Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.94 KB, 51 trang )
III.7. Không khí
Nồng độ oxy trong lumen của vòi fallope thỏ là 2-6, và 8 trong vòi trứng của chuột đồng, nồng độ oxy trong tử cung thấp hơn so với trong vòi trứng. Các nghiên
cứu trên những loài động vật có vú khác nhau đã chứng minh rằng nuôi cấy trong nồng độ oxy thấp đặc biệt là phôi của loài nhai lại, làm tăng cao sự phát triển của phôi
nuôi cấy trong ống nghiệm. Một vài nghiên cứu cho thấy nồng độ oxy thấp giữa 5-8 làm tăng cao sự phát triển lên giai đoạn phôi nang ở chuột.
Nồng độ CO
2
trong hệ thống nuôi cấy có ảnh hưởng trực tiếp lên pH môi trường. Mặc dù hầu hết môi trường hoạt động trên một dãy rộng pH 7,2-7,4, nhưng
tốt hơn là đảm bảo để pH không vượt quá 7,4. Vì vậy, thích hợp nhất là sử dụng nồng độ CO
2
trong khoảng 5-8.
VIII. ALBUMIN HUYẾT THANH BÒ – BSA BOVINE SERUM ALBUMIN
VIII.1. BSA
Albumin huyết thanh là một trong những protein được nghiên cứu rộng rãi nhất và là protein phong phú nhất trong huyết thanh với nồng độ 5g100ml. Trọng lượng
phân tử: 68000Da 583 amino acid. pH: 7,0 +- 0,2. Autocrine
Paracrine 20-50µl môi trường
được phủ dầu
Hình 7: Sự hỗ trợ lẫn nhau khi nuôi cấy nhómphôi trong thể tích môi trường nhỏ được phủ dầu.
VIII.2. BSA và sự tổng hợp BSA trong cơ thể động vật có vú
Albumin được quan tâm chính là albumin huyết thanh. Từ albumin được sử dụng để mô tả protein hoặc nhóm protein được xác đònh tính chất bởi tính tan trong nước.
Albumin là protein phổ biến nhất trong hệ tuần hoàn và chiếm 80 áp suất keo của máu. Người ta đã chứng minh rằng albumin huyết thanh chòu trách nhiệm chính cho
việc duy trì pH máu.
Albumin của động vật có vú được gan tổng hợp ban đầu ở dạng preproalbumin. Sau khi loại bỏ chuỗi peptide tín hiệu thành proalbumin và tiếp tục loại bỏ 6
propeptide còn lại để trở thành albumin.
Hình 8: Sự tổng hợp bovine serum albumin BSA
VIII.3. Thành phần amino acid trong BSA
Albumin được cấu tạo bởi lượng thấp tryptophan và methionine; lượng lớn cystine và những amino acid tích điện, aspartic và glutamic acid, lysine, và arginine.
Glycine và isoleucine trong BSA thấp hơn trong protein chuẩn bình thường. Ala 48
Cys 35 Asp 41
Glu 58 Phe 30
Gly 17 His 16
Ile 15 Lys 60
Leu 65 Met 5
Asn 14 Pro 28
Gln 21 Arg 26
Ser 32 Thr 34
Val 38 Trp 3
Tyr 21
VIII.4. Đặc tính chức năng của BSA
VIII.4.1. Tạo bọt
Bảng 2: Các thành phần amino acid trong BSA
Preproalbumin H
2
N-M-K-W-V-T-F-L-L-L-L-F-I-S-G-S-A-F-S-R-G-V-F-R-R-E-A-H-K-S-E- Proalbumin
H
2
N-R-G-V-F-R-R-E-A-H-K-S-E- Albumin
H
2
N-E-A-H-K-S-E- Cắt chuỗi peptide tín hiệu
Cắt bỏ chuỗi propeptide
Tạo bọt được đònh nghóa là sự tạo và giữ ổn đònh bọt khí trong dung dòch. Protein được khuyếch tán vào mặt phân cách giữa không khí và nước và làm giảm sức
căng bề mặt. Tại mặt phân cách chúng hiện diện và kết hợp để tạo ra màng dính kết đàn hồi giữa các phân tử. Việc tạo bọt và ổn đònh được cải thiện khi BSA phản ứng với
những protein như lysozyme và clupeine nhờ vào liên kết chéo giữa BSA và lysozyme tại bề mặt phân cách. BSA tiến tới điểm đẳng điện khi lực đẩy tónh điện ở mức tối
thiểu. Khi nó tương tác với lysozyme, sự giản nở và ổn đònh lớn nhất ở pH 8 và 9, giữa điểm đẳng điện của BSA 4,7 và lysozyme 10,7 khi các protein mang điện trái nhau.
