ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
Giảng viên: TS. Phạm Văn Cường
Điện thoại: 0982.03.
Thái Nguyên, 2018
####### MỤC LỤC
Bạn đang đọc: DE Cuong BG GTSP MAM NON - giao tiếp sư phạm rất quan trọng. Học phần giúp giáo viên nâng cao nhận - StuDocu">DE Cuong BG GTSP MAM NON – giao tiếp sư phạm rất quan trọng. Học phần giúp giáo viên nâng cao nhận – StuDocu
Chương 1-KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
1. Giao tiếp, giao tiếp sư phạm……………………………………………………………..
1.1. Khái niệm giao tiếp, giao tiếp sư phạm…………………………………………
1.1. Vị trí, vai trò của giao tiếp, giao tiếp sư phạm……………………………….
- **Chương 1-KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON**
-
- Giao tiếp, giao tiếp sư phạm……………………………………………………………..
- 1.1. Khái niệm giao tiếp, giao tiếp sư phạm…………………………………………
- 1.1. Vị trí, vai trò của giao tiếp, giao tiếp sư phạm……………………………….
- Giao tiếp, giao tiếp sư phạm……………………………………………………………..
-
- Giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………………………………..
- 1.2. Khái niệm giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………………
- trẻ…………………………………………………………………………………………………….. 1.2. Ý nghĩa của giao tiếp sư phạm mầm non đối với sự phát triển tâm lý
- 1.2. Đặc điểm của giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………….
- 1.2. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………….
- 1.2. Phong cách giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………..
- Chương 2-KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
- Giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………………………………..
-
- Khái niệm kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………
-
- Một số kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non………………………………………
- 2.2. Kĩ năng tìm hiểu đối tượng và môi trường giao tiếp……………………..
- 2.2. Kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp………………………………
- 2.2. Kĩ năng lắng nghe…………………………………………………………………….
- 2.2. Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp……………………………………….
- 2.2. Kĩ năng tự chủ cảm xúc, hành vi………………………………………………..
- 2.2. Kĩ năng xử lí tình huống sư phạm………………………………………………
- Chương 3-RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
- Một số kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non………………………………………
-
- Rèn kĩ năng nhận diện và phân tích tình huống sư phạm mầm non……..
- 3.1. Nhận diện và phân tích tình huống giao tiếp với trẻ mầm non……….
- 3.1. Nhận diện và phân tích tình huống giao tiếp với phụ huynh…………..
- lực lượng giáo dục khác……………………………………………………………………. 3.1. Nhận diện và phân tích tình huống giao tiếp với đồng nghiệp và các
- Rèn kĩ năng nhận diện và phân tích tình huống sư phạm mầm non……..
-
- Xử lí các tình huống giao tiếp sư phạm mầm non………………………………
- 3.2. Xử lý tình huống giao tiếp với trẻ mầm non………………………………..
- 3.2. Xử lý tình huống giao tiếp với phụ huynh……………………………………
- khác………………………………………………………………………………………………… 3.2. Xử lý tình huống giao tiếp với đồng nghiệp và các lực lượng giáo dục
- BÀI TẬP – THỰC HÀNH GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
- Xử lí các tình huống giao tiếp sư phạm mầm non………………………………
- I. Tình huống giao tiếp giữa cô giáo mầm non với trẻ……………………………….
- II. Tình huống giao tiếp giữa cô giáo mầm non với phụ huynh…………………..
- khác…………………………………………………………………………………………………… III. Tình huống giao tiếp giữa cô giáo mầm non với các lực lượng giáo dục
- IV. Trắc nghiệm khả năng giao tiếp của tác giả Dakharov…………………………
Giao tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng quan trọng trong đời sống cá thể, trong quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Giao tiếp và hoạt động giải trí là hai mặt gắn bó ngặt nghèo với nhau trong hoạt động giải trí sống, trong lối sống của con người .
