về Gia Định dạy học.

Pháp chiếm Gia Định ông lui về Ba Tri, tỉnh Bến Tre, liên tục dạy học và làm thuốc. Liên hệ mật thiết với nghĩa binh Trương Định. Tích cực dùng văn chương khơi dậy lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân .

Nguyễn Văn Cừ

Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh ngày 9-7-1912. Quê Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1930, ông làm Bí thư tiên phong đặc khu Hòn Gai – Uông Bí, năm 1937 dự Hội nghị Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng .
Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương .
Mùa thu năm 1939, ông vào TP HCM cùng những ông Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu … mở Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Tháng 6-1940, ông bị bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiệm, TP HCM .
Ngày 28-8-1941, ông bị thực dân Pháp xử bắn tại Bà Điểm – Hóc Môn .

Lê Văn Duyệt (1763 – 1832)

Quê Quảng Ngãi. Từ 1780 theo Nguyễn Ánh chống Tây Sơn. Tổng trấn Gia Định năm 1813, năm 1816 triều đình triệu về kinh, năm 1820 trở lại làm Tổng trấn Gia Định, năm 1832 mất tại chức. Là người có công lớn trong việc khai hoang lập ấp ở đất Gia Định. Tại xã Bình Hòa nay là quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh còn phần mộ ông – Lăng đức Tả quân, Lăng Thượng Công hay Lăng Ông Bà Chiểu.

Nguyễn Cửu Đàm

Giữ chức Điều khiển. Năm 1772, ông cầm quân đánh đuổi đạo quân Xiêm ( do chính Vua Xiêm Trịnh Quốc Anh chỉ huy ) ra khỏi chủ quyền lãnh thổ Cao Miên, giải phóng những thành Nam Vang, La Bích .
Về lại Gia Định, ông cho xây lũy Bán Bích dài 15 dặm để bảo vệ Hồ Chí Minh .

Lê Quang Định (1759 – 1813)

Hiệu Cấn Trai, quê huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Học với Võ Trường Toản, kết bạn với Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, được người đương thời xưng Tặng là Gia Định Tam gia, lập Thi xã Tỉnh Bình Dương, được sĩ phu đường thời khen ngợi .
Năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, mở khoa thi, ông và Trịnh Hoài Đức trúng tuyển, được cử làm Hàn Lâm viện chế cáo, rồi thăng đến Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Hộ. Biên soạn Hoàng Việt nhất thống địa dư chí. Ông mất năm Quý Dậu 1813 .

Nguyễn Huỳnh Đức (? – 1819)

Danh tướng đời Gia Long, tên thật Huỳnh Tường Đức, vì lập công lớn nên được mang họ vua. Quê Thủ Thừa, Long An, làm Hiệp Tổng trấn Gia Định cùng với Trịnh Hoài Đức .

Thích Quảng Đức (1897 – 1963)

Tên thật là Lâm Văn Tuất còn có tên là Nguyễn Văn Khiết, quê Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Sinh năm 1897. Ngôi chùa ở đầu cuối ông trụ trì là chùa Quan Thế Âm ( nay ở 90 đường Thích Quảng Đức, thành phố Hồ Chí Minh ) .
11-6-1963, trong cuộc tuần hành của trên 1.000 vị tăng sĩ và giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền Nam chống đế chế độc tài Ngô Đình Diệm, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt ( nay là góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Cách Mạng Tháng Tám ), ông tự thiêu đòi bình đẳng tôn giáo, chống đàn áp Phật giáo và đòi dân số dân chủ .

Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825)

Vốn gốc người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, đến đời ông nội là Trịnh Hội sang nước ta ngụ ở Phú Xuân ( Huế ), sau vào Biên Hòa lập nghiệp. Làm quan với chúa Nguyễn Ánh, làm đến Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hình và Phó tổng tài Quốc sử quán .
Ông nổi tiếng văn chương một thời, cùng Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh được người đời xưng Tặng Kèm là Gia Định Tam gia trong nhóm Tỉnh Bình Dương Thi xã. Ông là tác giả tác phẩm Gia Định thành thông chí .

Phạm Thế Hiển (1803 – 1861)

Quê Đông Quan, Tỉnh Nam Định. Năm 1829, đỗ Tam giáp đồng tiến sỹ. Khi giặc Pháp xâm lược miền Nam, ông cùng vào Nam với Tổng đốc quân vụ Nguyễn Tri Phương, chống giữ đại đồn Chí Hòa .
Năm 1861, giặc Pháp tiến công ác liệt, đánh chiếm được Gia Định. Nguyễn Tri Phương lui binh về giữ Biên Hòa. Ông bị thương và mất sau đó .

Hồ Hảo Hớn (1926 – 1967)

Bí danh Hai Nghị, sinh tại Bến Tre. Năm 1962 là Bí thư Ban cán sự sinh viên học viên Hồ Chí Minh, 1965 là Phó Bí thư Khu đoàn Hồ Chí Minh – Gia Định, rồi Bí thư Thành đoàn Thanh niên Lao động ( 1967 ). Tháng 10-1967, bị giặc bắt ở gần bót Bà Hòa và quyết tử tại đây .

Phan Văn Hớn

Quê ở Hóc Môn, tỉnh Gia Định ( nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ) .
Đêm 8 rạng ngày 9-2-1885, ông cùng Nguyễn Văn Quá chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở vùng 18 Thôn Vườn Trầu, đánh chiếm Q. Hóc Môn, giết tay sai đầu sỏ Đốc phủ Trần Tử Ca, sau đó kéo xuống đánh Hồ Chí Minh, nhưng giữa đường bị quân Pháp chặn lại. Cuộc khởi nghĩa tan vỡ. Ông bị bắt và xử tử hình cùng với Nguyễn Văn Quá và 1 số ít người khác vào sáng ngày 30-3-1886 .