Clupeine với pH 12 có ảnh hưởng nhiều hơn lysozyme.
Lipid ức chế sự tạo bọt bằng cách chiếm chỗ của các phân tử protein tại bề mặt phân cách và phá vỡ màng protein. Sự ức chế này của lipid được trung hoà khi BSA
phản ứng với clupeine tại bề mặt phân cách.
VIII.4.2. Khả năng đông đặc của BSA
BSA bò đun nóng tạo thành khối hoà tan thông qua cầu nối disulphide và liên kết không đồng hóa trò.
Alpha-lactalbumin không tạo thành khối hoà tan nhưng phản ứng với BSA qua cầu nối disulphide tạo nên khối hoà tan. Khối hoà tan những phân tử polyme hoá được
hình thành trong suốt giai đoạn ban đầu của sự đông protein được đun nóng, và sự polyme hóa tiếp theo sau dẫn đến sự hình thành mạng lưới gel rắn. Việc thêm alpha-
lactalbumin vào BSA làm giảm khả năng tạo gel của BSA vì bò giới hạn bởi phức hợp đàn hồi.
Sự đông đặc bao gồm 2 bước: bước khởi đầu gồm sự phơi bày hoặc sự phân ly những phân tử protein, sau đó là bước kết khối tức xảy ra các phản ứng liên kết. Cuối
cùng là hình thành gel dưới điều kiện thích hợp. Để hình thành được gel với những tiêu chuẩn cao, bước kết khối cần diễn ra chậm hơn với bước phân ly. Nhiệt độ làm biến
tính của BSA ở 62
C và 64 C. Nhiệt độ làm biến tính BSA tăng khi kết hợp với acid
béo nhưng giảm khi nó phản ứng với clupeine. Vì vậy, những phản ứng của một polymer sinh học như acid béo với BSA dẫn đến làm ổn đònh phân tử BSA, trong khi
những phân tử khác như clupeine làm khởi động bước phân ly của BSA.
VIII.4.3. Phối tử kết nối
Khả năng quan trọng nhất của albumin là khả năng kết nối thuận nghòch với nhiều phối tử. BSA là chất vận chuyển những acid béo không tan trong huyết thanh.
Nó cũng thực hiện nhiều chức năng khác như cô lập các gốc oxygen tự do và bất hoạt các độc tố như bilirubin. Albumin hút mạnh với các acid béo, hematin, bilirubin và thu
hút chính với những hợp chất thơm nhỏ mang điện tích âm. Nó hình thành các nối đồng hoá trò với pyridoxyl phosphat, cysteine, glutathione, và nhiều kim loại khác nhau như
Cu II, Ni II, Hg II, Ag II, và Au I. Như một protein vận chuyển đa chức năng, albumin là chất vận chuyển chính hoặc nguồn cung cấp oxid nitric.
VIII.5. Những nghiên cứu về vai trò của BSA trong môi trường nuôi cấy phôi chuột
Trong thành phần hóa học môi trường nuôi cấy phôi giai đoạn trước làm tổ, huyết thanh hoặc protein có những chức năng vẫn chưa được xác đònh. Mặc dù, BSA
thường có mặt trong tất cả môi trường nuôi cấy phôi chuột giai đoạn trước làm tổ. Năm 1949, Hammond đã có những nghiên cứu ban đầu về vai trò của các đại
phân tử trong môi trường nuôi cấy, thấy rằng phôi chuột 8 tế bào phát triển lên thành phôi nang cần sự kết hợp của lòng trắng trứng trong môi trường. Những nghiên cứu tiếp
theo sau của Whitten năm 1956, cho là những thành phần thiết yếu trong lòng trắng trứng không thể phân tích được. Vì thế năm 1956 Whitten đã thay thế lòng trắng trứng
bằng BSA kết tinh, từ lúc đó việc sử dụng lòng trắng trứng trong môi trường nuôi cấy đã giảm xuống thay vào đó là BSA.