- Giao tiếp là nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người, con người từ
lúc sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu về mối quan hệ với những người xung
quanh – nhu cầu về người khác, con người mong muốn được tiếp xúc, trao đổi
những hiểu biết, tâm tư tình cảm với người khác. - Thông qua giao tiếp, cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội với các
cá nhân khác trong các nhóm xã hội và quan hệ với toàn xã hội. - Giao tiếp là điều kiện, là phương thức tồn tại và phát triển của nhân và xã
hội, khi con người sống và phát triển thì không thể không có hoạt động, giao
tiếp. - Cùng với hoạt động, qua giao tiếp con người tiếp thu nền văn hoá xã hội
lịch sử và biến nó thành vốn riêng của mình (như quá trình học tập để lĩnh hội
các tri thức khoa học mà nhân loại đã tích luỹ được do thực hiện giao tiếp giữa
trẻ với giáo viên), đồng thời cá nhân đóng góp vào sự phát triển văn hóa xã hội. - Thông qua giao tiếp, mỗi cá nhân không chỉ tác động, ảnh hưởng qua lại
tới người khác mà còn tự đối chiếu, so sánh mình với người khác, với chuẩn
mực đạo đức xã hội để tự ý thức, tự đánh giá về bản thân mình trên cơ sở đó họ
tự điều chỉnh, điều khiển bản thân theo các chuẩn mực xã hội.
Có thể khẳng định, không có sự giao tiếp thì không có sự tồn tại xã hội.
Giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
* Vị trí, vai trò của GTSP: - Giao tiếp sư phạm là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm.
Những hình thức chủ yếu của công tác giáo dục và học tập đều diễn ra trong
điều kiện giao tiếp như giảng bài trên lớp, tham gia hoạt động với học sinh, kiểm
tra đánh giá học sinh,… Không có giao tiếp thì hoạt động của giáo viên và học
sinh không thể diễn ra và không đạt được mục đích giáo dục.
Giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sư phạm diễn ra và
đạt kết quả mong muốn. Hoạt động sư phạm là hoạt động dạy và hoạt động học,
hoạt động giải trí cùng nhau của thày và trò. Thày là chủ thể của hoạt động giải trí dạy, trò là chủ thể của hoạt động học. Đối tượng của hoạt động giải trí sư phạm là tri thức, kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, … hay đơn cử là sự tăng trưởng nhân cách của người học. Các hoạt động giải trí tập thể, hoạt động giải trí nhóm hoạt động giải trí cùng nhau của thầy và trò nhất thiết phải có giao tiếp giữa thày và trò, giao tiếp giữa trò và trò như thể một điều kiện kèm theo thiết yếu. – Giao tiếp sư phạm có vị trí quan trọng trong cấu trúc năng lượng sư phạm. Giao tiếp nói chung có nhiều công dụng. Trong hoạt động giải trí sư phạm, giao tiếp sư phạm cũng có nhiều tính năng khác nhau. Nó hoàn toàn có thể là phương tiện đi lại Giao hàng việc làm giảng dạy, hoàn toàn có thể là điều kiện kèm theo xã hội – tâm ý bảo vệ hiệu suất cao của quy trình giáo dục, hoàn toàn có thể là phương pháp tổ chức triển khai mối quan hệ giữa thày với trò. Nếu coi hoạt động giải trí sư phạm nhằm mục đích triển khai ba trách nhiệm : giảng dạy, giáo dục và tăng trưởng thì hoàn toàn có thể xem giao tiếp sư phạm phục vụ việc triển khai trách nhiệm trên. + Trong việc triển khai trách nhiệm giảng dạy : Giao tiếp bảo vệ sự tiếp xúc tâm ý với trẻ, hình thành động cơ học tập tích cực, tạo ra thực trạng tâm ý cho cả lớp hay nhóm tìm tòi nhận thức và cùng nhau tâm lý. + Trong việc triển khai trách nhiệm giáo dục dục : Nhờ có giao tiếp mà xử lý êm thấm những mối quan hệ giáo dục và sư phạm, … + Trong việc triển khai trách nhiệm tăng trưởng : Giao tiếp tạo ra những thực trạng tâm ý kích thích việc triển khai xong bản thân và tự giáo dục của người học, …
1. Giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………………………………..
1.2. Khái niệm giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………………
trẻ…………………………………………………………………………………………………….. 1.2. Ý nghĩa của giao tiếp sư phạm mầm non đối với sự phát triển tâm lý
trong quá trình chăm sóc – giáo dục trẻ bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chăm sóc – giáo dục trẻ đã đề ra.