Nguyễn Văn Hưởng

Ông Nguyễn Văn Hưởng (tức Nguyễn Thành Tâm), sinh ngày 24-12-1906, quê xã Mỹ Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang), ông tốt nghiệp tiến sĩ y khoa tại Pháp năm 1932, ông tham gia hoạt động cách mạng năm 1945, vào Đảng CS ngày 3-7-1953. Năm 1945, Thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ; tháng 9-1945, là Trưởng ban Y tế và bào chế của sở Y tế Nam Bộ. Tháng 3-1946, làm công tác vận động trí thức, tiếp tế thuốc cho khu 7 để săn sóc cán bộ hoạt động nội thành và ở khu về. Tháng 6-1947, là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ; kiêm Giám đốc Sở Y tế quân dân Nam Bộ. Tháng 3-1955, là Trưởng đoàn đại biểu nhân dân Nam Bộ đi dự Hội nghị châu Á tại Niu Đê-li (Ấn Độ). Tháng 7-1955, là Giám đốc Bệnh viện 303. Tháng 1956, là Giám đốc Viện Vi trùng học. Năm 1958, được phân công kiêm Giám đốc Viện nghiên cứu Đông y. Năm 1959, là Giám đốc Viện nghiên cứu Đông y. Tháng 4-1969, được bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Y tế. Tháng 5-1970, ông được Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ định là Bí thư Đảng Đoàn Bộ Y tế. Năm 1956, ông là ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Năm 1960, ông là Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1964- 1971, ông là Phó Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội, là Đại biểu Quốc hội khóa I, II, III.

Ông là ủy viên Chủ tịch Đoàn UBT.Ư Mặt trận Tổ quốc Nước Ta .
Do công lao và thành tích so với cách mạng, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Anh hùng Lao động, Huân chương Độc Lập hạng nhất và nhiều Huân chương, Huy chương cao quý khác .

(Theo báo Tuổi Trẻ số 92/98 ngày 8/8/1998)

Nguyễn Thị Minh Khai (1910 – 1941)

Quê Vĩnh Yên, Nghệ An. Năm 1927, gia nhập Đảng Tân Việt. Năm 1930, sang Trung Quốc làm việc ở Văn Phòng Đông Dương Bộ Quốc tế Cộng sản.

Năm 1936, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, làm Bí thư Thành ủy TP HCM – Chợ Lớn .
30-7-1940 bà bị địch bắt. Ngày 28-8-1941, bà bị xử bắn cùng những chiến sỹ Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ tại Hóc Môn .

Trần Tuấn Khải (1895 – 1983)

Nhà thơ, bút hiệu Đông Minh Đông Á Thị, Á Nam, quê làng Quán Xán, huyện Mi Lộc, tỉnh Nam Định.

Sau năm 1954, ông sống ở Hồ Chí Minh và thao tác tại Thư viện vương quốc, Viện khảo cổ, nhân viên Hán học tại Nhà văn hóa. Ông góp mặt trong những trào lưu chống văn hóa truyền thống đồi trụy, tranh đấu đòi độc lập, dân số, dân chủ .
Năm 1966, ông cùng 1 số ít tri thức văn minh ký tên nhu yếu chính quyền sở tại Hồ Chí Minh hiệp thương với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nên bị buộc nghỉ việc. Sau đó ông làm quản trị danh dự Lực lượng bảo vệ văn hóa truyền thống dân tộc bản địa .

Lê Văn Khôi (? – 1835)

Dũng tướng đời Minh Mạng, con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn thành Phiên An ; làm Phó Vệ úy. Lê Văn Duyệt mất ( năm 1832 ), Nguyễn Văn Quế thay làm Tổng đốc cùng Bố chánh Bạch Xuân Nguyên vu nhiều tội cho Tả quân, ông cũng bị ngồi tù. Ông phá ngục dấy binh chiếm thành Gia Định, bắt giết Nguyễn Văn Quế và Bạch Xuân Nguyên, tự xưng là Bình Nam Đại nguyên soái. Tháng 7-1935, cuộc làm mưa làm gió bị dẹp tan. Hơn 1.830 người bị giết gom chung vào một huyệt, gọi là mả ngụy ( nay còn dấu vết ở phía Tây thành phố Hồ Chí Minh ) .

Trương Minh Ký (1855 – 1900)

Quê làng Tân Thới, huyện Tỉnh Bình Dương, tỉnh Gia Định ( nay thuộc Q. 5, thành phố Hồ Chí Minh ). Một trong những người Nước Ta tiên phong được đi du học ở Lycée de Anger thuộc Pháp. Dạy tại những trường Chasseloup Laubat, trường Thông ngôn tại TP HCM. Là cộng tác viên thường trực của Trương Vĩnh Ký cho tờ Gia Định báo. Sau đó, ông làm chủ bút tờ này. Trương Minh Ký là một trong những người Nước Ta sử dụng chữ quốc ngữ sớm nhất trong việc trước tác, điều tra và nghiên cứu .

Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898)

Tự là Sĩ Tải, tên thánh Petrus Jean-Baptiste, quê ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long. Thông thạo 15 sinh ngữ. Là Hội viên Hội nhân chủng học và khoa học miền Tây nước Pháp, Hội chuyên học nói tiếng phương Đông, Hội chuyên khảo văn hóa Á châu… Chủ bút tờ Gia Định báo (1868). Ông trước tác nhiều thể loại và có nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ về học thuật. Năm 1898, ông mất, để lại cho đời hơn 100 bộ sách giá trị. Đặc biệt là bộ Từ điển danh nhân An Nam, bộ Thông loại khóa trình do ông chủ biên xuất bản được 18 tập có giá trị về văn học cổ Việt Nam.

Nguyễn Hiến Lê (1912 – 1984)

Quê Quảng Oai, Sơn Tây. Sau Cách mạng Tháng Tám dạy học ở Long Xuyên, năm 1952 lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, sống bằng ngòi bút.

Trong đời cầm bút của mình, ông đã xuất bản được đúng 100 bộ sách về nhiều nghành văn học, ngôn ngữ học, triết học, giáo dục. Những năm 1960, chính quyền sở tại TP HCM đã Tặng ông ” Trao Giải văn chương toàn nước ” với một ngân phiếu lớn ( tương tự mấy chục lượng vàng ), ông đã công khai minh bạch phủ nhận với nguyên do ” dùng tiền ấy để giúp nạn nhân cuộc chiến tranh ” và bản thân tác giả không hề tranh giải .