BSA có thể có chức năng dinh dưỡng, như nguồn nitrogen hỗn hợp trong môi trường nuôi cấy phôi. Một chức năng khác là cung cấp amino acid tự do khi thuỷ phân
protein. Trong lòch sử nghiên cứu, việc thay thế BSA bằng các đại phân tử không phải là
protein đã xuất hiện đầu tiên khi Brinster năm 1965 thiết kế những thí nghiệm để chứng minh nhu cầu của những amino acid ngoại sinh trong sự phát triển của phôi
chuột giai đoạn trước làm tổ. Trong những nghiên cứu về những chất tổng hợp thay thế cho BSA, Brinster năm 1965 đã tìm ra một số chất thay thế cho BSA nhưng vẫn
không chứng minh được vai trò dinh dưỡng của BSA trong sự phát triển của phôi chuột 2 tế bào thành phôi nang. Ông cho rằng “một số ảnh hưởng có lợi của BSA và những
amino acid nào đó có thể nhờ vào hoạt động của chúng như những tác nhân bắt giữ, điều hoà quá trình oxi hóa, chất bảo vệ bề mặt tế bào, hoặc chất bảo vệ enzym”.
Những nghiên cứu tiếp sau đó đã chứng minh rằng BSA là một sản phẩm rất hay thay đổi về mặt hóa học, thành phần của chúng tùy thuộc vào sự khác biệt của các
phối tử kết hợp với các đại phân tử. Những thí nghiệm với môi trường thay thế BSA đã thu được những kết quả
không phùø hợp. Từ những thí nghiệm sử dụng PVP
150
polyvinylpyrrolidone – mol.trọng lượng phân tử 150 000 thay thế BSA, năm 1965 của Brinster đã tìm ra rằng
phôi chuột 2 tế bào F
1
lai xa đòi hỏi nguồn nitrogen hỗn hợp để có thể phát triển lên phôi nang. Nguồn nitrogen này là BSA, hỗn hợp amino acid là thành phần của BSA bò
thuỷ phân do Brinster chứng minh vào năm 1965, hoặc glutathionine do Brinster chứng minh vào năm 1968.
Trái lại, năm 1970 Cholewa và Whitten cũng sử dụng PVP thay thế cho BSA đã không thể chứng minh được sự cần thiết của nguồn nitrogen hỗn hợp trong nuôi cấy
phôi chuột 2 tế bào lai F
1
. Brinster và Thomson vào năm 1966 đã chứng minh phôi chuột 8 tế bào lai xa không đòi hỏi nguồn nitrogen hỗn hợp để phát triển lên thành
phôi nang. Kết quả thí nghiệm của Biggers, Summers, và Ginnis vào năm 1997 cho thấy:
hợp tử CF
1
lai xa phát triển thành phôi nang trong môi trường KSOM được thay thế
BSA bằng PVA polyvinyl alcohol, dưới điều kiện này nguồn nitrogen chỉ là glutamine. Kết quả này khác với kết luận của Brinster năm 1965 cho rằng có sự phân
chia của phôi giai đoạn 2 tế bào nhưng không có sự hình thành phôi nang khi glutamine được bổ sung vào môi trường với PVP thay thế cho BSA. Liệu sự khác biệt này là do
sự khác nhau trong thành phần của 2 loại môi trường vẫn chưa được kết luận.
Kết quả thu được từ thí nghiệm này cũng cho thấy rằng năng suất của phôi nang nuôi cấy trong môi trường KSOM với PVA thay thế cho BSA thấp hơn rõ ràng so với
môi trường KSOM với BSA. Như thế BSA được bổ sung vào môi trường KSOM làm tăng sự tác động hình thành phôi nang. KSOM với PVA thay thế cho BSA được bổ
sung amino acid cũng làm tăng sự hình thành phôi nang.