1.2. Ý nghĩa của giao tiếp sư phạm mầm non đối với sự phát triển tâm lý trẻ
Con người không thể sống, lao động, thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh
thần của mình mà không có giao tiếp với người khác. Từ khi mới sinh ra trẻ đã
bước vào các mối quan hệ đa dạng với thế giới xung quanh. Giao tiếp là điều
Qua nghiên cứu và điều tra, những nhà Tâm lý – giáo dục đã chứng tỏ được sự giống nhau và độc lạ giữa những trẻ sống ở mái ấm gia đình và những trẻ lớn lên trong những nhà nuôi dạy trẻ mồ côi ( cô nhi viện ) :
- Điểm giống nhau là chúng đều biết đi học, học nói, học chơi với các bạn,
biết quan tâm tới những gì xảy ra xung quanh, biết tôn trọng người lớn, biết
quan tâm và thể hiện tình cảm đối với con người. Tất cả những trẻ sống trong
trại trẻ mồ côi đều có nhu cầu giao tiếp với người lớn. Nhu cầu này tạo nền tảng
cho sự phát triển các tiềm năng còn lại. - Điểm khác nhau là có những dấu hiệu có tính hệ thống của sự chậm phát
triển ở những trẻ trong các nhà nuôi dạy trẻ mồ côi so với các bạn cùng tuổi có
gia đình như sau: - Xúc cảm yếu: biểu hiện bên ngoài của xúc cảm có tính rập khuôn và thiếu
sinh động. - Tính chủ động, sáng tạo thấp: khó và chậm thiết lập quan hệ hợp tác với
người lớn và bạn bè, hay bất đồng ý kiến về kế hoạch, về sự đánh giá, ít giao
tiếp với mọi người xung quanh. - Tính ham hiểu biết, hiếu học thấp. Trẻ ít quan tâm tới cái mới, tìm hiểu
cái mới diễn ra rất đơn giản, hời hợt, trẻ mau chóng chán và từ chối tìm hiểu
tiếp. Có những trẻ biểu hiện sự nhút nhát sợ sệt, điều này ngăn cản trẻ tìm hiểu
bản chất sự vật. Ngôn ngữ phát triển chậm. Điều đó cho thấy giao tiếp có ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển của trẻ.
Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định giao tiếp thúc đẩy nhanh quá trình phát
triển của trẻ. Việc hình thành những quan hệ có nội dung với người lớn cho phép
trẻ khắc phục những tác động bất lợi của hoàn cảnh, loại bỏ và sửa chữa được
những lệch lạc do giáo dục không đúng và chiếm lĩnh những tầm cao mới trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống tâm lý từ tri giác, ngôn ngữ đến ý thức,
nhân cách. Những đặc điểm giao tiếp giữa người lớn và trẻ quyết định toàn bộ
hứng thú của trẻ đối với xung quanh, quan hệ với những người khác và với bản
thân mình (quyết định trẻ trở thành người như thế nào, nhân cách phát triển ra
sao?).
1.2. Đặc điểm của giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………….
Giao tiếp sư phạm có những đặc trưng cơ bản sau :
- Giao tiếp sư phạm là loại giao tiếp có tính nghề nghiệp diễn ra trong hoạt
động sư phạm, trong đó chủ thể là giáo viên và các chủ thể khác là học sinh và
tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng giáo dục khác. - Giao tiếp sư phạm mang tính chuyên môn nghề nghiệp dạy học và giáo
dục. Đối tượng và nội dung giao tiếp là hệ thống tri thức khoa học, các chuẩn
mực đạo đức xã hội, mang tính mẫu mực mô phạm, đòi hỏi nghệ thuật ứng xử
sư phạm. - Phương tiện, điều kiện của giao tiếp sư phạm là hệ thống ngôn ngữ, cử
chỉ, tác phong trong sáng, mẫu mực của thầy và trò; các phương tiện, kỹ thuật
dạy học và giáo dục. - Hiệu quả, sản phẩm của giao tiếp sư phạm là đưa đến sự biến đổi trong
đời sống tâm lý – nhân cách, đạo đức, hành vi, thói quen ở trò cũng như ở thầy,
tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò cũng như bầu không khí tốt đẹp và
sự phát triển của tập thể học sinh.
1.2. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………….