Châu Văn Liêm

Sinh ngày 29-6-1902, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Tốt nghiệp Sư phạm Sài Gòn. Tham gia cải tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để thành lập Đảng Cộng sản.

Ngày 4-5-1930, ông chỉ huy cuộc biểu tình hàng nghìn quần chúng từ Đức Hòa lên Chợ Lớn, hô hào đòi giải phóng dân tộc bản địa, giảm sưu thuế …, bị Pháp bắn chết lúc 28 tuổi .

Nguyễn Văn Linh (1.7.1915 – 27.4.1998)

Ông Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1915 trong một gia đình công chức tại xã Gia Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 14 tuổi trong phong trào học sinh và công nhân, được kết nạp vào Đảng CS Đông Dương năm 1936.

Ông đã hai lần bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo ( lần I : 1930 – 1936, lần II : 1941 – 1945 ) .
Gần 70 năm liên tục hoạt động giải trí Cách mạng, ông đã đảm nhiệm nhiều trách nhiệm quan trọng, trong đó có những chức vụ Bí thư Đặc khu ủy TP HCM – Gia Định. Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Thành ủy TP. HCM. Từ tháng 12-1986 đến tháng 6-1991, ông được bầu làm Tổng Bí thư BCH T.Ư Đảng CS Nước Ta. Sau đó được cử làm Cố vấn BCH T.Ư Đảng .
Ông từ trần vào hồi 8 giờ 12 phút ngày 27 tháng 4 năm 1998 tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 83 tuổi .
Tên tuổi và sự nghiệp Cách mạng của ông đã gắn liền với sự nghiệp Cách mạng Giải phóng Dân tộc, sự nghiệp kiến thiết xây dựng XHCN, sự nghiệp thay đổi của Đảng và nhân dân ta .

Phan Xích Long (1898 – 1916)

Tên thật là Phan Phát Sanh, sinh tại Chợ Lớn. Từ 1911, cùng Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn Văn Hiệp, tổ chức một hội kín. Tự tôn là Phan Xích Long Hoàng đế, lập căn cứ ở núi Thất Sơn.

Đêm 23 rạng ngày 24-3-1913, họ ném bom và tạc đạn ở Hồ Chí Minh và Chợ Lớn, nhưng bom không nổ và kế hoạch đã bị lộ trước đó. Phan Xích Long trước đó 2 ngày đã bị bắt ở Phan Thiết. Ông bị giam ở Khám lớn Hồ Chí Minh. Đêm 16-2-1916, khoảng chừng 300 hội viên kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một tay cầm gươm mác xông vào phá ngục. Pháp thẳng tay khủng bố giết chết tại trận nhiều chiến sỹ. Sau đó đưa 38 người, trong đó đứng đầu là ông, xử bắn tại đồng Tập Trận .

Thái Văn Lung (1916 – 1946)

Sinh tại huyện Quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định ( nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ) trong một mái ấm gia đình tri thức theo đạo Thiên Chúa. Tốt nghiệp cử nhân luật khoa tại Đại học Paris ( Pháp ), ông về nước làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Hồ Chí Minh. Trong quy trình tiến độ tiền khởi nghĩa, ông tham gia xây dựng Thanh niên Tiền phong, đảm nhiệm trưởng ban đào tạo và giảng dạy quân sự chiến lược của tổ chức triển khai này. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được nhân dân bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I .
Pháp trở lại xâm lược nước ta, ông được cử làm quản trị Ủy ban Kháng chiến huyện Quận Thủ Đức, chỉ huy Lực lượng vũ trang của huyện ( mà nhân dân quen gọi là bộ đội Thái Văn Lung ) .
Trong một trận đánh, ông bị giặc bắt. Chúng tìm mọi cách dụ dỗ mua chuộc nhưng ông vẫn giữ vững khí tiết của nhà trí thức yêu nước. Ông bị tra tấn đến chết khi mới tròn 30 tuổi .

Hồ Chí Minh (1890 – 1969)

Tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ cách mạng Việt Nam, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc còn nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung. Trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác (Lý Thụy, Anh Ba, Vương Sơn Nhi, Chàng Vương, Tống Văn Sơ, Hồ Quang, Thầu Chín). Con cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) và bà Hoàng Thị Loan, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Ông xuất thân trong một mái ấm gia đình Nho học yêu nước, thuở nhỏ mưu trí, hiếu học. Đến tuổi thiếu niên theo phụ vương vào Huế học tại Trường tiểu học Đông Ba, Trường Trung học Quốc học. Đầu năm 1911 ông bỏ học với dự tính ra quốc tế tìm đường cứu nước. Trên đường vào TP HCM ông ghé Phan Thiết ( thủ phủ tỉnh Bình Thuận, nay thuộc tỉnh Bình Thuận ), dạy học một thời hạn ngắn tại Trường Dục Thanh do những nhà yêu nước lập ra. Sau ông vào Hồ Chí Minh lấy tên là anh Ba làm phụ bếp cho tàu buôn Amiral Latouche Tréville, rồi sang Pháp khám phá tình hình quốc tế. Tại đây ông liên hệ mật thiết với nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường … và đến những nước Anh, Đức, Mỹ một thời hạn .
Năm 1917, ông tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập Hội những người Nước Ta yêu nước để tuyên truyền và giác ngộ Việt kiều Pháp. Năm 1918 ông cùng những nhà yêu nước khác gửi đến Hội nghị Versailles một yêu sách gồm 8 điểm đòi tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của người Nước Ta với tên là Nguyễn Ái Quốc .
Năm 1921, ông tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng Cộng sản Pháp ( 1923 ) ông được cử tham gia quản trị đoàn Đại hội. Ở đây ông và những chiến sỹ khác xuất bản tờ báo Le Paria ( Người cùng khổ ) làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Cuối năm 1923 ông sang Liên Xô với tư cách là đại biểu của nông dân những nước thuộc địa. Tại hội nghị Quốc tế nông dân ông được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân. Trong thời hạn này ông thao tác ở Quốc tế Cộng sản và viết bài cho những báo Sự Thật, Thư tín Quốc tế .
Cuối năm 1924, ông về Quảng Châu Trung Quốc ( Trung Quốc ) với tên là Lý Thụy công tác làm việc trong phái đoàn Brodine ( cố vấn Liên Xô bên cạnh cơ quan chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc ). Tại đây ông sáng lập Nước Ta Thanh niên Cách mạng chiến sỹ hội tập hợp những nhà yêu nước ở quốc tế và tham gia thành lập Hội liên hiệp những dân tộc bản địa bị áp bức ở Á Đông. Năm 1927 sau vụ khởi nghĩa Quảng Châu Trung Quốc ông đi Liên Xô, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ … Giữa năm 1928 về hoạt động giải trí ở Xứ sở nụ cười Thái Lan và xuất bản báo Thân ái. Các năm 1930 – 1931, tuy ở quốc tế ông vẫn chỉ huy thực thi trào lưu Xô Viết ở Nghệ Tĩnh và những tỉnh khác. Tháng 6 – 1932 ông bị mật thám Anh bắt tại Hương Cảng, đến đầu năm 1933 mới được trả tự do, sau đó ông trở lại Liên Xô học tại Trường Đại học Lénine. Năm 1938 ông về hoạt động giải trí ở Quảng Tây ( Trung Quốc ) trong đơn vị chức năng Bát lộ quân Trung Quốc, đầu năm 1939 ông liên lạc được với Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương qua xứ ủy Bắc Kỳ .
Cuối năm 1940 ông về nước, lập địa thế căn cứ ở Pác Bó ( nay thuộc tỉnh Cao Bằng ) đào tạo và giảng dạy cán bộ và trực tiếp chỉ huy công tác làm việc kiến thiết xây dựng những hội Cứu quốc ở những địa phương để chuẩn bị sẵn sàng Tổng khởi nghĩa .
Tháng 8 năm 1942 ông lấy tên là Hồ Chí Minh rồi trở sang Trung Quốc liên lạc với những tổ chức triển khai cách mạng của người Nước Ta ở đó. Vừa đến biên giới thì bị chính quyền sở tại địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam một năm. Trong thời hạn ngồi tù ông viết tập thơ Ngục trung nhật ký ( Nhật ký trong tù ). Tháng 9 năm 1943, sau khi được trả tự do, ông tiếp xúc với những tổ chức triển khai chống Pháp – Nhật của người Nước Ta ở Liễu Châu, bắt liên lạc được với Đảng rồi trở về nước chỉ huy cách mạng. Cuối năm 1944 ông xây dựng Đội Nước Ta tuyên truyền giải phóng quân và lập Khu giải phóng Việt Bắc sẵn sàng chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945. Ông chủ tọa Hội nghị Quốc dân toàn nước ( Quốc dân đại hội ). Tại Đại hội ông được bầu làm quản trị. Ngày 25-8-1945 ông về TP.HN chủ tọa phiên họp của Tổng bộ Việt Minh xây dựng chính phủ nước nhà lâm thời .
Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, quản trị Hồ Chí Minh thay mặt đại diện chính phủ nước nhà đọc bản Tuyên ngôn độc lập do ông viết, công bố xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấm hết chính quyền sở tại phong kiến, thực dân ngự trị vĩnh viễn trên quốc gia Nước Ta. Đến ngày 19-12-1946 do sự khiêu khích của thực dân Pháp, quản trị ra Lời lôi kéo toàn nước kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến lê dài đến năm 1954 – với thắng lợi ở Điện Biên Phủ – quân Pháp bị bắt buộc ký hiệp định Genève rút quân ra khỏi Nước Ta. Đầu năm 1955 quản trị từ chiến khu Việt Bắc trở về Thành Phố Hà Nội trước sự nghênh tiếp tưng bừng của nhân dân Thủ đô. Các năm 1957 – 1960 quản trị đi thăm những nước Xã hội Chủ nghĩa nhằm mục đích thắt chặt tình hữu nghị và tổng kết yếu tố kế hoạch của cách mạng quốc tế .
Sau khi Mỹ can thiệp vào miền Nam và cuộc chiến tranh xảy ra ác liệt, ở cả hai miền, quản trị Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt quan trọng ( 27-3-1964 ) nhằm mục đích tăng cường khối đoàn kết toàn dân triển khai thắng lợi cho cách mạng .
Trong những năm cuối đời, sức khỏe thể chất sút giảm, quản trị vẫn sáng suốt lãnh đạo nhân dân kiến thiết xây dựng và kháng chiến .
Ngày 2-9-1969 ( lúc 9 giờ 47 phút ) quản trị Hồ Chí Minh từ trần tại TP. Hà Nội hưởng thọ 79 tuổi để lại sự thương tiếc khôn nguôi trong lòng nhân dân Nước Ta. Trước khi về quốc tế bên kia quản trị có lời ” Di chúc ” về việc riêng ” Tôi nhu yếu thi hài tôi được đốt đi, tức là ” hỏa táng ” ( … ) Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào cái hộp sành. Một cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam .
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, thoáng đãng, chắc như đinh, thoáng mát, để cho những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi ” .
Trong lễ Quốc tang quản trị, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành TW Đảng Lao động Nước Ta đọc bài ” Điếu văn ” trong đó có đoạn :
” Dân tộc ta, nhân dân ta, giang sơn quốc gia ta đã sinh ra Hồ quản trị, người anh hùng dân tộc bản địa vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc bản địa ta, nhân dân ta và giang sơn quốc gia ta ” .
Một tác giả khuyết danh – trước đây ở Hồ Chí Minh – trân trọng điếu quản trị :


“Thế giới đạo tiền trình, âu á kim vô hậu bối;
Vĩ nhân tân xã hội, Mã liệt chi hận hữu tiên sinh”.

Nghĩa :

Vạch ra con đường lên thế giới mới, xưa nay âu á chưa từng có như người;
Vĩ nhân của xã hội mới, sau Các Mác, Lê Nin chỉ có người mà thôi.