Fissore vào năm 1989 đã chứng minh rằng có thể loại BSA ra khỏi môi trường nuôi cấy thay vào đó là EDTA. Lý do BSA làm tăng sự phát triển phôi vẫn không được
biết rõ ràng, có thể có ít nhất 3 khả năng: 1 BSA làm tăng amino acid được bổ sung
2 BSA cung cấp những phân tử không phải amino acid được kết hợp kích thích sự phát triển
3 BSA cung cấp những chức năng bắt giữ. Năm 1992, Kiernan và Bavister đã chứng minh một số lô BSA kích thích sự
phát triển của phôi chuột 2 tế bào trong nuôi cấy, trong khi một số lô khác lại ức chế. Những nghiên cứu của Evecen, Alkan năm 2002 thấy rằng trong nuôi cấy phôi
chuột từ phôi chuột 2 tế bào: với môi trường M16 và môi trường Whitten nồng độ BSA được bổ sung là 1mgml và 3 mgml là tối ưu cho sự phát triển của phôi chuột 2 tế bào
lên phôi nang và khi nồng độ BSA vượt quá 10 mgml ức chế sự phát triển của phôi chuột.
VII. ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
VIII.1. BSAAlbumin huyết thanh là một trong những protein được nghiên cứu rộng rãi nhất và là protein phong phú nhất trong huyết thanh với nồng độ 5g100ml. Trọng lượngphân tử: 68000Da 583 amino acid. pH: 7,0 +- 0,2. AutocrineParacrine 20-50µl môi trườngđược phủ dầuHình 7: Sự hỗ trợ lẫn nhau khi nuôi cấy nhómphôi trong thể tích môi trường nhỏ được phủ dầu.VIII.2. BSA và sự tổng hợp BSA trong cơ thể động vật có vúAlbumin được quan tâm chính là albumin huyết thanh. Từ albumin được sử dụng để mô tả protein hoặc nhóm protein được xác đònh tính chất bởi tính tan trong nước.Albumin là protein phổ biến nhất trong hệ tuần hoàn và chiếm 80 áp suất keo của máu. Người ta đã chứng minh rằng albumin huyết thanh chòu trách nhiệm chính choviệc duy trì pH máu.Albumin của động vật có vú được gan tổng hợp ban đầu ở dạng preproalbumin. Sau khi loại bỏ chuỗi peptide tín hiệu thành proalbumin và tiếp tục loại bỏ 6propeptide còn lại để trở thành albumin.Hình 8: Sự tổng hợp bovine serum albumin BSAVIII.3. Thành phần amino acid trong BSAAlbumin được cấu tạo bởi lượng thấp tryptophan và methionine; lượng lớn cystine và những amino acid tích điện, aspartic và glutamic acid, lysine, và arginine.Glycine và isoleucine trong BSA thấp hơn trong protein chuẩn bình thường. Ala 48Cys 35 Asp 41Glu 58 Phe 30Gly 17 His 16Ile 15 Lys 60Leu 65 Met 5Asn 14 Pro 28Gln 21 Arg 26Ser 32 Thr 34Val 38 Trp 3Tyr 21VIII.4. Đặc tính chức năng của BSAVIII.4.1. Tạo bọtBảng 2: Các thành phần amino acid trong BSAPreproalbumin HN-M-K-W-V-T-F-L-L-L-L-F-I-S-G-S-A-F-S-R-G-V-F-R-R-E-A-H-K-S-E- ProalbuminN-R-G-V-F-R-R-E-A-H-K-S-E- AlbuminN-E-A-H-K-S-E- Cắt chuỗi peptide tín hiệuCắt bỏ chuỗi propeptideTạo bọt được đònh nghóa là sự tạo và giữ ổn đònh bọt khí trong dung dòch. Protein được khuyếch tán vào mặt phân cách giữa không khí và nước và làm giảm sứccăng bề mặt. Tại mặt phân cách chúng hiện diện và kết hợp để tạo ra màng dính kết đàn hồi giữa các phân tử. Việc tạo bọt và ổn đònh được cải thiện khi BSA phản ứng vớinhững protein như lysozyme và clupeine nhờ vào liên kết chéo giữa BSA và lysozyme tại bề mặt phân cách. BSA tiến tới điểm đẳng điện khi lực đẩy tónh điện ở mức tốithiểu. Khi nó tương tác với lysozyme, sự giản nở và ổn đònh lớn nhất ở pH 8 và 9, giữa điểm đẳng điện của BSA 4,7 và lysozyme 10,7 khi các protein mang điện trái nhau.Clupeine với pH 12 có ảnh hưởng nhiều hơn lysozyme.Lipid ức chế