2. Khái niệm kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non…………………………………
Trong quy trình giao tiếp giữa giáo viên với trẻ, nhất thiết phải có những quan điểm chỉ huy cho hành vi, hành vi tiếp xúc của họ nhằm mục đích bảo vệ hiệu quả của mọi quy trình giao tiếp gọi là nguyên tắc giao tiếp sư phạm. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm mầm non là những quan điểm chỉ huy, xu thế cho mạng lưới hệ thống hành vi, thái độ ứng xử của giáo viên và trẻ nhằm mục đích bảo vệ cho quy trình giao tiếp sư phạm đạt hiệu suất cao. Suy cho cùng nguyên tắc giao tiếp sư phạm là những nhu yếu ứng xử trong giao tiếp giữa giáo viên và trẻ. Những nhu yếu này có tính vững chắc đến mức độ chỉ huy hàng loạt quy trình giao tiếp ở mọi trường hợp, với mọi cá thể. Tuy nhiên, trong nguyên tắc giao tiếp vẫn có độ giao động nhất định để bảo vệ tác dụng của một quy trình giao tiếp .
dấu ấn rất sâu sắc trong tâm trí của trẻ. Người lớn cần nhận thức được rằng, tôn
trọng nhân cách của trẻ chính là tôn trọng nhân cách và nghề nghiệp của chính
mình.
– Tôn trọng nhân cách trẻ trong giao tiếp được hiểu là trong giao tiếp với
các em, phải coi các em là con người với đầy đủ các quyền được vui chơi, học
tập, lao động, nhận thức,… với những đặc trưng tâm lý riêng, bình đẳng trong
các quan hệ xã hội. Trẻ mầm non đang hình thành và phát triển nhân cách, các
em là chủ thể hoạt động tích cực, có đặc điểm nhận thức, thái độ và kiểu hành vi
ứng xử riêng (chịu ảnh hưởng giáo dục của gia đình,…), giáo viên không nên áp
đặt, ép buộc các em phải theo ý của mình một cách máy móc, duy ý chí.
– Sự tôn trọng nhân cách trẻ trong giao tiếp sư phạm được biểu hiện một
cách phong phú và đa dạng ở các tình huống giao tiếp khác nhau:
+ Biết nghe trẻ trình bày ý muốn, nhu cầu, nguyện vọng của mình, không
nên ngắt lời bằng các cử chỉ, điệu bộ như phẩy tay, ngoảnh mặt đi chỗ khác với
vẻ mặt khó chịu; nên gợi ý nhẹ nhàng (nếu thấy cần thiết) hoặc biểu hiện thái độ
khích lệ, động viên để các em nói hết được suy nghĩ, mong muốn của mình.
+ Biết thể hiện các phản ứng biểu cảm của mình một cách chân thành, trung
thực khi tiếp xúc với các em với mục đích khích lệ hoặc ngăn cấm (những ý
nghĩ tốt hoặc xấu ở các em) một cách rõ ràng.
+ Sự tôn trọng nhân cách của các em thể hiện rõ nét nhất qua hành vi ngôn
ngữ của giáo viên. Bất luận trong tình huống nào cũng không nên dùng những
từ, câu xúc phạm đến nhân cách các em (ngay cả lúc các em có sai lầm, khuyết
điểm trầm trọng) nhất là trước lớp học, nơi đông người.
+ Tôn trọng nhân cách trẻ còn thể hiện ở sự ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, đúng
kiểu cách của giáo viên,…
+ Hành động của giáo viên trong tiếp xúc với trẻ cũng thể hiện sự tôn trọng
nhân cách của các em. Đang nói chuyện với trẻ mà xem đồng hồ, nói chuyện với
người khác, thậm chí nhổ nước bọt đều là những biểu hiện thiếu tôn trọng các
em. Càng không nên cười cợt, không ngắt lời khi các em đang say sưa trình bày