Ngoài một nhà cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một nhà văn, một nhà lý luận sáng giá. Ông còn để lại đời các tác phẩm nổi tiếng:

  • Đường Kách mệnh
  • Bản án chế độ thực dân Pháp
  • Con rồng tre
  • Nhật ký trong tù
  • Tuyên ngôn độc lập
  • Sửa đổi lề lối làm việc
  • ….

Và một số lớn tác phẩm thơ văn khác…
quản trị Hồ Chí Minh : một lãnh tụ vĩ đại, một anh hùng dân tộc bản địa, một danh nhân văn hóa quốc tế – Người mãi mãi là Bác Hồ kính yêu của nhân dân Nước Ta .

(Từ điển nhân vật lịch sử VN – NXB Văn hóa)

Hồ Huấn Nghiệp (1828 – 1864)

Tự Thiệu Tiên, người làng An Định, huyện Tỉnh Bình Dương, tỉnh Gia Định ( nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ) .
Ông học giỏi, nhưng vì cha mất, phải nuôi mẹ già, ông không đi thi, mở trường dạy học. Nhưng khi Pháp chiếm Gia Định, ông tham gia cuộc kháng chiến do Trương Định chỉ huy, được cử làm Tri phủ Tân Bình ( chính quyền sở tại bí hiểm trong vùng địch chiếm ), thường điều động binh sĩ và lương thực tiếp tế cho Trương Định .

Nguyễn Văn Nguyễn (1910 – 1953)

Sinh tại xã Điều Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang), học Trường Sư phạm Sài Gòn.

Sớm giác ngộ cách mạng, ông được kết nạp vào Nước Ta Thanh niên Cách mạng chiến sỹ Hội và trở thành một trong những đảng viên tiên phong của Đảng. Ông tham gia nhiều hoạt động giải trí do Đảng chỉ huy như trào lưu Đông Dương đại hội, làm thư ký báo L’Avant – garde ( Tiền Phong ) của Đảng, tham gia chỉ huy cuộc giành chính quyền sở tại ở Hồ Chí Minh ngày 25-8-1945. Cách mạng Tháng Tám thành công xuất sắc, ông đắc cử làm đại biểu Quốc hội khóa I .
Trong kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở tin tức Nam Bộ, Giám đốc Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, chủ bút tờ báo Cứu quốc Nam Bộ .
Trên đường ra miền Bắc nhận công tác làm việc, ông qua đời vì bệnh ngày 25-3-1953 .

Nguyễn An Ninh (1900 – 1943)

Quê quán Hóc Môn, Gia Định ( nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ) .
Năm 1920, ông đỗ cử nhân luật tại Pháp. Về nước, ông diễn thuyết, viết sách, ra báo Cloche Fêlée ( Chuông Rè ). Ông được dân chúng ở Nam Bộ hâm mộ, tôn làm thần tượng một thời. Thực dân Pháp rất sợ, nhiều lần bắt giam ông. Trong những năm 1930, ông sát cánh với những chiến sỹ cộng sản ( Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai … ) đấu tranh chống chính sách thuộc địa phản động, đòi những quyền tự do, dân chủ .
4-10-1939, ông bị Pháp bắt, lần này là lần thứ 5, phán quyết 5 năm tù lưu đày Côn Đảo. Trên hòn đảo ông bị kiệt sức vì bị hành hạ, mất trong tù ngày 14-8-1943 .

Huỳnh Khương Ninh (1890 – 1950)

Quê ở xã Thắng Tam, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tốt nghiệp bằng Thành Chung nhưng không hợp tác với thực dân Pháp, mở trường tư .
Trường Huỳnh Khương Ninh là một trường trung học tư thục nổi tiếng ở Hồ Chí Minh, là nơi huấn luyện và đào tạo nhiều người trẻ tuổi xuất sắc ưu tú, là một TT của giáo chức yêu nước TP HCM trước đây .
Ông mất ngày 20-4-1950 .

Huỳnh Tấn Phát (1913 – 1989)

Sinh tại xã Tân Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Lên Sài Gòn học trường Pétrus Ký (nay là trường trung học Lê Hồng Phong). Sau khi tốt nghiệp kiến trúc sư tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1938), ông về Sài Gòn mở văn phòng kiến trúc sư tại số 68-70 đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5-3-1945.

Trong quá trình tiền khởi nghĩa, ông là chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động giải trí trong trào lưu Thanh Niên, hoạt động giải trí trong trào lưu Thanh niên Tiền Phong, truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ. Tháng 8-1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền sở tại ở TP HCM. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông cộng tác bí hiểm ở TP HCM, bị địch bắt giam ở Khám lớn TP HCM. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở tin tức Nam Bộ, trực tiếp đảm nhiệm Đài phát thanh Tiếng nói TP HCM – Chợ Lớn tự do. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông làm Phó quản trị kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Nước Ta, đồng thời là quản trị Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu TP HCM – Gia Định. Tháng 6-1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm quản trị nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta .
Sau ngày quốc gia thống nhất, ông đảm trách những chức vụ : Phó Thủ tướng, Phó quản trị Hội đồng Nhà nước, quản trị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Nước Ta .

Lê Hồng Phong

Tên thật là Lê Duy Doãn, sinh năm 1902, quê thôn Đông Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An, một chiến sỹ xuất sắc trung kiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến cuối năm 1937 hoạt động giải trí ở Hồ Chí Minh – Chợ Lớn, tham gia chỉ huy trào lưu trong toàn nước. Giữa năm 1938, ông bị Pháp bắt ở Chợ Lớn, phán quyết 10 tháng tù. Ngày 29-9, ông bị bắt lần thứ hai đưa vào giam ở Khám lớn Hồ Chí Minh, rồi phán quyết 5 năm tù đày đi Côn Đảo. Ông mất ngày 6-9-1942, ở Côn Đảo vì bị tra tấn dã man, bệnh nặng và sức yếu .

Trần Phú

Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương, sinh 1-5-1903, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Năm 1925, tham gia lập Hội Phục Việt, rồi gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Năm 1927 học Đại học Phương Đông Mátxcơva.