sự tạo bọt bằng cách chiếm chỗ của các phân tử protein tại bề mặt phân cách và phá vỡ màng protein. Sự ức chế này của lipid được trung hoà khi BSAphản ứng với clupeine tại bề mặt phân cách.VIII.4.2. Khả năng đông đặc của BSABSA bò đun nóng tạo thành khối hoà tan thông qua cầu nối disulphide và liên kết không đồng hóa trò.Alpha-lactalbumin không tạo thành khối hoà tan nhưng phản ứng với BSA qua cầu nối disulphide tạo nên khối hoà tan. Khối hoà tan những phân tử polyme hoá đượchình thành trong suốt giai đoạn ban đầu của sự đông protein được đun nóng, và sự polyme hóa tiếp theo sau dẫn đến sự hình thành mạng lưới gel rắn. Việc thêm alpha-lactalbumin vào BSA làm giảm khả năng tạo gel của BSA vì bò giới hạn bởi phức hợp đàn hồi.Sự đông đặc bao gồm 2 bước: bước khởi đầu gồm sự phơi bày hoặc sự phân ly những phân tử protein, sau đó là bước kết khối tức xảy ra các phản ứng liên kết. Cuốicùng là hình thành gel dưới điều kiện thích hợp. Để hình thành được gel với những tiêu chuẩn cao, bước kết khối cần diễn ra chậm hơn với bước phân ly. Nhiệt độ làm biếntính của BSA ở 62C và 64 C. Nhiệt độ làm biến tính BSA tăng khi kết hợp với acidbéo nhưng giảm khi nó phản ứng với clupeine. Vì vậy, những phản ứng của một polymer sinh học như acid béo với BSA dẫn đến làm ổn đònh phân tử BSA, trong khinhững phân tử khác như clupeine làm khởi động bước phân ly của BSA.VIII.4.3. Phối tử kết nốiKhả năng quan trọng nhất của albumin là khả năng kết nối thuận nghòch với nhiều phối tử. BSA là chất vận chuyển những acid béo không tan trong huyết thanh.Nó cũng thực hiện nhiều chức năng khác như cô lập các gốc oxygen tự do và bất hoạt các độc tố như bilirubin. Albumin hút mạnh với các acid béo, hematin, bilirubin và thuhút chính với những hợp chất thơm nhỏ mang điện tích âm. Nó hình thành các nối đồng hoá trò với pyridoxyl phosphat, cysteine, glutathione, và nhiều kim loại khác nhau nhưCu II, Ni II, Hg II, Ag II, và Au I. Như một protein vận chuyển đa chức năng, albumin là chất vận chuyển chính hoặc nguồn cung cấp oxid nitric.VIII.5. Những nghiên cứu về vai trò của BSA trong môi trường nuôi cấy phôi chuộtTrong thành phần hóa học môi trường nuôi cấy phôi giai đoạn trước làm tổ, huyết thanh hoặc protein có những chức năng vẫn chưa được xác đònh. Mặc dù, BSAthường có mặt trong tất cả môi trường nuôi cấy phôi chuột giai đoạn trước làm tổ. Năm 1949, Hammond đã có những nghiên cứu ban đầu về vai trò của các đạiphân tử trong môi trường nuôi cấy, thấy rằng phôi chuột 8 tế bào phát triển lên thành phôi nang cần sự kết hợp của lòng trắng trứng trong môi trường. Những nghiên cứu tiếptheo sau của Whitten năm 1956, cho là những thành phần thiết yếu trong lòng trắng trứng không thể phân tích được. Vì thế năm 1956 Whitten đã thay thế lòng trắng trứngbằng BSA kết tinh, từ lúc đó việc sử dụng lòng trắng trứng trong môi trường nuôi cấy đã giảm xuống thay vào đó là BSA.BSA có thể có chức năng dinh dưỡng, như nguồn nitrogen hỗn hợp trong môi trường nuôi cấy phôi. Một chức năng khác là cung cấp amino acid tự do khi thuỷ phânprotein. Trong lòch sử nghiên cứu, việc thay thế BSA bằng các đại phân tử không phải làprotein đã xuất hiện đầu tiên khi Brinster năm 1965 thiết kế những thí nghiệm để chứng minh nhu cầu của những amino acid ngoại sinh trong sự phát triển của phôichuột giai đoạn trước làm