một quan điểm nào đó ; hành vi đập bàn và ghế, cau mày, nhăn trán, nghiến răng đều là biểu lộ sự thiếu tôn trọng nhân cách trẻ trong giao tiếp. Tóm lại, một điều rất quan trọng trong giao tiếp là tôn trọng nhân cách của đối tượng người tiêu dùng giao tiếp. ý thức này phải được thường trực trong mỗi giáo viên. Có thể nói, tôn trọng trẻ chính là sự tôn trọng mình và chính nghề nghiệp của mình. * Nguyên tắc có thiện chí trong giao tiếp : – Có thiện chí trong giao tiếp có nghĩa là trong quy trình giao tiếp trẻ, người giáo viên dành những điều kiện kèm theo thuận tiện, dành những tình cảm tốt đẹp cho trẻ, khuyến khích trẻ học tập, lao động tốt, đem lại những niềm vui cho trẻ. – Giao tiếp sư phạm rất sinh động, diễn ra hàng ngày trên lớp, trong trường, ngoài trường. Do vậy, những bộc lộ của sự có thiện chí trong giao tiếp của giáo viên cũng rất đa dạng chủng loại và sinh động : + Thiện ý của giáo viên biểu lộ qua việc giáo viên dốc lòng đem năng lực và trí lực ship hàng cho việc chăm nom – giáo dục trẻ. Trước giờ lên lớp, giáo viên sẵn sàng chuẩn bị giáo án kỹ càng, sưu tầm những tài liệu tìm hiểu thêm để thêm dẫn chứng, minh hoạ cho bài giảng, làm thế nào để trẻ cảm thấy hứng thú, sẵn sàng chuẩn bị những vật dụng đồ chơi, … + Thiện chí trong giao tiếp của giáo viên biểu lộ rõ nét nhất trong sự nhìn nhận, nhận xét trẻ. Sự công minh khi khen thưởng, nhận xét, nhìn nhận sẽ khuyến khích trẻ vươn lên. Khi được giáo viên tin yêu về một điều gì đó thì trẻ sẽ cố gắng nỗ lực đạt được để khỏi phụ niềm tin của cô. + Thiện chí của giáo viên trong giao tiếp sư phạm còn biểu lộ ở cách xử sự, phân xử của giáo viên trước những trường hợp va chạm giữa những trẻ trong nhóm, lớp. Trong mọi việc, giáo viên cần xét đoán công minh, khách quan và rất là tế nhị để những em có khuyết điểm nhận ra sai lầm đáng tiếc của mình mà không bị xấu hổ trước bạn hữu, trước nhóm, lớp. Thiện chí của giáo viên sẽ tạo cho trẻ niềm tin vào giáo viên và lòng mong ước phấn đấu để ngày càng văn minh. Hầu như ở đâu cũng có vai trò tổ chức triển khai, hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên cũng cần giúp trẻ nhận thấy rằng, dù cô có trách phạt, phê bình trẻ, kỷ luật trẻ, …rập khuôn về tâm ý và luân lý theo kiểu người lớn, một điều mà rất lâu rồi chính tất cả chúng ta đã tức bực không dễ chịu và bí mật phản kháng mỗi khi bị áp đặt. Để thực thi tốt nguyên tắc này, giáo viên phải chăm sóc, tìm hiểu và khám phá, nắm vững thực trạng mái ấm gia đình những em, đặc thù riêng của từng em để có những giải pháp giáo dục hay ảnh hưởng tác động giúp sức kịp thời. trái lại với đồng cảm là cách xử lý cứng ngắc, duy ý chí, cứ nội quy, pháp luật của trường, lớp mà vận dụng. Tóm lại, giao tiếp sư phạm mầm non là một hoạt động giải trí phức tạp và là quy trình phát minh sáng tạo để xử lý những trách nhiệm giáo dục, học tập. Muốn đạt được mục tiêu trên, trong quy trình triển khai tất cả chúng ta cần không cho những nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp sư phạm .
1.2. Phong cách giao tiếp sư phạm mầm non……………………………………..
Chương 3-RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
A. Makarenko đã chứng minh và khẳng định, việc lấy giọng không riêng gì để hát hay, nói hay mà trước hết để diễn đạt một cách đúng mực những ý nghĩ và tình cảm của mình. Ngoài ngôn từ diễn cảm thì tác phong, điệu bộ nét mặt, cái nhìn chiếm lợi thế trong nhân cách người giáo viên sẽ tạo nên những kiểu quan hệ giữa giáo viên và học viên. Tức là muốn nói tới phong thái giao tiếp của giáo viên .