1930 vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm Tổng Bí thư trong Hội nghị lần thứ nhất của Đảng. Sau Hội nghị ông từ Hồng Kông về Hồ Chí Minh hoạt động giải trí ở tại 66 đường Champagne ( nay là đường Lý Chính Thắng ). Ông đã soạn thảo Luận cương chính trị của Đảng. Giữa lúc đang hoạt động giải trí tích cực, ông bị địch bắt 18-4-1931. Biết ông là người chỉ huy Đảng, địch đã tra tấn ông rất dã man cho tới khi ông kiệt sức, chúng đưa ông vào Bệnh viện Chợ Quán, một trại giam trá hình. Và ông đã trút hơi thở ở đầu cuối vào ngày 6-9-1931. Trước khi chết, ông còn dặn lại những chiến sỹ : ” Hãy giữ vững ý chí chiến đấu ” .

Nguyễn Tri Phương (1800 – 1873)

Quê Phong Điền – Thừa Thiên. Năm 1935, ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định những vùng mới khai hoang. Năm 1860, được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự chiến lược ở miền Nam. Là người cho thiết kế xây dựng đại đồn Chí Hòa chống giặc Pháp. Năm Nhâm Thân 1872, ông giữ chức Tuyên sát đồng sức đại thần thay mặt đại diện triều đình xem xét việc quân sự chiến lược ở Bắc Kỳ. Ngày 19-11-1873, Garnier đánh úp thành Thành Phố Hà Nội, ông bị trọng thương, tuyệt thực đúng 1 tháng sau thì mất vào ngày 20-12-1873 .

Nguyễn Thị Rành (1900 – 1979)

Quê ở xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, má đào hầm bí hiểm ngay trong vườn nhà mình để nuôi giấu cán bộ, bộ đội, cứu chữa thương bệnh binh. Má còn tham gia dân quân du kích xã, bám đất giữ làng. Tám người con và hai cháu của má đã quyết tử trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc bản địa. Má được Đảng và Nhà nước tuyên dương Anh hùng những lực lượng vũ trang nhân dân, được truy tặng thương hiệu Bà mẹ Nước Ta anh hùng .
Sau ngày má qua đời, tượng của má được dựng trước Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ ( đường Võ Thị Sáu, thành phố Hồ Chí Minh ) .

Lê Thị Riêng (1925 – 1968)

Quê Bạc Liêu, nguyên ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Bị địch bắt vào tháng 5-1967, giam tại nhà lao Biên Hòa. Dù địch tra tấn vô cùng dã man, chị vẫn không khuất phục .
Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, chị bị địch giết chết trên đường Hồng Bàng – Hồ Chí Minh ( nay thuộc đường Hùng Vương ) .

Lê Văn Sĩ (1910 – 1948)

Tên thật là Võ Sĩ, quê ở thôn Minh Tân, xã Đức Minh, huyện Mộ Đức, tỉnh Tỉnh Quảng Ngãi. Tham gia Nước Ta Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Nguyên trong Xứ ủy Nam Bộ, Chính ủy Quân khu 8, rồi năm 1947 được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh. Tháng 10-1948, ông quyết tử trong một cuộc càn quét lớn của địch vào vùng Láng Le, Vườn Thơm – Long An .

Nguyễn Văn Tạo (1908 – 1970)

Sinh tại làng Phước Lợi, tỉnh Chợ Lớn. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat ( Hồ Chí Minh ), ông sang Pháp du học. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Năm 1930, ông bị Pháp trục xuất về nước. Tại TP HCM, ông viết báo chống thực dân. Trong những năm 1933 và 1935, ông đắc cử vào Hội đồng thành phố TP HCM. Năm 1936, ông là một trong những người tổ chức triển khai trào lưu Đông Dương Đại hội. Thực dân nhiều lần bắt giam ông, đày ra Côn Đảo, quản thúc ở Mỹ Tho và Rạch Giá. Cách mạng Tháng Tám thành công xuất sắc, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I, ủy viên Ủy ban Nhân dân lâm thời Nam Bộ, Bộ trưởng Bộ Lao động. Sau Hiệp định Genève, ông làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .

Hà Huy Tập

Sinh 1902, quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.

Năm 1927 vào dạy học tại Trường Phan Xích Hồng, TP HCM. Và tham gia tăng trưởng tổ chức triển khai đảng Tân Việt. Từ 1934 cùng Lê Hồng Phong chỉ huy công tác làm việc Hải ngoại của Đảng .
Về nước, ông hoạt động giải trí tại Hồ Chí Minh. Hà Huy Tập là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương ( 1935 – 1938 ). Ông bị địch bắt 5-1938, đưa về quản thúc tại quê. Sau đó đưa về Hồ Chí Minh với mức án tù 5 năm. Hoảng sợ trước khí thế cách mạng của Nam Kỳ khởi nghĩa, chúng lại tuyên án tử hình và đưa ông cùng một loạt những cán bộ xuất sắc ưu tú của Đảng là Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến xử bắn tại Bà Điểm, Hóc Môn .

Phạm Ngọc Thạch (1909 – 1968)

Sinh tại Phan Thiết (nay thuộc tỉnh Bình Thuận). Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa (chuyên khoa lao) trường Đại học Paris năm 1935, ông về nước, mở phòng mạch tư ở số 202 đường Chasseloup Laubat (đường Nguyễn Thị Minh Khai), Sài Gòn. Tháng 5-1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, ông tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Thanh niên Tiền phong. Cách mạng tháng Tám thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Y tế trong Chính phủ lâm thời. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Sau Hiệp định Genève, ông làm Bộ trưởng Bộ Y tế, Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Ông còn là Chủ tịch ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Ông được tuyên dương là Anh hùng Lao động. Ngày 7-11-1968, ông hy sinh trong lúc đang công tác trên chiến trường miền Nam.

Phạm Ngọc Thảo (1922 – 1965)

Sinh tại xã Mỹ Phước, tỉnh Long Xuyên ( nay là An Giang ) .
Lên TP HCM học trường trung học Taberd, rồi ra Thành Phố Hà Nội học ĐH, tốt nghiệp kỹ sư công chánh .
Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ ( 1947 ), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 ( Quân khu 9 ) .
Sau Hiệp định Genève 1954, ông được phân công hoạt động giải trí tình báo trong lòng địch ( được phong đại tá ngụy quân, thao tác trong cơ quan mật vụ và Phủ Tổng thống ngụy quyền … ), được cử sang học tại Mỹ. Nhờ vậy, ông chuyển ra vùng giải phóng nhiều tin tức và tài liệu quan trọng của địch .
Ông bị địch bắt và tra tấn dã man đến chết .
Ông được Nhà nước truy phong quân hàm đại tá .