tổ. Trong những nghiên cứu về những chất tổng hợp thay thế cho BSA, Brinster năm 1965 đã tìm ra một số chất thay thế cho BSA nhưng vẫnkhông chứng minh được vai trò dinh dưỡng của BSA trong sự phát triển của phôi chuột 2 tế bào thành phôi nang. Ông cho rằng “một số ảnh hưởng có lợi của BSA và nhữngamino acid nào đó có thể nhờ vào hoạt động của chúng như những tác nhân bắt giữ, điều hoà quá trình oxi hóa, chất bảo vệ bề mặt tế bào, hoặc chất bảo vệ enzym”.Những nghiên cứu tiếp sau đó đã chứng minh rằng BSA là một sản phẩm rất hay thay đổi về mặt hóa học, thành phần của chúng tùy thuộc vào sự khác biệt của cácphối tử kết hợp với các đại phân tử. Những thí nghiệm với môi trường thay thế BSA đã thu được những kết quảkhông phùø hợp. Từ những thí nghiệm sử dụng PVP150polyvinylpyrrolidone – mol.trọng lượng phân tử 150 000 thay thế BSA, năm 1965 của Brinster đã tìm ra rằngphôi chuột 2 tế bào Flai xa đòi hỏi nguồn nitrogen hỗn hợp để có thể phát triển lên phôi nang. Nguồn nitrogen này là BSA, hỗn hợp amino acid là thành phần của BSA bòthuỷ phân do Brinster chứng minh vào năm 1965, hoặc glutathionine do Brinster chứng minh vào năm 1968.Trái lại, năm 1970 Cholewa và Whitten cũng sử dụng PVP thay thế cho BSA đã không thể chứng minh được sự cần thiết của nguồn nitrogen hỗn hợp trong nuôi cấyphôi chuột 2 tế bào lai F. Brinster và Thomson vào năm 1966 đã chứng minh phôi chuột 8 tế bào lai xa không đòi hỏi nguồn nitrogen hỗn hợp để phát triển lên thànhphôi nang. Kết quả thí nghiệm của Biggers, Summers, và Ginnis vào năm 1997 cho thấy:hợp tử CFlai xa phát triển thành phôi nang trong môi trường KSOM được thay thếBSA bằng PVA polyvinyl alcohol, dưới điều kiện này nguồn nitrogen chỉ là glutamine. Kết quả này khác với kết luận của Brinster năm 1965 cho rằng có sự phânchia của phôi giai đoạn 2 tế bào nhưng không có sự hình thành phôi nang khi glutamine được bổ sung vào môi trường với PVP thay thế cho BSA. Liệu sự khác biệt này là dosự khác nhau trong thành phần của 2 loại môi trường vẫn chưa được kết luận.Kết quả thu được từ thí nghiệm này cũng cho thấy rằng năng suất của phôi nang nuôi cấy trong môi trường KSOM với PVA thay thế cho BSA thấp hơn rõ ràng so vớimôi trường KSOM với BSA. Như thế BSA được bổ sung vào môi trường KSOM làm tăng sự tác động hình thành phôi nang. KSOM với PVA thay thế cho BSA được bổsung amino acid cũng làm tăng sự hình thành phôi nang.Fissore vào năm 1989 đã chứng minh rằng có thể loại BSA ra khỏi môi trường nuôi cấy thay vào đó là EDTA. Lý do BSA làm tăng sự phát triển phôi vẫn không đượcbiết rõ ràng, có thể có ít nhất 3 khả năng: 1 BSA làm tăng amino acid được bổ sung2 BSA cung cấp những phân tử không phải amino acid được kết hợp kích thích sự phát triển3 BSA cung cấp những chức năng bắt giữ. Năm 1992, Kiernan và Bavister đã chứng minh một số lô BSA kích thích sựphát triển của phôi chuột 2 tế bào trong nuôi cấy, trong khi một số lô khác lại ức chế. Những nghiên cứu của Evecen, Alkan năm 2002 thấy rằng trong nuôi cấy phôichuột từ phôi chuột 2 tế bào: với môi trường M16 và môi trường Whitten nồng độ BSA được bổ sung là 1mgml và 3 mgml là tối ưu cho sự phát triển của phôi chuột 2 tế bàolên phôi nang và khi nồng độ BSA vượt quá 10 mgml ức chế sự phát triển của phôi chuột.
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Sức khỏe – Sắc đẹp