- Trong Tâm lý học, phong cách được hiểu là hệ thống những phương
pháp, cách thức, thủ thuật, tiếp nhận, phản ứng hành động tương đối bền vững,
ổn định của mỗi cá nhân, quy định sự khác biệt của cá nhân, giúp cá nhân thích
nghi với môi trường sống (đặc biệt là môi trường xã hội) thay đổi để tồn tại và
phát triển. - Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp,
thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động tương đối ổn định, bền vững của giáo
viên trong quá trình giao tiếp với học sinh nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
giáo dục. - Phong cách giao tiếp sư phạm mầm non là toàn bộ hệ thống những
phương pháp, thủ thuật tiếp nhận, phản ứng hành động tương đối ổn định, bền
vững của giáo viên trong quy trình giao tiếp với trẻ nhằm mục đích thực thi có hiệu suất cao trách nhiệm giáo dục đã đề ra. Phong cách giao tiếp sư phạm bộc lộ ở 3 tín hiệu cơ bản : – Hệ thống những chiêu thức, thủ pháp tiếp đón, phản ứng, hành vi tương đối không thay đổi, vững chắc của mỗi giáo viên. Nghĩa là người giáo viên hoạt động giải trí, ứng xử, … tương đối như nhau trong những trường hợp khác nhau. Ví dụ : Người giáo viên có phong thái giảng bài chậm rãi, từ tốn thư thái, thì không chỉ trên lớp mà ngay cả với đồng nghiệp, người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình họ cũng nói chậm rãi, thư thả như vậy. – Hệ thống những giải pháp, phương pháp, thủ pháp, … pháp luật những đặc thù độc lạ giữa những giáo viên. Có thể cùng một phong thái giảng bài thư thả thư thái nhưng giáo viên A lại khác với cô B ; Cô A có cường độ, âm điệu ngôn từ can đảm và mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng còn cô B thì hiền dịu, nhẹ nhàng, êm ái. – Hệ thống những phương tiện đi lại có hiệu suất cao giúp giáo viên giải quyết và xử lý linh động với những trường hợp dạy học, giáo dục khác nhau. Đó là sự linh động, cơ động, mềm dẻo của những chiêu thức, thủ pháp ứng xử của giáo viên. Như vậy, phong thái giao tiếp sư phạm có hai phần rõ ràng : – Phần không thay đổi, tương đối vững chắc của phong thái : phần không thay đổi này pháp luật sự độc lạ của cá thể. Phần không thay đổi này một phần là do cấu trúc khung hình, những công dụng hoạt động giải trí của những cơ quan của khung hình mỗi người. Dáng đi, đứng, cử chỉ điệu bộ góp thêm phần tạo thành phong thái của con người. Có người có dáng đi đứng rất đàng hoàng, chững trạc, có người thì lom khom, đi lại chúi đầu về phía trước ; có người thì nói rõ ràng, dứt khoát, có người thì lại nói nhẹ nhàng, … Mặt khác, do đặc trưng nghề nghiệp cũng tạo nên phần không thay đổi của phong thái giao tiếp sư phạm. Do nhu yếu của nghề dạy học, mỗi giáo viên phải rèn luyện cho mình có dáng đi đứng đàng hoàng, chững trạc, giọng nói truyền cảm, rõ ràng, … – Phần linh động, cơ động của phong tháiTuy nhiên, phong thái dân chủ trong tiếp xúc với người học không có nghĩa là nuông chiều hay thả mặc, không tính đến những nhu yếu ngày càng cao của trách nhiệm học tập, rèn luyện tư tưởng và những phẩm chất đạo đức theo tiềm năng đào tạo và giảng dạy của những cấp học, lớp học. Dân chủ cũng không có nghĩa là quá “ tôn vinh cá thể ” hoặc “ theo đuôi ” cung ứng toàn bộ những yên cầu không xuất phát từ quyền lợi chung của mọi trẻ, của lớp, của trường. Dân chủ không có nghĩa là xoá đi ranh giới giữa thầy và trò, “ cá mè một lứa ” mà càng phải “ tôn sư trọng đạo ”. Đối với thầy cô, qua phong thái dân chủ biểu lộ được một tấm gương sôi động, một mẫu hình nhân cách tốt đẹp để trẻ noi theo. Nhiều thực nghiệm khoa học và quan sát nghề nghiệp đã chứng tỏ rằng phong thái dân chủ trong giao tiếp sư phạm tạo nên hiệu suất cao cao trong dạy học và giáo dục .
- Phong cách độc đoán:
Phong cách này thể hiện ở chỗ giáo viên thường xem nhẹ những đặc điểm
riêng về nhận thức, cá tính, nhu cầu, động cơ, hứng thú của trẻ, đặt ra mục đích
giao tiếp thường xuyên xuất phát từ công việc một cách cứng nhắc. Chính vì
vậy, khi tiếp xúc với trẻ, giáo viên hay yêu cầu hoặc áp đặt cho các em những ý
kiến hành động theo ý chủ quan của mình.
Theo phong cách này, giáo viên đặt ra rất nhiều điều cấm kỵ, nhiều quy
định rất chặt chẽ nhưng không được giải thích. Những quyết định được đưa ra từ
“cấp cao” mà người thừa hành, tức là các em, không được thảo luận.
Phong cách độc đoán còn thể hiện ở cách đánh giá và hành vi ứng xử đơn
phương, một chiều của giáo viên.
Giáo viên chỉ biết được đặc điểm riêng lẻ, hành vi bên ngoài của trẻ. Chưa
tìm hiểu động cơ bên trong thúc đẩy hành vi của trẻ. Giáo viên chỉ dựa vào hành
vi của trẻ trong hoạt động hàng ngày để đánh giá, những hành vi đó tạo thuận lợi
hay khó khăn cho giáo viên trong việc tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày của
nhóm trẻ.
Ví dụ: nếu trẻ nào hoạt động tích cực, nổi bật trước lớp thì có khi giáo viên
lại cho là “chơi trội”. Ngược lại, trẻ nào thụ động trong học tập, trong các hoạt
động thì cho là “chây lười, biếng nhác”,… Điều này dẫn đến hình thành ở các
cháu tâm thế “chống đối ngầm”, “ngoan ngoãn, lễ phép” trước mặt giáo viên,
thực hiện công việc một cách miễn cưỡng, không có sự say mê hứng thú hoặc có
những em biểu hiện sự chống đối ra mặt,…
Người ta thấy rằng, các cháu được giáo dục theo kiểu này thường tỏ ra lãnh
đạm. Các cháu thường không có sáng kiến và ít khi tự lập được. Một số ít có
tâm trạng bất mãn hoặc nổi loạn.
Tuy nhiên, phong cách độc đoán cũng có tác dụng nhất định. Đối với những
công việc đòi hỏi trong thời gian ngắn phải có những giải pháp dứt khoát, kiên
quyết, cứng rắn, phong cách này tương đối phù hợp. Người giáo viên có phong
cách độc đoán thường bị đánh giá là “khô khan”, “vụng về, thiếu tế nhị”,…
nhưng họ cũng là những người trung thực, thẳng thắn.
* Phong cách tự do:
Bản chất của phong cách này là thái độ, hành vi, cử chỉ, điệu bộ, cách ứng
xử của giáo viên đối với trẻ dễ thay đổi trong những hoàn cảnh giao tiếp thay
đổi. Phong cách này thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt đôi khi pha lẫn sự “khéo léo
ứng xử sư phạm”. Đặc trưng của nó là dễ dàng thay đổi mục đích, thậm chí cả
đối tượng giao tiếp.
Người giáo viên có phong cách tự do trong giao tiếp không có nguyên tắc
nào rõ ràng để áp dụng cả. Hôm trước có thể làm việc này nhưng hôm sau lại
không được, vì tình thế đã thay đổi. Các cháu phải tự mình quyết định lấy mọi
việc, các cháu tự mình đưa ra giải pháp đúng đắn cho mọi vấn đề. Mọi sai lầm
sẽ không bị trừng phạt. Trong bầu không khí giáo dục này, các cháu thường mất
phương hướng, không có tiêu chí nào để hướng dẫn hành động của mình.
Trong phong cách này, giáo viên đôi khi không làm chủ được cảm xúc của
mình, trong tâm trí họ những quy định nghiêm ngặt về quan hệ giữa thầy và trò
bị coi nhẹ. Thường người có phong cách này không gây được nhiều uy tín trong
tâm lý của trẻ.
Tóm lại: Ba loại phong cách giao tiếp sư phạm trên đây đều có những ưu
điểm và hạn chế nhất định. Trong thực thực tế, giáo viên quá lạm dụng phong
cách này hoặc phong cách khác trong tiếp xúc với trẻ có thể gây nên tâm lý sợ
Chương 2
KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM MẦM NON
2. Một số kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non………………………………………
Kỹ năng giao tiếp sư phạm là mạng lưới hệ thống những thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi được giáo viên phối hợp hài hoà, hài hòa và hợp lý nhằm mục đích bảo vệ đạt hiệu quả cao trong hoạt động giải trí dạy học và giáo dục với sự tiêu tốn nguồn năng lượng niềm tin và cơ bắp tối thiểu trong những điều kiện kèm theo biến hóa .
- Đặc trưng của kỹ năng giao tiếp sư phạm
- Kỹ năng giao tiếp sư phạm thể hiện trong hoạt động sư phạm, trong môi
trường sư phạm. - Kỹ năng giao tiếp sư phạm đòi hỏi tính mô phạm, chuẩn mực, tính nghề
nghiệp sư phạm và tính nghệ thuật sư phạm cao. - Kỹ năng giao tiếp sư phạm được hình thành, giáo dục và rèn luyện trong
trường sư phạm, trong thực tiễn đa dạng của hoạt động dạy học và giáo dục của
người giáo viên.
Kỹ năng giao tiếp sư phạm mầm non là hệ thống những thao tác, cử chỉ,
điệu bộ, hành vi được giáo viên phối hợp hài hoà, hợp lý nhằm đảm bảo đạt kết
quả cao trong hoạt động dạy học và giáo dục trẻ với sự tiêu hao năng lượng
tinh thần và cơ bắp ít nhất trong những điều kiện thay đổi. - 2. Một số kĩ năng giao tiếp sư phạm mầm non*
2.2. Kĩ năng tìm hiểu đối tượng và môi trường giao tiếp……………………..
- Tìm hiểu, nắm vững đặc điểm của đối tượng. Đối tượng của hoạt động
chăm sóc – giáo dục trẻ là nhân cách trẻ đang hình thành và phát triển. ở lứa tuổi
mầm non, sự nhân cách của trẻ đang trong giai đoạn định hình và phát triển. Tốc
độ phát triển của trẻ diễn ra với tốc độ nhanh chóng và diễn biến tương đối phức
tạp. Khi nắm vững được đặc điểm của đối tượng giao tiếp thì giáo viên mới đề
ra được những mục đích, yêu cầu cần đạt của hoạt động, nội dung, phương pháp
giao tiếp cho phù hợp. Người giáo viên cần phải nắm được: - Tình hình chung của nhóm, lớp.
- Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
- Đặc điểm riêng của cá nhân trẻ (hoàn cảnh gia đình, nhu cầu, hứng thú,
khả năng nhận thức của trẻ,…) để có những biện pháp tác động kịp thời.
2.2. Kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp………………………………
Dựa vào những thông tin đã chớp lấy được, giáo viên tổ chức triển khai giao tiếp trực tiếp ở trên lớp với toàn lớp, nhóm, cá thể trẻ ngay từ khi mở màn tiếp xúc với những cháu. Giáo viên cụ thể hoá kế hoạch giao tiếp, đúng chuẩn những điều kiện kèm theo giao tiếp và triển khai sơ bộ quá trình khởi đầu giao tiếp. Giáo viên cần quan tâm : Mọi thói quen ứng xử với giáo viên với trẻ được hình thành ngay từ buổi bắt đầu :
- Giáo viên quá dễ dãi – các em sẽ xem thường, khinh nhờn.
- Giáo viên quá cứng rắn, nguyên tắc – các em sẽ sợ hãi.
- Giáo viên quá lúng túng – các em sẽ ít tôn trọng.
Mở đầu quá trình giao tiếp là công việc khó khăn và vô cùng quan trọng, nó
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của quá trình giao tiếp. Nếu sự khởi đầu ấn
tượng sẽ tạo cho giáo viên sự tự tin trong suốt quá trình giao tiếp, tạo cho trẻ có
cảm giác ấm áp, tự tin, được yêu thương khi giao tiếp với cô. ở giai đoạn này,
giáo viên cần gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp đối với trẻ.
Giáo viên có thể gây ấn tượng với trẻ bằng nhiều cách: - Cách ăn mặc của giáo viên có thể gây ấn tượng ban đầu đối với trẻ.
- Thái độ thân thiện, ân cần của giáo viên đối với trẻ có thể gây ấn tượng rất
tốt đối với trẻ, tạo cho trẻ có cảm giác tự tin, thoải mái, có cảm giác an toàn,… - Cách trang trí phòng, nhóm thoáng mát, phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Tuy nhiên, ấn tượng ban đầu cũng vẫn chỉ là ấn tượng ban đầu. Thành công
trong giao tiếp sư phạm là cả một quá trình tiếp xúc lâu dài giữa giáo viên và trẻ.
2.2. Kĩ năng lắng nghe…………………………………………………………………….
- Phải biết cách hiểu và có nguyện vọng hiểu người khác. Để giao tiếp tốt
ta cũng phải biết lắng nghe người khác và đôi khi phải biết kiềm chế bản thân
khi cần thiết. - Đối với trẻ, lắng nghe trẻ nói là điều rất quan trọng, lắng nghe trẻ mới
biết được nhu cầu, nguyện vọng, sở thích của trẻ để từ đó định hướng quá trình
giao tiếp và nội dung giao tiếp được tốt nhất.
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Giáo dục