Tôn Đức Thắng (20.8.1888 – 30.3.1980)

Ông sinh ngày 20.8.1888 tại quê Cù Lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Bình Thành, tỉnh Long Xuyên nay là tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân.

Học xong tiểu học, ông lên TP HCM học trường Kỹ thuật Khoa Cơ điện – Tốt nghiệp, vào thao tác ở xưởng thay thế sửa chữa tàu biển Ba Son, rồi bị điều sang thao tác ở xưởng Toulon bên Pháp – Cuối năm 1917, Cách mạng Tháng 10 Nga thành công xuất sắc, những cường quốc đế quốc vây hãm và tiến công Cách mạng Nga. Ngày 1/4/1919, ông cùng những sĩ quan và binh lính trên chiến hạm France nổi dậy làm binh biến, ông là người kéo cờ đỏ Cách mạng trên chiến hạm và cùng những người nổi dậy kéo lên bờ cùng nhân dân Nga làm mít-tinh chào mừng Cách mạng Nga .
Năm 1920, ông bị trả về TP HCM. Năm 1925 ông gia nhập Thanh niên Cách mạng Đồng Chí hội, năm 1927 được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ TP HCM và Kỳ bộ Nam Kỳ .
Ông bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo ( 1930 – 1945 ) .
Cách mạng Tháng 8 thành công xuất sắc, ông tham gia Xứ ủy và Ủy ban Hành chính Nam Bộ – Năm 1946, Trung ương điều ra Bắc đảm nhiệm công tác làm việc mặt trận, quản trị Hội liên Việt – Từ 1951 là ủy viên Trung ương Đảng cho tới lúc qua đời .
Năm 1954, ông là quản trị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó quản trị nước. Sau khi Hồ quản trị qua đời, Quốc hội cử ông làm quản trị nước .
Ông từ trần ngày 30.3.1980, hưởng thọ 92 tuổi .

Trần Quốc Thảo (1914 – 1957)

Tên thật là Hồ Xuân Lưu. Quê làng Cổ Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1950, làm Thường vụ Đặc khu Hồ Chí Minh – Chợ Lớn, kiêm Phó Tổng thư ký Công đoàn Nước Ta. Đến năm 1957, làm Bí thư Khu ủy Hồ Chí Minh – Chợ Lớn .
Ông bị địch bắt tại Phú Nhuận và bị đánh tới chết ngày 16-10-1957 .

Trịnh Đình Thảo (1901 – 1986)

Quê Từ Liêm, Hà Nội. Du học ở Pháp, tốt nghiệp cử nhân văn chương, cao học kinh tế và thương mại, tiến sĩ luật khoa. Làm luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn nhiều năm. Sau Nhật đảo chính Pháp ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong nội các Trần Trọng Kim, đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ. Năm 1968, ông ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình Việt Nam. Từng giữ các chức vụ: Chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông là ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ngày 31-3-1986, ông mất tại thành phố Hồ Chí Minh .

Phạm Thiều (1904 – 1986)

Quê xã Diễn Phúc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Sau Cách mạng Tháng Tám, từng giữ những chức vụ : Giám đốc Sở tin tức Nam Bộ, quản trị Ủy ban hành chánh Hồ Chí Minh – Chợ Lớn, Phó quản trị Ủy ban Kháng chiến Hành chánh liên khu miền Đông, Vụ trưởng Vụ Sư phạm Bộ Giáo dục đào tạo, Đại sứ tại Tiệp Khắc và Hungary, Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh .

Ngô Nhân Tịnh (? – 1816)

Gốc người Quảng Đông sang ngụ ở đất Gia Định. Học trò Võ Trường Toản, cùng Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định được đương thời xưng tụng là nhà thơ lớn đất Gia Định xưa ( Gia Định tam gia ). Năm 1802, từng được làm Giáp phó xứ sang nhà Thanh rồi Chánh xứ sang Chân Lạp đem ấn sắc phong Nặc Ông Chân làm vua Chân Lạp. Năm 1812 làm Hiệp tổng trấn Gia Định phụ tá Tổng trấn Lê Văn Duyệt .

Nguyễn Hữu Thọ (1910 – 1996)

Sinh tại xã Long Phú, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An). 11 tuổi, ông được sang Pháp du học. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật khoa (tháng 9-1932), ông về nước, mở văn phòng luật sư tại Mỹ Tho, Cần Thơ, làm Chánh Tòa án dân sự tỉnh Vĩnh Long. Từ 1947, ông lên Sài Gòn tham gia các hoạt động cách mạng. Ngày 16-10-1949, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông được cử làm Trưởng Phái đoàn đại biểu các giới Sài Gòn – Chợ Lớn, tổ chức các phong trào đấu tranh chống xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân thành phố. Hiệp định Genève 1954 ký kết, ông cùng một số tri thức Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập Phong trào bảo vệ hòa bình và giữ chức Phó Chủ tịch của tổ chức này. Ông được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1962 – 1976) và Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 – 1976). Đất nước thống nhất, ông giữ nhiều trọng trách như Phó Chủ tịch nước, quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Võ Trường Toản (? – 1792)

Quê huyện Tỉnh Bình Dương, tỉnh Gia Định ( nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ). Ở ẩn dạy học, đào tạo và giảng dạy nhiều nhân tài cho quốc gia như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh … Nguyễn Phúc Ánh mời ông đến giảng sách, bàn luận chính trị, muốn trọng dụng ông, nhưng ông một mực phủ nhận. Ngày 9-9 năm Nhâm Tý ( 27-7-1792 ) ông mất. Nguyễn Ánh ban hiệu cho ông là Gia Định xủ sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh .

Trần Văn Trà (1919 – 1996)

Quê xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Hai mươi tuổi, ông vào Sài Gòn hoạt động cách mạng. Mùa Thu năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông đảm nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng: Khu trưởng khu 8, Xứ ủy viên Nam Bộ, Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn – Chợ Lớn, Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Tập kết ra Bắc, ông làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Giám đốc Học viện quân chính, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương. Năm 1963, ông về Nam, đảm nhiệm các chức vụ: Tư lệnh quân giải phóng miền Nam, ủy viên Trung ương cục miền Nam, Phó Bí thư Quân ủy miền. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ông là Phó tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Miền Nam được giải phóng, ông làm Chủ tịch ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 7, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông được phong quân hàm Trung tướng năm 1959, Thượng tướng năm 1974 và được tặng thưởng hai Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.

Nguyễn Văn Trỗi (1940 – 1964)

Quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Theo gia đình vào Sài Gòn, làm nghề thợ điện ở nhà máy đèn Chợ Quán, tham gia biệt động vũ trang thuộc Đại đội Quyết tử 65, cánh Tây Nam Sài Gòn. Anh bị bắt lúc 22 giờ đêm ngày 9-5-1964, giữa lúc đang gài mìn tại cầu Công Lý nhằm tiêu diệt phái đoàn quân sự cấp cao của Mỹ do Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mac Namara dẫn đầu, sang Sài Gòn vạch kế hoạch tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Anh bị xử bắn tại vườn rau nhà lao Chí Hòa – Sài Gòn lúc 9 giờ 45 phút ngày 15-10-1964. Anh được tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.

Lý Tự Trọng (1915 – 1931)

Tên thật là Lê Hữu Trọng quê xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sinh tại bản May, tỉnh Na Khôn, Thái Lan. Năm 1926, anh sang Quảng Châu học trung học, rồi làm việc tại cơ quan Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Ba năm sau, anh được phái về Sài Gòn công tác ở cơ quan Trung ương An Nam Cộng sản Đảng.

Ngày 9-2-1931, trong cuộc mít-tinh tổ chức triển khai tại cổng sân banh Mayer để kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái, anh bắn chết viên thanh tra công an Legrand, bảo vệ diễn thuyết Phan Bôi. Anh bị bắt, bị tra tấn chết đi sống lại, nhưng luôn luôn giữ khí tiết cách mạng khiến những cai ngục cũng phải kính nể, gọi anh là ” Ông Nhỏ “. Trước khi bị thực dân xử bắn, anh còn hát vang bài Quốc tế ca .

Phan Văn Trường (1878 – 1993)

Quê làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Thành Phố Hà Nội, những năm hoạt động giải trí của ông hầu hết diễn ra ở Paris và TP HCM. Đỗ tiến sỹ luật khoa ở Pháp ( là một trong những tiến sỹ luật khoa tiên phong của nước ta ), làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Paris. Hoạt động trong trào lưu yêu nước của Việt kiều tại Pháp, cùng với Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc xây dựng Hội đồng bào thân ái và Nhóm những người Nước Ta yêu nước. Viết nhiều bài cho tờ Le Paria ( do Nguyễn Ái Quốc chủ trương ). Cuối năm 1923, ông về nước, làm chủ bút hai tờ báo La Cloche Fêlée ( Chuông Rè ) và L’Annam ( Nước Nam ), đả kích can đảm và mạnh mẽ chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và góp thêm phần truyền bá chủ nghĩa Mác vào Nước Ta .
Hai lần ông bị thực dân Pháp bắt giam : lần đầu ở Paris ( cùng một lúc với Phan Châu Trinh ), lần sau ở TP HCM ( nhưng bị tạm giam ở Paris ) .
Mai Thọ Truyền ( 1905 – 1973 )
Là một Đốc phủ xứ ngoại hạng, một trong những người sáng lập chùa Xá Lợi ( Hồ Chí Minh ) và Hội Phật học Nam Việt, Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa truyền thống ( Hồ Chí Minh ). Ông mất ngày 17-4-1973 tại TP HCM .

Ngô Gia Tự

Sinh ngày 3-12-1908, ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 1926, gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Cuối năm 1928 vào Sài Gòn hoạt động cách mạng.

Cuối năm 1930, bị địch bắt tại Hồ Chí Minh. Tháng 5-1933, thì bị đày ra Côn Đảo .
Cuối tháng 1-1935, chi bộ nhà tù tổ chức triển khai cho ông và một nhóm đồng đội vượt ngục, nhưng ông và những chiến sỹ đã mất tích giữa biển .

Hoàng Việt (1928 – 1967)

Sinh tại Chợ Lớn, tên thật là Lê Chí Trực. Từ 16 tuổi, ông đã bắt đầu sáng tác, được nhiều người biết đến với những bài Chí cả, Biệt đô thành, Tiếng còi trong sương đêm (Ký tên Lê Trực). Ông tham gia cách mạng, công tác trong Tổ quân nhạc của Quân khu 8. Ông nổi tiếng với những ca khúc phục vụ kháng chiến như Lá xanh (1950), Lên ngàn (1952), Nhạc rừng (1953), Mùa lúa chín (1953-1954)…

Sau Hiệp định Genève, ông tập trung ra Bắc, liên tục sáng tác. Bản Tình ca ( 1957 ) được những tình nhân nhạc nhìn nhận là một trong những tình khúc hay nhất của nền âm nhạc nước ta. Sau đó, ông xin về Nam phục vụ kháng chiến. Ông liên tục sáng tác nhiều ca khúc, bản giao hưởng Cửu Long, nhạc kịch Bông Sen …
Ngày 31-12-1967, ông quyết tử khi chưa tròn 40 tuổi .

Trương Phước Vĩnh

Ông là người tiên phong giữ chức Điều khiển, Thống suất hàng loạt quan binh những dinh, những trấn ở miền Nam .
Ông có công dẹp tan giặc Sà Tốt ( làng Prea Sot ) năm 1731 và cho đắp lũy Hoa Phong ( dấu vết còn ở gần chùa Cây Mai ) để ngăn giặc .

(Sài Gòn 300 năm – NXB CTQG)

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận