Tìm hiểu về thiên chúa giáo (Ki Tô giáo, Công giáo) – PGS Hà Hoàng Kiệm

THIÊN CHÚA GIÁO

– Tổng quát về lịch sử dân tộc Thiên Chúa Giáo .
– Tổ chức Giáo Hội .

–  Cộng Đồng Vatican II.

– Giáo lý và những Điều Răn .
– Các phép Bí tích .
– Các Dòng tu .
– Hai Chi phái lớn .
– Thiên Chúa Giáo tại Nước Ta .
– Tiểu sử Đức Chúa Jésus .

Kết quả hình ảnh cho chúa jesus

Thiên Chúa là Đức Chúa Trời, tức là Đấng làm vua cõi Trời, Đấng đã tạo dựng ra vạn vật. Thiên Chúa Giáo là đạo thờ Đức Chúa Trời .

Thiên Chúa Giáo do Đức Chúa Jésus Christ mở ra tại nước Do Thái cách đây gần 2000 năm, nên còn được gọi là đạo Gia-tô (Da-tô) hay đạo Ky-tô, đạo Cơ-đốc, cũng thường được gọi là đạo Thiên Chúa hay Thiên Chúa giáo. (Chữ Jésus phiên âm là : Giê-xu, hay Gia-tô (Da-tô); chữ Christ phiên âm là Ki-tô hay Cơ-đốc).

Khi đạo Thiên Chúa bị phân loại ra làm nhiều Giáo hội thì người ta dùng từ ngữ Công giáo để chỉ Giáo hội La-Mã ( Roma ), phân biệt với những Giáo hội khác .
“ Công giáo ( Catholicisme ) là từ ngữ có nguồn gốc Hy Lạp : Katholicos, có nghĩa là Phổ quát ( Universel ), để chỉ rằng Thiên Chúa giáo là một tôn giáo phổ quát cho tổng thể mọi người, mọi dân tộc bản địa .
Lúc đầu, Công giáo là một tính từ để chỉ một đức tính của Thiên Chúa giáo là đạo phổ quát. Trong Kinh Tin Kính được soạn thảo ở Cộng Đồng Nicéa I ( năm 351 ) mà ngày này Giáo hội Chính Thống cũng như Giáo hội Công giáo đều tuyên xưng : “ Tôi tin Giáo hội duy nhất, Thánh thiện, công giáo và tông truyền ” .
Công giáo được truyền sang Nước Ta từ đầu thế kỷ 17. Các vua quan thời nhà Lê gọi Công giáo là Hoa Lang giáo ( tức là đạo của người Bồ Đào Nha, đạo của người Châu Âu ). Dưới thời nhà Nguyễn, Công giáo được gọi là đạo Da-Tô ( cũng viết là Gia Tô ), có khi cũng gọi là đạo Cơ-Đốc .
Trong Hòa Ước ký kết giữa nước Pháp và Triều đình vua Tự Đức ngày 15-3-1874, lần tiên phong cụm từ Thiên Chúa giáo được sử dụng .
Thiên Chúa giáo là tôn giáo thờ Đấng Thiên Chúa, tức là Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối Cao. Do thái giáo cũng thờ Đấng Chúa Trời là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối Cao. Người Hồi giáo cũng thờ Đấng Alla là Đấng Tạo dựng, Đấng Tối Cao .
Vậy nếu gọi một thành phần của đạo Ky-tô là Công giáo ( Giáo hội Công giáo ) và người Công giáo thì cũng để chỉ nói rằng, Công giáo là đạo của mọi người, cho mọi dân tộc bản địa, chứ không riêng gì cho một chủng tộc hay một vương quốc nào, như Thần đạo là đạo của người Nhật, chứ Công giáo không hề có nghĩa là đạo Công như trường Công, hoặc là đạo được chính thức nhìn nhận như một Quốc đạo. ” ( Trích trong quyển Công giáo việt nam qua quy trình 50 năm : 1945 – 1995 )

1. Tổng quát về Lịch sử  của Thiên Chúa giáo

Thiên Chúa giáo do Đức Chúa Jésus Christ mở ra tại xứ Galilée nước Do Thái, dưới thời vua Hérode .
Đức Chúa Jésus khởi đầu giảng đạo vào năm Ngài 30 tuổi. Ngài thâu nhận 12 môn đệ, giảng đạo được 3 năm, bị Thầy Cả giáo phẩm đạo Do Thái tên là Cai-phe, hợp tác với chánh quyền thời đó là quan Tổng Đốc Pilate bắt giữ và giết chết Đức Chúa Jésus bằng cách đóng đinh tay và chân căng trên Thập tự giá .
Năm Đức Chúa Jésus giáng sinh được qui định làm năm khởi đầu cho kỷ nguyên Tây lịch ( Dương lịch ) .
Đạo Thiên Chúa hình thành dựa trên cơ sở Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Đạo Thiên Chúa giữ nguyên phần Giáo lý cơ bản và tín điều của đạo Do Thái, nhìn nhận những điều chép trong Kinh Thánh Cựu Ước là đúng. Như thế, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể xem, Thiên Chúa giáo tiếp nối đuôi nhau, chấn hưng và tăng trưởng Do Thái giáo .
– Thế kỷ thứ 1, Thiên Chúa giáo bị nhà cầm quyền không cho và hàng chỉ huy Do Thái giáo đố kỵ, nên Thiên Chúa giáo chỉ truyền đạo hạn hẹp trong giới tầm trung và giới nô lệ bần hàn. Các hoạt động và sinh hoạt của Thiên Chúa giáo phải núp dưới bóng đạo Do Thái thì mới được yên ổn .
Khoảng năm 60, nhiều vị Thánh Tông đồ bị nhà cầm quyền sát hại, trong đó có 2 vị : Phao-lô và Phê-rô ( Pierre ) bị sát hại tại La Mã ( Rome ). Thánh Phê-rô bị giết chết bằng cách đóng đinh trên Thập tự giá nhưng đầu bị quay ngược xuống đất .
– Thế kỷ thứ 2, Thiên Chúa giáo được nhiều người tin theo, giảng dạy được một số ít Giáo sĩ chuyên nghiệp, khởi đầu hình thành Giáo hội .
– Thế kỷ thứ 3, Thiên Chúa giáo tăng trưởng khá hơn, nhiều người giàu và có thế lực tin theo đạo. Chính quyền Đế quốc La Mã cũng mở màn đổi khác thái độ, từ chỗ cấm đạo, chuyển sang ủng hộ và tạo điều kiện kèm theo cho Thiên Chúa giáo tăng trưởng, để không thay đổi trật tự xã hội, và củng cố Đế quyền. Triều đại vua Dioclétien ( 258 – 305 ) bãi bỏ lệnh cấm đạo Thiên Chúa .
Năm 313, Hoàng đế Constantin ( 270 – 337 ) ra sắc chỉ nhìn nhận Thiên Chúa giáo là Quốc đạo của Đế quốc La Mã, trả lại những gia tài của Giáo hội đã bị tịch thu trước kia. Hoàng đế Constantin lại cho thiết kế xây dựng một Hà Nội Thủ Đô mới của Đế quốc La Mã tại thành phố Byzance của Thổ Nhĩ Kỳ, đổi tên là Constantinople ( ngày này là Istambul, một thành phố hải cảng lớn của Thổ Nhĩ Kỳ ) .
Và như vậy, Thiên Chúa giáo có 2 TT lớn : một ở tại Roma ( La Mã ), một ở Constantinople. Trụ sở của Giáo Hội và Giáo Hoàng đặt tại La Mã .
– Đầu thế kỷ thứ 9, Giáo Hội Thiên Chúa giáo ủng hộ vua Charlemagne, Hoàng đế xứ Thổ Nhĩ Kỳ, kéo quân đến thành La Mã trừng trị những kẻ chống đối Giáo hội. Giáo Hoàng Léon III phong vua Charlemagne làm Hoàng đế của Đế quốc La Mã .
Tại Constantinople, những Giáo sĩ xây dựng Giáo hội, gọi là Giáo hội Đông của Thiên Chúa giáo, và gọi Giáo hội tại La Mã là Giáo hội Tây. Đứng đầu Giáo hội Tây là Giáo Hoàng La Mã, và đứng đầu Giáo hội Đông là Thượng Phụ Giáo chủ .
– Thế kỷ thứ 11, năm 1054, sứ giả của Giáo hội La Mã đến đặt lên bàn thờ cúng tại Thánh đường Santa Sophia ở Constantinople của Giáo hội Đông, một Sắc lịnh của Đức Giáo Hoàng, cắt đứt quan hệ với Giáo hội Đông, và phạt vạ Thượng Phụ Giáo chủ .
Lúc đó, Thượng Phụ Giáo chủ là Mi-ca-e liền triệu tập Giáo hội Đông, trả đũa lại, bằng cách công bố tuyệt giao với Giáo hội La Mã và phạt vạ Giáo Hoàng .

Từ sự kiện nầy, Giáo hội Đông thành lập Chính Thống giáo (Orthodoxie), với ý nghĩa là đạo được chính truyền chứ không phải là Tà đạo như chỉ trích của Giáo Hoàng. (Xem phía sau: Các Chi phái lớn của Thiên Chúa giáo).

– Thế kỷ 12 và 13, dưới thời 2 vị Giáo Hoàng : Grégoire VII ( 1073 – 1085 ) và Innocent ( 1198 – 1216 ), thế lực của Giáo hội La Mã rất mạnh, khiến những vua chúa những nước phải tùng phục Giáo Hoàng. Giáo Hoàng có quyền phong vương và ban vương miện cho những Hoàng đế .
Trong 2 thế kỷ 12 và 13, Giáo hội La Mã hợp lực với những Hoàng đế ở Châu Âu, mở ra 7 cuộc Thánh chiến, lê dài 175 năm, từ năm 1096 đến năm 1270, đánh với quân của Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không mang lại thắng lợi nào, phải rút quân về. Số người chết trong 7 cuộc Thánh chiến ấy rất nhiều .
Cũng trong thời Trung cổ này, vào năm 1184, Giáo Hoàng Licius ban sắc chỉ cho những Giám Mục được lập những Tòa án Tôn giáo tại Địa Phận để xét xử những người phạm tội không tin phục theo Giáo hội. Các Tòa án này đã giết chết rất dã man và rất oan uổng biết bao nhiêu người không theo Giáo hội La Mã .

– Vào thế kỷ thứ 16, năm 1517, Ông Martin Luther người Đức, một Linh Mục của Giáo hội La Mã, công bố “95 Luận đề” cải cách toàn bộ Thiên Chúa giáo, tại nhà thờ Wittenberg nước Đức, được nhiều người ủng hộ. Đó là khởi điểm để mở ra đạo Tin Lành, biệt lập và chống đối Giáo hội La Mã.

Đức Giáo Hoàng La Mã gọi đạo Tin Lành là Lạc giáo, và những người theo đạo Tin Lành là Thệ phản .
– Thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Giáo hội La Mã hợp tác ngặt nghèo với những cường quốc Âu Châu, đem Thiên Chúa giáo truyền bá đến những nước thuộc địa ở Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu và Úc Châu. Do đó, Thiên Chúa giáo có rất đông Fan Hâm mộ ở khắp nơi trên quốc tế .
Theo thống kê của QUID năm 1995, tổng số Fan Hâm mộ của Công giáo, Chính Thống giáo và đạo Tin Lành ở những Châu Lục như sau đây :
__________________________________________________
Công giáo Chính Thống giáo Tin Lành
__________________________________________________
Châu Âu 285.500.000 35.000.000 73.500.000
Liên Xô cũ 54.140.000 92.300.000
Châu Á Thái Bình Dương 86.000.000 3.500.000 78.400.000
Châu Phi 88.900.000 27.100.000 82.900.000
Châu Mỹ 461.300.000 5.900.000 111.500.000
Châu Úc 7.000.000 600.000 7.300.000
______________________________________________
Tổng cộng : 928.500.000 164.500.000 363.300.000

2.  Tổ chức Giáo hội

2.1. Giáo Huấn

Hàng Giáo phẩm của Thiên Chúa giáo gồm 5 cấp sau đây, tính từ trên xuống dưới :
1. Giáo Hoàng .
2. Hồng Y .
3. Tổng Giám Mục .
4. Giám Mục .
5. Linh Mục .
Phẩm thấp nhất là Linh Mục, được huấn luyện và đào tạo đặc biệt quan trọng trong những Chủng Viện và Đại Chủng Viện. Linh Mục được thọ phong bởi Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng .
Linh Mục được thăng cấp từ từ lên Giám Mục, rồi lên Tổng Giám Mục, và Hồng Y .
Khi Đức Giáo Hoàng qui liễu, những vị Hồng Y trên toàn quốc tế tập hợp lại thành Hồng Y Đoàn, để bầu ra một vị Hồng Y xứng danh nhất vào chức vụ Giáo Hoàng, và Giáo Hoàng giữ mãi chức vụ nầy cho đến khi chết, mới được bầu vị khác lên tiếp nối đuôi nhau quản lý Giáo Hội .
Đạo phục của Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục đều là áo chùng đen dài tới chân .
Đạo phục của Hồng Y là áo chùng màu đỏ .
Đạo phục của Giáo Hoàng thì toàn màu trắng .

2.2. Tổ chức Giáo hội

Giáo hội Thiên Chúa giáo, về phương diện hữu hình, là một mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai từ địa phương đến TW, từ thành viên đến toàn diện và tổng thể, từ tập thể nhỏ đến tập thể lớn .
Trước hết là người Fan Hâm mộ, gọi là Giáo hữu, Ky-tô hữu, Giáo dân, là người đã thọ lãnh phép Bí tích Rửa tội của Giáo Hội để trở thành Ky-tô hữu ( Chrétiens ) .
Nhiều Giáo hữu làm thành Giáo Hội, hay Họ Đạo ( Chrétienté ) .
Nhiều Giáo Họ làm thành Giáo Xứ ( Paroisse ). Đứng đầu Giáo Xứ là một Linh Mục .
Nhiều Giáo Xứ làm thành Giáo Hạt ( District ). Đứng đầu Giáo Hạt là Linh Mục Hạt Trưởng .
Nhiều Giáo Hạt làm thành Giáo Phận hay Địa Phận ( Diocèse ). Đứng đầu Giáo Phận là một vị Giám Mục .
Nhiều Giáo Phận ( Địa Phận ) làm thành Tổng Giáo Phận ( Archidiocèse ) hay Giáo Tỉnh ( Province ecclésiastique ). Đứng đầu Tổng Giáo Phận là một vị Tổng Giám Mục .
Nhiều Giáo Tỉnh làm thành Giáo Hội Quốc Gia ( Église Nationale ), đứng đầu là Hội Đồng Giám Mục .
Nhiều Giáo Hội Quốc Gia làm thành Giáo Hội Hoàn Vũ ( Eglise Universelle ), đứng đầu là Đức Giáo Hoàng .
Theo Luật Giáo hội, chỉ có Giáo Xứ, Giáo Phận và Giáo Hội Hoàn Vũ là những cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai có thực quyền :
– Linh Mục Chánh Xứ có quyền trong Giáo Xứ của mình, do Giám Mục ban .
– Giám Mục hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, có quyền trong Giáo Phận, do kế nghiệp của Thánh Tông Đồ .
– Đức Giáo Hoàng ( thường gọi là Đức Thánh Cha, Le Saint Père ) có quyền trên Giáo Hội Hoàn Vũ, do quyền của Thánh Tông Đồ Phê-rô, đại diện thay mặt Đức Chúa Jésus ban cho .
– Còn Linh Mục Hạt Trưởng trong Giáo Hạt, Tổng Giám Mục trong Giáo Tỉnh, hay Hội Đồng Giám Mục, so với những Giám Mục trong một nước, chỉ có quyền điều hợp .

2.2.1. Giáo Xứ

Giáo Xứ là đơn vị chức năng thấp nhất có tư cách pháp nhân của Giáo Hội, có một vị Linh Mục Chánh Xứ đứng đầu .
Mỗi Giáo Xứ hoàn toàn có thể được chia làm nhiều Họ Đạo, tùy theo số Fan Hâm mộ cư ngụ trong khu vực. Mỗi Họ Đạo lập ra một ngôi Nhà Nguyện. Mỗi Giáo Xứ có một ngôi Nhà Thờ .
Giáo Hội La Mã Trung Ương đặc biệt quan trọng chăm sóc đến những Giáo Xứ, vì nó là nền tảng của Giáo Hội, và nơi đó diễn ra những hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng của Giáo dân, cũng là nơi có mối quan hệ ngặt nghèo giữa Giáo quyền và Giáo dân .
Linh Mục Chánh Xứ có trách nhiệm :
– Làm những phép Bí tích cho Fan Hâm mộ ( trừ 2 phép Bí Tích : Thêm Sức và Truyền Chức Thánh ) .
– Lập và lưu giữ những Sổ sách : Sổ Rửa tội, Sổ Hôn phối, Sổ Tử, và những loại Sổ sách khác .
– Cử hành những nghi lễ tôn giáo tại Nhà Thờ vào những ngày Chúa nhật và những ngày lễ hội khác .
– Cử hàng Lễ An táng, Lễ Hôn phối cho những Fan Hâm mộ trong Xứ .
Trợ giúp cho Linh Mục Chánh Xứ có : Linh Mục Phó Xứ, những vị Phó Tế .
Nhiều Giáo Xứ kế cận kết hợp thành một Giáo Hạt, có một Linh Mục Hạt Trưởng đứng đầu .
Các Linh Mục Chánh Xứ, Phó Xứ, Linh Mục Hạt Trưởng đều do Giám Mục Địa Phận chỉ định .
Giáo Hạt, Họ Đạo không có tư cách pháp nhân so với Giáo Hội .

2.2.2. Giáo Phận (Địa Phận)

Nhiều Giáo Xứ ( hoặc nhiều Giáo Hạt, nếu có tổ chức triển khai cấp Giáo Hạt ), hợp lại thành một Giáo Phận, có một vị Giám Mục đứng đầu .
Giáo Phận là cấp hành chính chính thức của Giáo Hội, có tư cách pháp nhân, nên được gọi là Giáo Hội Riêng, thường trực Tòa Thánh Vatican về mọi phương diện. Việc xây dựng hay bãi bỏ đều do Giáo Hội Trung Ương Tòa Thánh Vatican quyết định hành động .
Theo Giáo Luật, quyền hành của Giám Mục rất to lớn, gồm có quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp, về phương diện tôn giáo trong Giáo Phận nghĩa vụ và trách nhiệm .
Cụ thể, Giám Mục có quyền :
– Thành lập những Giáo Xứ, Giáo Hạt, chỉ định những Linh Mục Hạt Trưởng, Linh Mục Chánh Xứ và Phó Xứ .
– Thường xuyên kinh lý những Giáo Xứ trong Giáo Phận .
– Báo cáo với Giáo Hoàng hàng loạt tình hình Đạo sự trong Giáo Phận hằng năm .
– Trong hạn 5 năm, phải có một lần đến La Mã để yết kiến Đức Giáo Hoàng, viếng mộ của 2 Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lồ .
Linh Mục muốn được phong lên Giám Mục, Linh Mục phải có đủ 5 năm công nghiệp, có tài đức tiêu biểu vượt trội, và có tối thiểu 35 tuổi .
Việc phong chức Giám Mục do Tòa Thánh Vatican quyết định hành động .
Trợ giúp Giám Mục có : Giám Mục Phó, Giám Mục Phụ Tá, Hội Đồng Tư Vấn, Hội Đồng Linh Mục .
Giám Mục thao tác tại Tòa Giám Mục .

2.2.3. Giáo Tỉnh

Nhiều Giáo Phận trong một khu vực kết hợp thành Giáo Tỉnh, có một vị Tổng Giám Mục đứng đầu .
Giáo Tỉnh là một đơn vị chức năng lớn có tư cách pháp nhân trong Giáo Hội Thiên Chúa giáo .
Tổng Giám Mục có quyền :
– Chăm lo đức tin và kỷ luật của Giáo Hội .
– Kinh lý những Giáo Phận thuộc quyền .
– Đề cử chỉ định Giám Mục của Giáo Phận khi chức vụ nầy bị khuyết .
Nhiều Giáo Tỉnh trong một nước họp lại thành Giáo Hội Quốc gia. Đứng đầu Giáo hội Quốc gia là Hội Đồng Giám Mục. Giáo hội Quốc gia không có tư cách pháp nhân của Giáo Hội, chỉ có quyền điều hợp những hoạt động giải trí trong tôn giáo mà thôi .
Hội Đồng Giám Mục của Giáo hội Quốc gia đàm đạo và quyết định hành động đường hướng hoạt động giải trí của Giáo hội trong một nước .

2.2.4.  Giáo triều La Mã  & Nhà nước Vatican

–  Nguồn gốc của Roma và Vatican:

Tất cả những người Công giáo, khi đặt chân đến Roma ( La Mã ), đứng tại Quảng trường Thánh Phê-rô đều ý thức rằng mình đang ở tại Trung tâm của Giáo Hội .
Vatican ( trong lòng thành phố Roma ), trước hết là nơi mà Thánh Phê-rô Tông đồ đã chịu tử đạo, và cũng là nơi Đức Giáo Hoàng, người lãnh đạo Giáo Hội Công giáo, sống và thao tác .
Nhưng tại sao là Roma ? Tại sao là Vatican ?

+ Từ ngôi mộ của Thánh Phê-rô:

Trong tiến trình khởi đầu của Thiên Chúa giáo, vào năm 49, đã có những người Thiên Chúa giáo sống tại Roma .
Thánh Phao-lô chỉ đến đây vào năm 61 khi bị cầm tù, những bức thư của Thánh Phao-lô gửi những tín hữu Roma đã được viết vào những năm 57-58. Cũng trong quy trình tiến độ này, theo truyền thống cuội nguồn, Thánh Phê-rô đến Roma, TP. hà Nội của Đế quốc La Mã .
Đến năm 64, Hoàng đế Néron ra lệnh bắt bớ và tàn sát người Thiên Chúa giáo, và Thánh Phê-rô là một trong những nạn nhân nổi tiếnng nhất .
Cuộc tử đạo của Thánh Phê-rô diễn ra tại một đấu trường dài 300 mét, do Hoàng đế Roma thiết kế xây dựng tại một nơi nằm giữa đồi Vatican, một trong 8 ngọn đồi của Roma, ở bên bờ phải của sông Tibre. Thánh Phê-rô tử đạo trên Thập tự giá, bị đóng đinh đầu trở ngược xuống đất .
Không lâu sau đó, Thánh Phao-lô cũng chịu chung số phận khi đang đi trên đường Ostie. Nơi này thời nay đã mọc lên một ngôi Thánh đường Thánh Phao-lô ngoài thành phố .
Được xem là cột trụ của Giáo Hội, mộ của Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô khi nào cũng được những tín hữu tôn kính, dưới hình thức bí mật lặng lẽ trong những thời kỳ bách hại và công khai minh bạch kể từ triều đại của Hoàng đế Constantin. Chính vị vua này đã cho kiến thiết xây dựng vào khoảng chừng năm 326 và 350, ngôi Đền Thờ tiên phong, và vào thế kỷ thứ 16-17, được sửa chữa thay thế bằng ngôi Đền do Michei Ange vẽ kiểu, sống sót đến thời nay .
Nơi chịu tử đạo của vị đứng đầu những Thánh Tông đồ ở phía dưới Bàn thờ chính, do đó, nơi này được gọi là bàn thờ cúng “ Đức Tin ” ( Đức Tin vào Chúa Ky-tô ) .

+ Từ Đức Chúa Jésus đến Phê-rô và Giáo Hoàng

Ngay từ buổi đầu của Thiên Chúa giáo, mộ Thánh Phê-rô đã trở nên điểm qui chiếu cho Giáo Hội và cho người coi sóc Giáo Hội .
Khoảng năm 180, Giám Mục Irénée, ở Lyon, link những Giám Mục kế vị nơi Tòa Thánh Rôma với Thánh Phêrô và cho rằng Thánh Phêrô và những Giám Mục kế vị ở Rôma có quyền trên toàn thể Giáo Hội. Do đó, chính tại Giáo Hội Rôma, những yếu tố Giáo lý và Kỷ luật tương quan đến những Giáo hội khác được xử lý .
Đến đầu thế kỷ thứ 3, người ta cho rằng quyền bính của những Giám Mục Rôma là do những lời của Đức Chúa Jésus nói với Thánh Tông đồ Phêrô : ” Ngươi là đá và trên đá nầy, Ta sẽ xây Giáo Hội của Ta ” .
Nhưng trong khi những Giáo hội Đông phương xem Giám Mục Rôma như là những người đứng đầu theo tước vị và danh dự, thì tại Tây phương, vào thời Trung cổ, Giám Mục Rôma ngày càng có nhiều quyền lực tối cao đến độ trở nên tương tự với một ông vua hay vị quốc trưởng đứng đầu những nước của Tòa Thánh ( États pontificaux ) .

+ Từ các nước của Tòa Thánh

Trải qua những thế kỷ, những nước của Tòa Thánh này được hình thành theo những biến cố chánh trị và là những món quà của những Hoàng đế và những vua .
Trong thời kỳ bức hại, những Giáo Hoàng cư ngụ trong thành Rôma, chưa có Tòa Thánh chính thức .
Nhưng năm 313, Hoàng đế Constantin Tặng cho Giáo Hoàng điện Latran và cho kiến thiết xây dựng nơi trại lính cũ một Vương Cung Thánh Đường Thánh Jean de Latran, mà ngày này vẫn còn là Nhà Thờ Chính Tòa của Giáo Phận Rôma .
Sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ ( 476 ), quân ngoại xâm người Byzantin tranh chấp Rôma với nước Ý. Vào thế kỷ thứ 8, người Lombard chiếm đóng miền Bắc và miền Trung nước này, một lần nữa lại rình rập đe dọa Rôma. Đức Giáo Hoàng cầu cứu những vua nước Pháp .
Năm 754, Pépin le Bref Tặng Kèm Đức Giáo Hoàng những chủ quyền lãnh thổ cũ của người Byzantin như Ravenue, Ancône, và lãnh địa Rôma. Đây là khởi điểm khai sinh những nước của Tòa Thánh, mà lịch sử dân tộc hòa nhập với lịch sử dân tộc của quyền Giáo Hoàng, cho đến năm 1870 .
Năm 1870, coi như hàng loạt những nước của Tòa Thánh bị sáp nhập vào nước Italia, kể cả thành Rôma .

+ Đến Nhà nước Vatican

Kể từ thời gian này, những Giáo Hoàng tự xem là “ tù nhân ” tại điện Vatican, nơi những Ngài trú ngụ từ thế kỷ 14. Cho nên trong vòng 600 năm, có một sự căng thẳng mệt mỏi giữa quyền Giáo Hoàng và nhà nước Italia. Thỏa ước Latran năm 1929 chấm hết thực trạng trên bằng cách xây dựng Nhà nước Vatican, bảo vệ cho Đức Giáo Hoàng và Tòa Thánh sự tự do thiết yếu để cai quản Giáo Hội về mặt ý thức .

– Nhà nước Vatican

Vatican là một Nhà nước có chủ quyền lãnh thổ nhỏ ( 44 mẫu ) độc lập và có chủ quyền lãnh thổ, được điều hành quản lý bởi một Ủy Ban gồm 6 Hồng Y do Đức Giáo Hoàng chỉ định .
Vatican có một Văn phòng Hộ tịch, một chính sách Bảo hiểm xã hội, một Bưu điện, một Nhà ga, một Siêu thị, một Bảo Tàng viện, những Thương Mại Dịch Vụ Kỹ thuật và Y tế, một Đài Phát thanh Truyền hình, một Tòa soạn và nhà in báo chí truyền thông. . .
Trật tự chung của thành Vatican được một đội Kiểm soát đảm nhiệm ; trật tự tại Quảng trường Thánh Phêrô được Cảnh sát Italia đảm trách. Đội Vệ binh người Thụy sĩ ship hàng Đức Giáo Hoàng. Các thành viên của đội phải độc thân ( trừ những Sĩ quan và Hạ Sĩ quan ) theo đạo Công giáo, dưới 25 tuổi và cao tối thiểu là 1,75 mét .
Khuôn viên 44 mẫu được những bức tường bao quanh chỉ là phần nổi của tảng băng mà thôi. Hiệp ước Latran dành cho Vatican khoảng chừng 20 gia tài và bất động sản, được hưởng qui chế trị ngoại pháp quyền như : Rộng nhất là điện Castel Gandolpho, nơi Đức Giáo Hoàng thường nghỉ hè ; Đền thờ Thánh Calixte trong khu Transtevere mà ở đó những Hội Đồng của Tòa Thánh đều có Văn phòng .
Ngoài ra còn 440 mẫu đất ở bên bờ hồ Bracciano do Nhà nước Italia nhượng lại cho Vatican vào những năm 50. Vùng đất nầy cũng được hưởng qui chế như những bất động sản đã nói trên và nơi đây đã cho dựng lên những cột ăng-ten của Đài Phát Thanh Vatican ( Radio Vatican ) .
Hiệp Ước Latran còn qui định cấp cho Vatican 1,75 tỷ Lia thời đó, đền bù những chủ quyền lãnh thổ bị mất .
Ngày nay, Vatican có tại Rôma một diện tích quy hoạnh bất động sản đáng kể, khoảng chừng 6 cây số vuông. Ngoài ra, những gia tài của những bộ phận khác của Vatican, nhưng độc lập về mặt tài chánh, còn gây ấn tượng hơn nữa. Theo Tạp chí Limes, chúng chiếm 6.180 mẫu tại những Q. ở Rôma và Fiumicino và 250.000 mẫu trên toàn nước Italia .
Nước Vatican có Quốc kỳ là lá cờ của những nước Tòa Thánh trước đây, có từ ngày 17-9-1825, với hai giải vải màu vàng và trắng, trên giải màu trắng có mũ triều Thiên 3 tầng ( Tiare pontificale ) bằng vàng với những giải đỏ và chìa khóa Đền Thánh Phêrô .
Cờ Tòa Thánh, nói đúng hơn là quốc kỳ của vương quốc Vatican, mà tất cả chúng ta thấy treo trong hoặc ngoài Nhà Thờ ở việt nam, chỉ có 2 giải vàng và trắng .
Nước Vatican cũng có Quốc ca. Bản Quốc ca tiên phong được sáng tác năm 1857, do một nhà soạn nhạc không mấy nổi tiếng, người nước Áo, tên Hallmayr. Năm 1949, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thay bản Quốc ca này bằng một Hành khúc có nội dung tôn giáo hơn .
Nước Vatican cũng có một Ngoại Giao Đoàn gồm những Sứ thần ( Nonces ) hoặc Quyền Sứ thần ( Pro-Nonces ) tại 156 nước trên quốc tế và 12 Khâm Sứ Tòa Thánh ( Délégué Apostolique ) không có trách nhiệm ngoại giao, mà chỉ làm trách nhiệm liên lạc với những Giám Mục trong 12 vương quốc khác. Ngoài ra, Tòa Thánh còn có Đại diện thường trực bên cạnh 1 số ít Tổ chức của Liên Hiệp Quốc và một số ít Tổ chức Phi Chính phủ ( Organisarion non-gouvernementale, viết tắt là ONG ) khác .
Bên cạnh Tòa Thánh cũng có những Đại sứ của 156 nước có thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh .

– Giáo triều Rôma (La Mã)

+ Đức Giáo Hoàng

Đức Giáo Hoàng là người đứng đầu Giáo Hội Công giáo La Mã, và cũng là người đứng đầu Nhà nước Vatican .
Xưa kia, ở việt nam gọi Đức Giáo Hoàng là Đức Thánh Pha-Pha, và tiếng thường gọi là Đức Thánh Cha ( Le Saint Père ) ; trong ngôn từ của nhiều nước Âu Châu, gọi Đức Giáo Hoàng là Papa, Pape, Pope, gốc từ tiếng Hy Lạp Pappas .
Giáo Hội Rôma hay Giáo Hội Hoàn Vũ có 2 tập thể để Đức Giáo Hoàng tìm hiểu thêm là Hồng Y Đoàn và Thượng Hội Đồng Giám Mục, cùng với 1 số ít Tổ chức để giúp Đức Giáo Hoàng điều hành Giáo triều Rôma ( La Curie Romaine ) .

ĐỨC GIÁO HOÀNG (Đức Thánh Cha)

THƯỢNG HỘI ĐỒNG

HỒNG Y ĐOÀN

Giám Mục

PHỦ QUỐC VỤ KHANH

9 Thánh Tòa 12 HỘI ĐỒNG 3 Văn Phòng

Tòa Thánh

GIÁO HỘI QUỐC GIA               

( Hội Đồng Giám Mục )

3 Tòa Án

CÁC DÒNG TU

– Các Dòng Tu theo Qui chế Tòa Thánh

GIÁO TỈNH

( Tổng Giáo Phận )
( Tổng Giám Mục )

– Các Dòng Tu theo Qui chế Giáo Phận

GIÁO PHẬN

( Địa Phận )
( Giám Mục )

Các Dòng

Tu NAM
( Linh Mục Các Dòng )

GIÁO HẠT

( Hạt trưởng )

GIÁO XỨ

( Chánh Xứ )

Tu NỮ
( Linh Mục )

GIÁO HỌ

( Họ Đạo )

TÍN ĐỒ

( Giáo hữu, Ky-tô hữu, Giáo dân )

Đức Giáo Hoàng do Hồng Y Đoàn họp tại Tòa Thánh Vatican bầu ra khi vị Giáo Hoàng nhiệm kỳ trước đó từ trần. Vị Hồng Y được đắc cử lên làm Giáo Hoàng sẽ ở ngôi vị Giáo Hoàng mãi cho đến khi chết. Phẩm vị Giáo Hoàng không có nhiệm kỳ hay nghỉ hưu .
Đức Giáo Hoàng là đại diện thay mặt của Đức Chúa Jésus, tinh chỉnh và điều khiển Giáo Hội, nên Đức Giáo Hoàng có quyền hành tối thượng, tổng lực, và không khi nào sai lầm đáng tiếc về Đức tin .
– Ngày 6-8-1978, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI từ trần .
– Đức Hồng Y Albino Luciani được bầu lên làm Giáo Hoàng, lấy thương hiệu là Gioan Phaolô I vào ngày 26-8-1978. 33 ngày sau, tức là ngày 29-9-1978, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I bất ngờ đột ngột từ trần .
– Đức Hồng Y Karol Wojtyla, người Ba Lan, được bầu làm Giáo Hoàng, lấy thương hiệu là Gioan Phaolô II ngày 16-10-1978. Ngài Karol Wojtyla đã được thọ phong :
+ Linh Mục ngày 1-11-1946 .
+ Giám Mục ngày 13 – 1 – 1956 .
+ Hồng Y ngày 26 – 6 – 1976 .
+ Giáo Hoàng ngày 16-10-1978 .

–  Hồng Y Đoàn:

Nhiệm vụ của Hồng Y Đoàn là cộng tác với Đức Giáo Hoàng trong việc quản trị Giáo Hội toàn thế giới. Khi Đức Giáo Hoàng từ trần, Hồng Y Đoàn tạm nắm quyền quản trị Giáo Hội và tổ chức triển khai bầu Giáo Hoàng mới trong một cơ cấu tổ chức được gọi là Mật Tuyển Viện ( Conclave ) .
Tuy nhiên, Hồng Y Đoàn cũng được triệu tập để xử lý những yếu tố quan trọng như : yếu tố kinh tế tài chính của Giáo Hội, những yếu tố luân lý, vv. . .
Con số những Hồng Y ngày càng tăng lên, nhưng chỉ có những vị dưới 80 tuổi mới được tham gia Mật Tuyển Viện để bầu Giáo Hoàng .

 Thượng Hội Đồng Giám Mục:

Đây là một tổ chức triển khai được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập năm 1935 để tăng cường sự hợp tác của những Giám Mục trên quốc tế với Đức Giáo Hoàng. Phần lớn những Đại biểu của Thượng Hội Đồng Giám Mục là do những Giám Mục đồng sự bầu ra, nhưng cũng có những Thượng Hội Đồng Giám Mục được triệu tập theo từng vùng như : Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương, Châu Phi. . .

 Giáo triều Rôma

Giáo triều Rôma ( La Mã ) gồm có những bộ phận để giúp Giáo Hoàng quản lý và điều hành việc làm của Tòa Thánh. Các tổ chức triển khai nầy họp lại thành một cơ cấu tổ chức được gọi là Giáo triều Rôma. Giáo triều Rôma gồm những cơ quan sau đây :
+ Phủ Quốc Vụ Khanh, đặc trách những việc làm thường vụ của Giáo Hội và đảm nhiệm liên lạc những vương quốc .
+ 9 Thánh Bộ, chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những lãnh vực nhất định của đời sống Giáo Hội .
+ 12 Hội Đồng Tòa Thánh, là những bộ phận chuyên nghiên cứu và điều tra và tìm kiếm trong những lãnh vực quan trọng .
+ 3 Văn Phòng, giúp điều hành quản lý việc làm của Tòa Thánh và quản lý tài chánh .
+ 3 Tòa Án, để xử lý những việc làm tương quan đến : Xá giải, Ấn tín Tông tòa và Hôn phối .
Ngoài những cơ quan kể trên, Tòa Thánh còn có những Ủy Ban, hoặc hoạt động giải trí độc lập, hoặc thường trực những Bộ ( ví dụ Ủy ban Kinh Thánh thường trực Bộ Giáo Lý Đức Tin ). Một số chính sách khác với những hoạt động giải trí bổ trợ như : Tàng Thư Mật, Thư Viện, Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Khoa học, Nhà Xuất bản và Nhà in Vatican, Nhật báo Osservatore Romano, Đài Phát Thanh Vatican, Trung Tâm Truyền Hình, Xưởng Đền Thờ Thánh Phêrô .

 Phủ Quốc Vụ Khanh

Đứng đầu Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, lúc bấy giờ là Đức Hồng Y Angelo Sodano .
Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến mỗi tuần 2 lần, mỗi lần tối thiểu 1 giờ, ưu tiên trước mọi cuộc tiếp kiến .
Địa vị của Ngài là một Thủ Tướng Chính Phủ, kiêm Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ và Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh .
Tại Phủ Quốc Vụ Khanh có :
+ Phân bộ Thường vụ, hiện do Đức Tổng Giám Mục G.B. Re đứng đầu, Đức Ông Léonardo Sandrin làm Phụ tá .
+ Phân bộ Ngoại vụ, hiện do Đức Tổng Giám Mục Jean Louis Tauran đứng đầu, Đức Ông Claudio Maria làm Phụ tá .

– Chín Thánh Bộ

+ Bộ Giáo Lý Đức Tin ( Congrégation au service de la doctrine et de la foi ) :
Xa xưa, Đức Giáo Hoàng Phaolô III năm 1542 đã lập nên Bộ Pháp đình ( Inquisition ) để chống lại Tà Thuyết và sau đó trở thành Thánh Bộ ( Le Saint Office ) và đời Giáo Hoàng Phaolô VI sửa lại thành Bộ Giáo Lý Đức Tin .
Bộ nầy chăm sóc những yếu tố thuộc về Giáo lý, Đức tin, Đạo đức. Bộ cũng nghiên cứu và điều tra những Học thuyết mới ( Thí dụ như Thần Học Giải phóng ) và cổ vũ những nghiên cứu và điều tra và những hội nghị về yếu tố này. Bộ cũng lên án những kim chỉ nan bị coi là sai lầm đáng tiếc, trái ngược với nguyên tắc Đức tin, sau khi đã tìm hiểu thêm quan điểm với những Giám Mục liên hệ. Bộ cũng nghiên cứu và điều tra nội dung những quyển những sách đã xuất bản và lên án nếu cần, sau khi đã hội ý và đối chất với tác giả. Tác giả có quyền tự biện hộ bằng miệng hoặc bằng văn bản .
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã cải tổ Bộ này một cách thâm thúy, bãi bỏ hẳn tính cách bí hiểm, pháp đình, nhấn mạnh vấn đề vào tính cách cổ vũ nâng cao Giáo lý. Ngài nói : “ Bởi vì đức Bác ái loại trừ sợ hãi, ngày này tất cả chúng ta bảo vệ Đức tin bằng cách nâng cao Giáo lý, vừa sửa chữa thay thế uốn nắn những sai lầm đáng tiếc. Bộ này khuyến khích những kẻ sai lầm đáng tiếc trở về đường chính nẻo ngay và khuyến khích những nhà rao giảng lời Chúa thêm nhiệt huyết trong sứ vụ mình. ”
+ Bộ Chuyên về những Giáo hội Đông phương ( Congré-gation au service des Églises Orientales ) :
Bộ này mới được xây dựng năm 1862, thời Đức Giáo Hoàng Piô IX. Bộ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về toàn bộ yếu tố có tương quan đến những Giáo Phận thuộc nghi lễ Đông phương : Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ Giáo dân tại những vương quốc Ai Cập, Érythrée, Étiopi, Bulgari, Chypre, Hy Lạp, Iran, Liban, Palestin, Syri, Jordani, Thổ Nhĩ Kỳ, Irac. Hiện nay, những Fan Hâm mộ Công giáo thuộc nghi lễ Đông phương có chừng 14 triệu .
Ngoài Giáo Hoàng Học Viện điều tra và nghiên cứu những yếu tố Đông phương do những Linh Mục Dòng Tên đảm nhiệm, tại Rôma còn có nhiều Học Viện Giáo Hoàng dành cho người Đông phương : Học Viện Acmêni xây dựng năm 1584, Étiopi ( 1481 ), Hy Lạp ( 1576 ), Rumani ( 1858 ), Học Viện Russicum ( 1929 ) dành cho người Nga ,. . .
+ Bộ Giám Mục ( Congrégation au service des Évêques ) :
Bộ này được xây dựng do Đức Giáo Hoàng Sixtô V năm 1578 và được cải cách, có trách nhiệm lo toàn bộ việc làm tương quan đến những Giám Mục và những Giáo Phận trên toàn thế giới. Thí dụ : Việc mở thêm một Giáo Phận, bãi bỏ một Giáo Phận, việc chỉ định những Giám Mục, Giám Mục Phụ Tá. Là người tham gia những Hội Đồng Giám Mục, Bộ nầy công nhận những văn kiện của những Hội Đồng Giám Mục và những Công Đồng địa phương. Bộ có nhiều Văn phòng đặc biệt quan trọng thường trực, như Văn phòng người di cư, Văn phòng truyền giáo miền biển ,. . .
Đức Hồng Y Bộ Trưởng Bộ này có quyền triệu tập những Bộ Trưởng Bộ Linh Mục, Bộ Giáo sĩ và Bộ Giáo Dục Công giáo, để cùng những Ngài xem xét những yếu tố tương quan .
+ Bộ Bí Tích ( Congrégation de la Discipline des Sacrements ) :
Bộ này do Đức Giáo Hoàng Piô X xây dựng năm 1908, có trách nhiệm lo những yếu tố có tương quan đến những Phép Bí Tích, thí dụ một Linh Mục muốn hoàn tục phải xin phép Bộ này .
Từ khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lan rộng ra quyền những Giám Mục bằng Sắc dụ Pastorale Munus ( 30-6-1963 ), hồ sơ xin chuẩn về yếu tố Hôn phối hằng năm lên đến số lượng 10.000 được chuyển về những Giám Mục địa phương, khiến cho việc làm của Bộ nhẹ gánh một phần .
+ Bộ Nghi Lễ ( Congrégation des Rites ) :
Bộ này lo việc nghi lễ như tên gọi. Đức Giáo Hoàng Piô XI còn thêm vào Bộ này một Văn phòng lo việc Phong Thánh ( nay đã tách ra thành một Bộ riêng ). Bộ có trách nhiệm thực thi Hiến chế Công Đồng về Phụng vụ. Bộ cũng lo về yếu tố đạo đức không có tính cách Phụng vụ như : đạo đức cá thể, mái ấm gia đình, xã hội, việc kinh hạt, rước xách .
+ Bộ Giáo Sĩ ( Congrégation au service du Clergé ) :
Bộ này được xây dựng năm 1564 do Đức Giáo Hoàng Piô IV để lo việc lý giải và vận dụng những luật lệ do Công Đồng Trente qui định. Bộ này gồm có 3 Văn phòng :
Văn phòng 1 : lo việc đào tạo và giảng dạy và Thánh hóa những Linh Mục và kỷ luật Giáo Sĩ ( làm lễ, đọc sách nguyện, đạo đức ) .
Văn phòng 2 : lo việc giảng thuyết về Giáo lý, tâm lý tìm tòi những chiêu thức dạy Giáo lý mới cho trẻ nhỏ và người lớn. Văn phòng cũng lo về mục vụ du lịch ( Pastorale du tourisme ). Văn phòng chuẩn y những đồ án giảng thuyết của những Hội Đồng Giám Mục và khuyến khích cổ vũ những Hội nghị về Giáo lý, đồng thời thảo ra những thông tư thích hợp về yếu tố nầy .
Văn phòng 3 : lo việc quản trị những gia tài trần gian của Giáo Hội, những Quỹ Từ thiện, những Nhà Thờ, Đền Thánh, di sản Nghệ thuật ; lo những việc có tương quan đến đời sống vật chất của Giáo sĩ, đặc biệt quan trọng những Giáo sĩ đau bệnh, già yếu, bằng cách xây dựng những Hội, Viện, đảm nhiệm về việc này .
+ Bộ Tu Sĩ ( Congrégation suservicedes Religieux ) :
Bộ này do Đức Giáo Hoàng Sixtô V xây dựng. Từ năm 1601 đến đời Đức Giáo Hoàng Piô X đầu thế kỷ này, Bộ Tu Sĩ và Bộ Giám Mục là một, nhưng sau đó được tách ra như lúc bấy giờ .
Bộ đảm nhiệm những yếu tố thuộc những Dòng Tu nghi lễ La tinh, nghĩa là có nghĩa vụ và trách nhiệm khoảng chừng 2,5 triệu Nam Nữ Tu sĩ trên quốc tế về những yếu tố chính sách, kỷ luật, học tập, gia tài, quyền lợi và nghĩa vụ ,. . .
Bộ có quyền xây dựng, bãi bỏ, quy đổi một Dòng Tu. Hồ sơ của Bộ lên đến 40.000 một năm, điều này chứng tỏ việc làm phức tạp của Bộ. Bộ cũng có trách nhiệm vận dụng Sắc lệnh “ Đổi mới hợp thời đời tu ” của Công Đồng Vatican II .
Vì số Dòng Tu trong Giáo Hội rất nhiều, nên Bộ cũng quan tâm đến việc tập hợp những Dòng Tu nhỏ lại, chú ý quan tâm cả đến những yếu tố nhỏ như bộ áo dòng của từng Dòng Tu, đến những yếu tố lớn như sửa đổi Hiến pháp của một Dòng .
Bộ cũng đảm nhiệm những Tu Hội đời ( Instituts séculiers ) .
+ Bộ Giáo Dục Công giáo ( Congrégation au service de l’enseignement catholique ) :
Năm 1588, Đức Giáo Hoàng Sixtô V lập một Bộ đảm nhiệm những Đại Học Công giáo như Đại Học Rôma, Đại Học Bologne, Đại Học Paris, Đại Học Salamanque. .. Sau nhiều lần kiểm soát và chấn chỉnh, năm 1967, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đổi tên là Bộ Giáo Dục Công giáo .
Bộ gồm có 3 Văn phòng :
Văn phòng 1 : đảm nhiệm những Chủng Viện, từ việc quản trị vật chất đến chương trình học tập và kỷ luật. Văn phòng còn lo đào tạo và giảng dạy những nhân viên cấp dưới, tu sĩ cho những Tu Hội đời .
Văn phòng 2 : đảm nhiệm những trường Đại Học, CĐ Công giáo, lo việc thiết lập tại mỗi Đại Học Công giáo một Ghế dành cho Giáo sư Thần học. Văn phòng cũng tương hỗ việc tương thân tương hỗ giữa những Đại Học Công giáo trong một nước hay ở những nước khác nhau. Văn phòng cũng lo đến việc làm sao bên cạnh những Đại Học không Công giáo có những Cư Xá Sinh viên Công giáo .
Văn phòng 3 : đảm nhiệm những trường Công giáo dưới bậc Đại Học của những Giáo Xứ hay Giáo Phận .
+ Bộ Truyền Bá Phúc Âm ( Congrégation au service de l’Évangélisation ) :
Bộ này do Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV xây dựng ngày 22-6-1622 với mục tiêu truyền bá Đức tin trên quốc tế, do đó, Bộ này mới có tên là “ de Propaganda fide ” : tên gọi này đã gây hiểu nhầm vì từ ngữ Propaganda có nghĩa là tuyên truyền, quảng cáo, nên Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cải danh là Bộ Truyền Bá Phúc Âm ( Tin Mừng, Tin Lành ) .
Bộ đảm nhiệm những Xứ Truyền giáo ( Pays de mission ), tổ chức triển khai và điều hợp công cuộc truyền giáo, chú trong việc huấn luyện và đào tạo Giáo Sĩ địa phương. Bộ cũng chăm sóc việc tăng trưởng trong Giáo Hội niềm tin truyền giáo và cổ vũ cho có nhiều người làm Linh Mục đi rao giảng những vương quốc chưa biết Tin Mừng .
Bộ cũng phối hợp với Bộ Tu Sĩ và Giáo Dục Công giáo huấn luyện và đào tạo những Linh Mục Thừa Sai, và bằng mọi cách, cổ vũ lòng nhiệt thành truyền giáo trong Giáo Hội .
Bộ cũng đảm nhiệm những Hội Tông Đồ truyền giáo như Hội Thánh Phêrô, Hội Chúa Hài Đồng. Các Hội nầy cung ứng cho những xứ những nhu yếu tối thiểu để huấn luyện và đào tạo Linh Mục, Lương giáo Lý viên, kiến thiết Chủng Viện, nuôi những Chủng sinh .

 12 Hội Đồng Tòa Thánh

+ Hội Đồng Tòa Thánh về Giáo dân :
Hội Đồng do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lập ngày 6-1-1967 với mục tiêu chăm sóc đến vai trò của Giáo dân trong Giáo Hội, cũng như những trào lưu Tông đồ Giáo dân .
quản trị : Đức Hồng Y Pironio Eduardo .
Phó quản trị : Đức Giám Mục Paul Cordes .
Hội Đồng này có một Chủ Tịch Đoàn gồm 3 Hồng Y và 2 Giám Mục .
Các thành viên của Hội Đồng gồm : 2 Hồng Y, 2 Giám Mục, và 27 Đức Ông .
+ Hội Đồng Tòa Thánh cổ vũ hợp nhất những Kytô hữu :
Lúc đầu là Văn phòng cổ vũ sự hợp nhất những Ky-tô hữu do Đức Giáo Hoàng Gioan XXII xây dựng ngày 5-6-1960, và ngày 28-6-1983 được đổi thành Hội Đồng Tòa Thánh với mục tiêu biểu lộ ý chí của Tòa Thánh trong trào lưu đại kết, nhằm mục đích tái lập sự thống nhất giữa những người tin ở Đức Chúa Jésus .
quản trị : Đức Hồng Y Edward Cassidy .
Các thành viên của Hội Đồng gồm 14 Hồng Y và 18 Giám Mục .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Gia đình :
Hội Đồng do Đức Giáo Hoàng Phao lô VI thành lập năm 1973 nhằm mục đích mục tiêu điều tra và nghiên cứu những yếu tố linh đạo, luân lý và xã hội của mái ấm gia đình trong một viễn tượng mục vụ .
quản trị : Đức Hồng Y Lopez Trujilo .
Hội Đồng này có một Chủ Tịch Đoàn gồm 9 Hồng Y, 8 Giám Mục, và có 19 Đức Ông làm thành viên .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình :
Lúc đầu là Ủy Ban Công lý và Hòa bình do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập ngày 6-1-1967 và năm 1988 được đổi thành Hội Đồng Tòa Thánh với mục tiêu ủng hộ sự tăng trưởng của những nước nghèo, cổ vũ độc lập và công minh xã hội trong giao hữu giữa những nước .
quản trị : Đức Hồng Y Roger Etchegaray .
Phó quản trị : Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận .
Các thành viên của Hội Đồng gồm : 4 Hồng Y, 1 Thượng Phụ, 7 Giám Mục, và 15 Đức Ông .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Đồng Tâm :
Hội Đồng được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập ngày 15-7-1971 với mục tiêu phối hợp hoạt động giải trí từ thiện của Giáo Hội, và nhờ đó góp phần có hiệu suất cao vào việc phát huy nhân phẩm và sự văn minh xã hội những dân tộc bản địa gặp khó khăn vất vả .
quản trị : Đức Hồng Y Roger Etchegaray .
Các thành viên của Hội Đồng gồm : 4 Hồng Y trong đó có Đức Hồng Y Phạm đình Tụng ( việt nam ), 14 Giám Mục và 2 Đức Ông .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về mục vụ di dân :
Hội Đồng nầy do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập năm 1970 với mục tiêu điều tra và nghiên cứu mục vụ so với những người phải rời khỏi xứ sở của mình để tới sinh sống tại một xứ khác, bất kể vì nguyên do gì .
quản trị : Giám Mục Giovanni Cheli .
Các thành viên gồm : 5 Hồng Y, 29 Giám Mục .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về mục vụ cho nhân viên cấp dưới Y tế :
Hội Đồng này được xây dựng ngày 11-2-1985 với mục tiêu điều tra và nghiên cứu những yếu tố cũng như những mối liên lạc quốc tế trong ngành Y tế, nhằm mục đích giúp Giáo Hội tiếp đón vai trò nhân đạo của mình .
quản trị : Đức Hồng Y Fiorenzo Angelini .
Các thành viên của Hội Đồng gồm : 10 Hồng Y, 13 Giám Mục, 6 Đức Ông và 7 Tu Sĩ .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Giải thích những Văn bản Giáo luật :
Lúc đầu là Ủy ban Giải thích Giáo luật được xây dựng ngày 15-9-1917, sau được đổi thành Ủy ban Tu chỉnh Giáo luật do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII xây dựng ngày 28-3-1967, sau khi phát hành Bộ Giáo Luật mới 1983 thì đổi thành Ủy ban Giải thích Giáo luật ; ngày 28-6-1988 được đổi thành Hội Đồng để làm trách nhiệm như chức vụ .
quản trị : Giám Mục Julian Herranz .
Các thành viên gồm : 15 Hồng Y, 3 Thượng Phụ, 2 Giám Mục .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Đối thoại giữa những tôn giáo :
Trước là Văn phòng được xây dựng năm 1964. Ngày 28-6-1988 được đổi thành Hội Đồng với mục tiêu liên lạc với những tôn giáo ngoài Công giáo, cũng như cổ vũ tình huynh đệ giữa mọi người .
quản trị : Đức Hồng Y Francis Arinze .
Các thành viện gồm : 14 Hồng Y, 1 Thượng Phụ, 30 Giám Mục, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn như Thể ( việt nam ) Giám quản Tông Tòa Tổng Giáo Phận Huế .
+ Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại với những người không tín ngưỡng :
Hội Đồng này do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập ngày 9-4-1965, lúc đầu là văn phòng liên lạc với những người không tín ngưỡng, nhằm mục đích mục tiêu điều tra và nghiên cứu về chủ nghĩa Vô Thần, ở đầu cuối là để tạo đối thoại với những người không tín ngưỡng .
quản trị : Đức Hồng Y Paul Poupard .
Các thành viên gồm : 14 Hồng Y và 19 Giám Mục .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về Văn hóa :
Hội Đồng này được xây dựng ngày 20-5-1982 với mục tiêu cổ vũ sự tăng trưởng văn hóa truyền thống và giao lưu giữa những văn hóa truyền thống cũng như phối hợp những hoạt động giải trí văn hóa truyền thống của Tòa Thánh và của những Giáo hội địa phương .
quản trị : Đức Hồng Y Paul Poupard .
Các thành viên gồm : 15 Hồng Y và 11 Giám Mục .
+ Hội Đồng Tòa Thánh về truyền thông online xã hội :
Lúc đầu là một Ủy Ban do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thành lập ngày 2-4-1964, và ngày 28-6-1988 được đổi thành Hội Đồng với mục tiêu nghiên cứu và điều tra những yếu tố tương quan tới Điện ảnh, Truyền thanh, Truyền hình và Báo chí .
quản trị : Tổng Giám Mục Patrick John Foley .
Các thành viên gồm : 11 Hồng Y, 11 Giám Mục, 1 Đức Ông và 2 Tu sĩ .

– Văn Phòng

Ba Văn Phòng thường trực Phủ Quốc Vụ Khanh, giúp quản lý việc làm của Tòa Thánh và quản lý tài sản .
Ba Văn Phòng này là :
+ Văn phòng Giáo Hoàng .
+ Văn phòng Quản trị di sản Tông Tòa .
+ Văn phòng Kinh tế của Tòa Thánh .

– Tòa Án

+ Tông Tòa Xá Giải .
+ Tòa Án Tối Cao ấn tín Tông Tòa .
+ Toà Án Hôn phối .

–  Tờ báo OSSERVATORE ROMANO (OR)

Tờ báo này sinh ra được hơn 130 năm nay. Tờ Nhật báo của Giáo Hội được từ từ làm cho đa dạng chủng loại thêm và được xuất bản thêm bản hàng tuần 7 thứ tiếng .
Mục đích của tờ báo không phải là bán cho nhiều, mà là truyền đạt lời của Đức Giáo Hoàng và cung ứng tài liệu cho những người tới Tòa Thánh điều tra và nghiên cứu .
Tổng Biên tập bản tiếng Pháp, người đã có công cải tổ bản tiếng Pháp mơ ước có sự thông tin 2 chiều, tức tờ báo cũng sẽ là lời nói của những Giáo hội địa phương nữa .
Tờ Osservatore Romano giữ kín số lượng bán ra và rất dè dặt so với 1 số ít mặt của đời sống chính trị ở Italia, nhất là về cuộc khủng hoảng cục bộ lúc bấy giờ, mà đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo đang trải qua, một đảng mà gần đây được đặt tên là “ Đảng Nhân Dân ” .
Giám đốc tờ OR được Đức Giáo Hoàng chỉ định .

– Đài Phát Thanh Vatican

Đài Phát Thanh Vatican giống như một cơ quan nghe nhìn của tờ báo OR .
Khách hàng của họ không giống nhau, phương tiện đi lại và mục tiêu cũng thế .
Đài Phát Thanh Vatican thông tin theo nhãn quan Công giáo cho khắp quốc tế bằng 30 thứ tiếng, theo như lời nói của Linh Mục Pierre Moreau, người đảm nhiệm chương trình tiếng Pháp từ 30 năm nay .
Đài Phát Thanh Vatican do Đức Giáo Hoàng quyết định hành động xây dựng, và bằng cách nhắc đi nhắc lại lời hứa trung thành với chủ với Đức Giáo Hoàng, Ngài đã giao cho Dòng Tên điều hành quản lý đài này .
Theo Linh Mục Pierre Moreau, Tòa Thánh rất ít khi can thiệp vào chương trình và nội dung của đài. Khi có yếu tố tế nhị cần phải xem xét, tất cả chúng ta tìm hiểu thêm Lầu Ba ( tức Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ). Đó là trường hợp xảy ra vào tháng 6 năm 1993, khi Mỹ thả bom Bát-đa, Hà Nội Thủ Đô của nước Irac. Việc này đã tạo ra một thái độ dè dặt của Vatican, và do đó, Đài Phát Thanh Vatican cũng dè dặt. ” ( Trích trong quyển : Công giáo việt nam sau quy trình 50 năm 1945 – 1995 ) .

3. Công Đồng Vatican II

Công Đồng hay Công Đồng Chung là hội nghị của toàn thể những Giám Mục trên quốc tế. Gọi Công Đồng Chung là để phân biệt với những Công Đồng Riêng của một miền .
Trong Lịch sử của Giáo Hội Công giáo, cho tới nay có tổng thể 21 Công Đồng Chung, và quan trọng nhất là Công Đồng Chung thứ 21 gọi là Công Đồng Vatican II .
Công Đồng Vatican I diễn ra trong 2 năm 1869 và 1870, có tổng thể 747 Giám Mục tham gia đều là người Âu Châu, kể cả những Giám Mục từ những nước Châu Mỹ, Châu Á Thái Bình Dương, Châu Phi, cũng đều là người Châu Âu. Đó là Công Đồng 20 .
Công Đồng Chung thứ 21 là Công Đồng Vatican II, gồm có toàn bộ 2.904 Nghị Phụ được mời và 2.629 Nghị Phụ tham gia, trong đó chỉ có 1.060 Nghị Phụ là người Châu Âu .
Dĩ nhiên, trong Công Đồng Vatican II, những Nghị Phụ người Châu Âu vẫn đóng vai trò chủ chốt và lời nói của những Ngài vẫn là lời nói có khối lượng .
Trong Công Đồng nầy, những yếu tố của những Giáo hội ngoài Châu Âu, cũng như những yếu tố của quốc tế văn minh là những mối bận tâm nhất của tổng thể Nghị Phụ .
Thực vậy, tiếng La tinh là một ngôn từ, tuy không còn là đại trà phổ thông, nhưng không trọn vẹn lạ lẫm với người Âu Châu, không còn là ngôn từ duy nhất trong phụng tự nữa, mà những ngôn từ địa phương đều được sử dụng, kể cả trong Kinh Nguyện Thánh Thể, là một điều mà trước đây không ai dám nghĩ tới .
Công Đồng Vatican II đã dành riêng 1 trong 4 Hiến Chế để nói về “ Giáo Hội trong quốc tế ngày hôm nay ” .
Hơn nữa, không phải chỉ trong Hiến Chế Mục Vụ “ Vui mừng và Hy vọng ”, mà trong tổng thể văn kiện của Công Đồng Vatican II, canh tân update hóa vẫn là mối bận tâm số 1. Vì thế, Công Đồng Vatican II là bước ngoặc quan trọng của lịch sử vẻ vang Giáo Hội Công giáo : Nhiều yếu tố được đặt lại .
Từ sau Công Đồng Vatican II, muốn đề cập đến yếu tố nào của Giáo Hội đều phải qui chiếu vào những văn bản của Công Đồng Vatican II nầy .
Công Đồng Vatican II, tức Công Đồng thứ 21, sau hơn 3 năm sẵn sàng chuẩn bị nội dung cho Đại Hội, đã được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chánh thức khai mạc tại Đền Thờ Thánh Phêrô ( Vatican ) và chính Đức Giáo Hoàng điều khiển và tinh chỉnh những phiên họp .
Ngày 3-6-1963, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII qua đời, Đức Tân Giáo Hoàng mới đắc cử là Phaolô VI liên tục tinh chỉnh và điều khiển Công Đồng Vatican II. Công Đồng có 4 kỳ họp, mỗi kỳ họp lê dài từ 3 đến 4 tháng, tổng số lê dài hơn 3 năm, đến ngày 8-12-1965 mới bế mạc .
Công Đồng Vatican II đã biểu quyết 16 văn kiện gồm :
+ 4 Hiến chế .
+ 9 Sắc lệnh .
+ 3 Tuyên ngôn .

–  4 Hiến Chế

+ Hiến chế Tín lý về Giáo Hội .
+ Hiến chế Tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa .
+ Hiến chế về Phụng vụ Thánh .
+ Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong quốc tế thời điểm ngày hôm nay .

–  9 Sắc Lệnh

+ Sắc lệnh về trách nhiệm những Giám Mục trong Giáo Hội .
+ 2 Sắc lệnh về Linh Mục ( huấn luyện và đào tạo, chức vụ, đờisống )
+ Sắc lệnh về canh tân thích nghi đời sống Dòng Tu .
+ Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân .
+ Sắc lệnh về hoạt động giải trí Truyền giáo của Giáo Hội .
+ Sắc lệnh về hiệp nhất .
+ Sắc lệnh về những Giáo hội Đông phương .
+ Sắc lệnh giữa những sự kỳ diệu về những phương tiện đi lại truyền thông online xã hội .

–  3 Tuyên ngôn:

+ Tuyên ngôn về tự do tôn giáo .
+ Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với những tôn giáo ngoài Công giáo .
+ Tuyên ngôn về giáo dục Công giáo .
Dựa trên những văn kiện pháp qui kể trên, Giáo Hội Công giáo tiến hành và bổ trợ, hình thành đường hướng hoạt động giải trí mới của Giáo Hội, với một số ít nét chánh, kể ra :

– Vấn đề Giáo lý

Công Đồng khẳng định chắc chắn những tín điều cơ bản về Giáo lý được ghi trong Kinh Thánh : Thiên Chúa Ba ngôi, Công cuộc cứu chuộc loài người của Đức Chúa Jésus, vai trò Thánh hóa Hội Thánh của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Đồng trinh Maria, về nước Trời ,. . .

– Vấn đề Giáo Hội

Giáo Hội không hề tự vỗ ngực là Thần Thánh như trước đây, mà phải hạ mình xuống để Giao hàng .
Giáo Hội của Chúa phải nhằm mục đích mục tiêu thôi thúc niềm tin an ủi. Đó là công trạng của Chúa Jésus đến cứu rỗi, chớ không phải đến để quản lý và phạt vạ ; đi hầu hạ người chớ không phải bắt người hầu hạ mình. Giáo Hội phải nhập thế, đi sâu vào những nguyện vọng của con người, vì vậy Giáo Hội luôn luôn phải canh tân và hiệp thông trong những nghành thế tục cũng như những hoạt động giải trí tôn giáo .
Từng lớp Giáo sĩ của Giáo Hội không phải là những công chức của Giáo triều, mà phải tham gia tích cực vào những hoạt động giải trí xã hội để hoàn thành xong sứ mạng của mình .
Văn kiện nêu rõ : Giám Mục không phải bắt người hầu hạ mình, mà phải đi hầu hạ người ; Linh Mục phải từ bỏ quyền lợi và nghĩa vụ cá thể, đừng đo lường và thống kê đến quyền lợi và nghĩa vụ riêng và quyền lợi và nghĩa vụ của tập thể. Do đó, cần phải cải cách và kiểm soát và chấn chỉnh cách huấn luyện và đào tạo những Linh Mục .

Vấn đề Lễ nghi

Công Đồng Vatican II chủ trương cải tổ, trong đó nhìn nhận và coi trọng những đặc thù tâm ý, phong tục, tạp quán, và tín ngưỡng truyền thống của mỗi dân tộc bản địa. Công Đồng cũng được cho phép dùng những ngôn từ những dân tộc bản địa sửa chữa thay thế tiếng La tinh trong việc phụng tự, bỏ bớt những lễ nghi rườm rà phiền phức .

– Vấn đề Giáo dục

Công Đồng Vatican II rất chăm sóc đến yếu tố Giáo dục đào tạo tinh thần Công giáo trong những thành phần giáo dân, đặc biệt quan trọng chú trọng lớp thanh thiếu niên, vì đó là tương lai của Giáo Hội. Giáo dục đào tạo tinh thần Công giáo là sự tích hợp ngặt nghèo giữa nghĩa vụ và trách nhiệm của mái ấm gia đình và của Giáo Hội, với nhiều hình thức và giải pháp khác nhau, trong đó lấy việc giáo dục Giáo lý làm quan trọng, và nên triệt để khai thác những phương tiện đi lại truyền thông online đại chúng Giao hàng cho giáo dục .

– Vấn đề Hôn nhân

Công Đồng Vatican II được cho phép những Fan Hâm mộ được kết hôn với người theo tôn giáo khác miễn là phía bên kia để cho người một nửa yêu thương của mình được tự do tín ngưỡng, nên Công Đồng đã hủy bỏ vạ tuyệt thông so với những người Công giáo kết hôn với người ngoại Đạo .
Trước đây, Giáo Hội Công giáo cho rằng chỉ có đạo mình là chánh, những đạo khác là Tà, là Lạc giáo, và chủ trương không quan hệ. Quan niệm nầy nay được bãi bỏ, chủ trương đoàn kết, cởi mở với những tôn giáo khác trong ý thức bình đẳng .

–  Đối với Khoa học Kỹ thuật

Công Đồng Vatican II chủ trương đưa Khoa học Kỹ thuật theo đức tin tôn giáo, vì cho rằng mọi việc trên trần gian đều do Thiên Chúa sắp xếp, nên Khoa học Kỹ thuật phải gắn liền với tôn giáo, không được trái chiều với Thiên Chúa. Sự tăng trưởng của Khoa học Kỹ thuật nâng cao đời sống con người, là để thực thi và hoàn hảo chương trình của Thiên Chúa đã định .
Công Đồng Vatican II mở ra cho Giáo Hội Công giáo một hướng hoạt động giải trí cởi mở, thích hợp và văn minh .

4. Giáo Lý và Các Điều Răn

Toàn bộ Giáo lý, Triết lý và Giới Luật cơ bản của Thiên Chúa giáo đều nằm trong quyển Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước .

–  Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước :

+ Kinh Thánh Cựu Ước là Thánh Kinh của Đạo Do Thái, là bộ sách mà những vị Thánh của Do Thái viết lại lịch sử dân tộc của dân tộc bản địa mình. Kinh Thánh Cựu Ước gồm có 4 phần :
Phần 1 là 5 quyển sách của Môi-se .
Phần 2 là những sách về lịch sử vẻ vang .
Phần 3 là những sách về văn thơ .
Phần 4 là những sách tiên tri .
+ Kinh Thánh Tân Ước là sách kể lại cuộc sống và sự nghiệp của Đức Chúa Jésus Christ, những lời giảng dạy của Đức Chúa, những hoạt động giải trí của những Thánh Tông Đồ, những lời răn dạy về đạo lý của Đức Chúa Jésus và của những Thánh Tông Đồ so với con người .
Kinh Thánh Tân Ước hoàn toàn có thể chia làm 4 phần như sau :
+ Phần 1 là những sách Phúc Âm ( Tin Mừng, Tin Lành ) ghi lại 4 Thánh sử của Đức Chúa Jésus Christ do 4 vị Thánh viết : Ma-thi-ơ, Mác, Luca, Giăng .
+ Phần 2 là nói về Công vụ của những Sứ đồ, kể về hoạt động giải trí của những Thánh Tông Đồ, do Thánh Luca viết .
+ Phần 3 là những Thánh thư của những Thánh Tông Đồ gửi cho những Giáo đoàn .
+ Phần 4 là phần cuối, là sách Khải Huyền của Thánh Giăng. Ngài được Đức Chúa Trời ban ơn cho được lên Thiên đường xem thấy những sự huyền diệu của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jésus, thấy được tương lai của trái đất như thế nào, và sau đó Ngài được đưa trở lại trần gian và ghi chép lại những điều trông thấy đó .
Thiên Chúa giáo cho rằng Kinh Thánh là những lời mặc khải của Thiên Chúa so với loài người, là mẫu mực tối cao của Đức Tin, nên phải được tôn sùng .
Hội Thánh do Đức Chúa Jésus lập nên là để đại diện thay mặt Chúa khi Đức Chúa đã về Trời để truyền giảng Giáo lý cứu rỗi nhơn loại .

–  Quan niệm về Vũ Trụ

Vũ trụ và vạn vật đều do Thiên Chúa ( Thượng Đế, Đức Chúa Trời ) tạo dựng .
Thiên Chúa có 3 Ngôi : Ngôi thứ 1 là CHA, Ngôi thứ 2 là CON, Ngôi thứ 3 là THÁNH THẦN .
Tuy có 3 Ngôi nhưng đồng một thể. Ngôi 2 bởi Ngôi 1 mà ra, Ngôi 3 bởi Ngôi 1 và Ngôi 2 mà ra .
Ngôi 1 là CHA tạo dựng, Ngôi 2 là CON cứu chuộc, Ngôi 3 là THÁNH THẦN : Thánh hóa .
Sáng Thế Ký trong Kinh Thánh Cựu Ước chép rằng :
Đức Chúa Trời ( viết tắt là ĐCT ) tạo dựng ra Trời Đất và vạn vật trong 6 ngày :
+ Ngày thứ 1 : ĐCT tạo ra sự sáng và sự tối, tức ngày và đêm .
+ Ngày thứ 2 : ĐCT tạo ra khung trời .
+ Ngày thứ 3 : ĐCT tạo ra đất, biển, thảo mộc .
+ Ngày thứ 4 : ĐCT tạo ra mặt trời, mặt trăng, những vì sao .

+ Ngày thứ 5: ĐCT tạo ra loài cá, loài chim.

+ Ngày thứ 6 : ĐCT tạo ra những loài thú trên mặt đất gồm thú rừng, súc vật và côn trùng nhỏ .
Đức Chúa Trời lại dựng nên người Nam và người Nữ theo hình tượng của Ngài, ban phước cho loài người và phán rằng : “ Hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất, hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, cùng những vật sống hành vi trên mặt đất ” .
ĐCT còn phán thêm : “ Nầy, Ta sẽ ban cho những ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất và những loài cây sinh quả có hạt giống, ấy sẽ là món ăn cho những ngươi ”. ( 1 )
+ Ngày thứ 7 : ĐCT đã làm xong những việc làm, nên ngày thứ 7 Ngài nghỉ, rồi ban phước cho ngày ấy, gọi là ngày Thánh, tức là ngày Chúa nhật .
Như thế, theo Thiên Chúa giáo, ĐCT có quyền phép vô biên, tạo dựng nên Trời Đất và tổng thể những vật trong bầu ngoài hành tinh này, những vật lớn như Tinh tú, Mặt trời, Mặt trăng, những quả Địa cầu, đều do ĐCT dùng phép huyền diệu tạo ra, rồi đến những loài sinh vật ở dưới nước, trên cạn, trên bờ, trên không, cũng đều do ĐCT tạo ra, và cả đến con người là loài khôn ngoan nhất, thống trị vạn vật cũng do ĐCT tạo ra theo hình tượng của Ngài .
Tóm lại, không vật gì trong bầu ngoài hành tinh nầy mà không do ĐCT tạo dựng sinh thành .

– Quan niệm về con người: Tội Tổ Tông.

Sau đó, ĐCT lập một cảnh vườn Ê-đen ở về hướng Đông. ĐCT lấy bụi đất nặn hình nên một người Nam, thổi sinh khí vào lỗ mũi thì người đó sống dậy, gọi là A-đam .
ĐCT đem A-đam vào vườn Ê-đen để trồng cây và coi sóc vườn. ĐCT phán : “ Ngươi được tự do ăn hoa quả những thứ cây trong vườn này, nhưng về cây Biết điều thiện điều ác thì chớ hề ăn đến, vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết ”. ( 2 )
ĐCT thấy A-đam không có ai giúp sức, nên Ngài làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một cái xương sườn của A-đam, thêm bụi đất nắn thành một người Nữ, đưa đến sống cùng A-đam. Người Nữ ấy được gọi là Ê-va, vợ của A-đam. A-đam và Ê-va đều sống trần truồng mà không biết hổ thẹn .

Tội Tổ Tông:

Trong những loài thú đồng do ĐCT tạo ra có con Rắn lớn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói với Ê-va : “ ĐCT cấm 2 ngươi ăn trái cây Biết điều thiện điều ác bởi tại sao, ngươi có biết không ? Ê-va đáp : Vì ăn trái cây ấy sẽ phải chết. Rắn nói : Hai ngươi chẳng chết đâu, nhưng ĐCT biết rằng hễ ngày nào 2 ngươi ăn trái cấm đó, mắt mình sẽ mở ra, sẽ như ĐCT, biết điều thiện và điều ác ” .
Ê-va thấy trái cấm đó có vẻ như ngon, lại mở được trí khôn, bèn nghe lời Rắn, quên lời căn dặn của ĐCT, hái ăn ngon lành, rồi trao cho A-đam cùng ăn .
Đây là lần tiên phong, 2 người không vâng lời ĐCT, nên mắc tội với ĐCT .
Ăn xong trái cấm đó thì mắt 2 người mở ra, rồi biết được rằng mình lõa lồ, mắc cỡ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân .
ĐCT biết rõ điều đó, nên phán cùng Ê-va rằng : “ Ta sẽ thêm điều khổ cực bội phần trong cơn thai nghén, ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con, sự dục vọng của ngươi xu thế về chồng và chồng sẽ quản lý ngươi ” .
Ngài lại phán cùng A-đam : “ Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cấm, vậy đất sẽ bị rủa sả vì ngươi, trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sinh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng ( 3 ), ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở lại đất, là nơi mà có ngươi ra, vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở lại bụi ” .

Việc Bà Ê-va và Ông A-đam ăn trái cấm, không nghe lời ĐCT, bị tội cùng ĐCT nên bị ĐCT quở phạt. Tội đó gọi là Tội Tổ Tông, vì 2 người là tổ tông của loài người.

Chúng ta nhận thấy, ba đoạn ( 1 ), ( 2 ), ( 3 ) là 3 lần phán của ĐCT về thức ăn mà ĐCT dành cho loài người : Đó là loài cỏ có hột, loài cây sanh quả, những thứ bông trái, rau của đồng ruộng. Như thế, loài người chỉ được phép ăn những thứ hoa quả, thảo mộc, ngũ cốc ; không có đoạn nào trong phần nầy, ĐCT được cho phép loài người ăn thịt quái vật .

Nhân loại do thủy tổ A-đam và Ê-va sinh ra càng lúc càng nhiều, và qua nhiều thế hệ, thì càng nhiễm những ô trược của cõi trần, nên say mê theo đường vật dục, xa lìa đạo đức, gây nhiều tội lỗi với ĐCT, nên Ngài gây ra một cuộc Tận Thế  với trận Đại Hồng Thủy, tiêu diệt những kẻ hung ác, chỉ chừa lại gia đình Ông Nô-ê, con trai và dâu, vì biết đạo đức, nhân nghĩa, công bình.

Vợ chồng Ông Nô-ê trở thành thủy tổ của loài người sau nầy .
Từ mái ấm gia đình Ông Nô-ê, loài người được sinh sản càng lúc càng nhiều, qua nhiều thời kỳ, cũng từ từ tiêm nhiễm vật chất, xa đường đạo đức. Đặc biệt loài người kiêu ngạo, toan thiết kế xây dựng Tháp Babel rất cao để đi vào nước Trời .
ĐCT khó chịu vì hành vi quá lắm này, nên khiến cho loài người chia ra nhiều thứ lời nói khác nhau, để sự sự không tương đồng ngôn từ ấy mà loài người chia rẽ, không xây được Tháp Babel .
Mỗi nhóm người với một thứ lời nói, phân tán đi khắp những nơi để tìm đất sống, và sinh sôi nẩy nở càng lúc càng nhiều, tạo thành nhiều dân tộc bản địa, ở khắp nơi trên địa cầu .
Dân tộc Do Thái là dân tộc bản địa được ĐCT chọn, đang bị bắt làm nô lệ cho những vua Pha-ra-ôn của nước Ai Cập. ĐCT cảm thương nên sai Ông Môi-se đến cứu dân tộc bản địa Do Thái thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dẫn dân Do Thái đến lập quốc tại vùng đất tốt đẹp bên bờ biển Địa Trung Hải .
ĐCT qua trung gian của Ông Môi-se, dạy dân Do Thái về đạo đức, luật lệ, lễ nghi thờ cúng ĐCT, và những điều Giới Răn, tạo thành Đạo Do Thái cho dân tộc bản địa Do Thái. Ai tin và làm đúng theo đó thì được ĐCT rước lên nước Trời trọn vẹn niềm hạnh phúc ; ai không tin và làm điều tội lỗi thì bị phạt xuống Hỏa ngục .
Đó là thời Thái cổ của nước Do Thái với nền tôn giáo do Thánh Môi-se truyền bá là Do Thái giáo .
Nhưng loài người, kể cả dân Do Thái, từ từ sa ngã vào vật dục, quên hết những điều răn dạy của ĐCT, gây biết bao tội lỗi. ĐCT không nỡ giết chết hết, lại mở lòng thương, quyết định hành động cho Ngôi Hai đầu thai xuống trần, cứu chuộc tội lỗi loài người. Ngôi Hai giáng thế ấy là Đức Chúa Jésus Christ .
Ngài khởi giảng tin lành, nhắc lại những điều răn dạy của ĐCT mà Thánh Môi-se đã truyền lại .
Ngài mở ra kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, giảng đạo trong 3 năm, thâu nhận 12 Thánh Tông đồ và rất nhiều người tin theo, rồi Ngài vâng lịnh ĐCT, hiến mình trên Thập tự giá, chịu chết để lấy dòng máu thương mến trong trái tim yêu quý, chuộc tội cho loài người .
Ngài lấy cái chết của thể xác để cho quả đât sống, nên linh hồn Ngài trở về ngự bên cạnh ĐCT .

–   10 Điều Răn và các Nghĩa vụ

Mười Điều Răn của Đạo Thiên Chúa, chính là 10 Điều Răn mà ĐCT đã ghi trên 2 tấm bảng đá, ban cho Thánh Môi-se trên núi Sinai để đem xuống dạy dân Do Thái :
+ Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự .
+ Không được lấy danh Thiên Chúa làm những việc phàm tục .
+ Dành ngày Chúa nhựt để thờ phụng Thiên Chúa .
+ Thảo kính cha mẹ .
+ Không được giết người .
+ Không được Tà dâm .
+ Không được gian tham, lấy của người khác .
+ Không được làm chứng dối, che giấu sự gian dối .
+ Không được ham muốn vợ hoặc chồng người .
+ Không được ham muốn của cải trái lẽ .
Mười Điều Răn nói trên, quy lại 2 điều : Kính Chúa và Yêu người .
Giáo Hội Thiên Chúa giáo qui định thêm 6 Điều Răn :
+ Xem lễ ngày Chúa nhựt và những dịp nghỉ lễ buộc .
+ Kiêng việc xác ngày Chúa nhựt .
+ Xưng tội mỗi năm một lần .
+ Chịu lễ mùa Phục sinh .
+ Giữ chay những ngày qui định .
+ Kiêng ăn thịt những ngày qui định .
Giáo Hội cũng qui định những nghĩa vụ và trách nhiệm thiết yếu so với bản thân người Fan Hâm mộ và so với mọi người :
+ Lấy điều thiện mà khuyên người .
+ Hướng dẫn cho kẻ mê muội .
+ Tha thứ cho kẻ khinh rẻ mình .
+ Nhịn kẻ xúc phạm đến mình .
+ Cầu nguyện cho người sống và người chết .
+ Răn bảo kẻ có tội. + An ủi người lo âu .
+ Cho kẻ đói ăn. + Cho kẻ khát uống .
+ Cho kẻ rách nát mặc. + Cho khách ở nhờ .
+ Cho người làm thuê. + Khiêm nhường .
+ Chôn táng người chết. + Đoan chánh .
+ Không hà tiện. + Siêng năng .
+ Không tị hiềm. + Ăn uống điều độ .
+ Thăm viếng người hoạn nạn .
Tóm lại, Giáo lý của Thiên Chúa giáo cho rằng, mọi vật trong thiên hà này đều do Thượng Đế tạo dựng và hóa sinh. Thượng Đế là Đấng có quyền phép mầu nhiệm không hề thống kê giám sát, toàn năng, toàn tri, toàn thiện, toàn mỹ .
Thượng Đế dùng bụi đất tạo nên hình hài thể xác của con người rập theo hình ảnh của Thượng Đế, rồi Thượng Đế đặt vào thể xác ấy một Linh hồn để thể xác ấy có sự sống .
Do đó, con người do Thượng Đế phát minh sáng tạo ra theo hình ảnh của Ngài, nên rất được Thượng Đế trân trọng yêu quý. Ngài ban cho con người trí khôn ngoan hơn vạn vật để thống trị vạn vật .
Khi thể xác con người chết đi thì thể xác ấy sẽ trở lại cát bụi vì nó do cát bụi tạo thành ; còn Linh hồn thì sống sót vĩnh viễn và quay trở lại cõi Thiên đàng .
Vua loài Quỉ là Satan luôn luôn tìm cách cám dỗ con người làm điều sái quấy, trái với lời răn dạy của Thượng Đế, để linh hồn con người không được trở lại Thiên đàng, bị phạt xuống Địa ngục mà làm tôi tớ cho nó .
Tổ tiên loài người đã bị Quỉ Satan, trong lốt Rắn, xúi dục ăn trái cấm, nên loài người mắc tội Tổ Tông truyền kiếp .

5.  Các Phép Bí tích

Bí tích là tổng thể những gì thần thánh huyền bí của Thiên Chúa giáo, hoặc thuộc khoanh vùng phạm vi Giáo lý, hoặc thuộc khoanh vùng phạm vi Tế tự, thuộc chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Jésus .
Phép Bí tích là những phép thuật mầu nhiệm mà khi thi hành sẽ có những hiệu suất cao thiêng liêng mà ta không hề dùng trí phàm hay mắt phàm mà hoàn toàn có thể hiểu biết được .

Thiên Chúa giáo có tất cả 7 Phép Bí tích, chia ra 2 phần :

– Bí tích Trung tâm gồm 1 Bí tích : Bí tích Thánh thể .
– Bí tích ngoại biên gồm 6 Bí tích, chia ra :
+ 2 Bí tích Khai tâm :. Bí tích Rửa tội .
. Bí tích Thêm sức .
+ 2 Bí tích Y dược :. Bí tích Giải tội .
. Bí tích Xức dầu .
+ 2 Bí tích Xã hộ :. Bí tích Truyền chức .
. Bí tích Hôn phối .

–  Bí tích Thánh thể:

Bí tích Thánh thể còn được gọi là Bí Tích Mình Thánh Chúa, là sự tái diễn việc Chúa Jésus đã hiến dâng thân thể cho sự cứu chuộc .
Bí tích Thánh thể dựa theo sự tích “ Bữa tiệc sau cuối ” của Đức Chúa Jésus với những môn đồ trong Lễ Vượt qua. Đức Chúa Jésus lấy bánh và rượu nho cho những môn đệ, nói rằng : “ Các ngươi hãy nhận lấy, đây là mình của ta, đây là máu của ta, máu của ta sẽ đổ xuống để chuộc tội cho loài người. ”
Theo Giáo lý của Thiên Chúa giáo, sự cứu chuộc của Chúa vẫn liên tục trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh thể. Bí tích Thánh thể là đỉnh điểm, là nguồn mạch trong đời sống tín ngưỡng của những Fan Hâm mộ. Tất cả Bí tích khác, cũng như những hoạt động giải trí phụng tự đều hướng vào Bí tích này .
Nghi lễ Phép Bí tích Thánh thể được cử hành trang trọng tại Nhà Thờ, gọi là Thánh lễ Misa. Trong việc cử hành Bí tích Thánh thể, quan trọng nhất là vị chủ lễ ( Giám Mục, Linh Mục ) đọc lời truyền phép Thánh thể theo qui định của Giáo Hội, để Bánh làm bằng bột mì và Rượu làm bằng nho trở thành thịt Chúa và máu Chúa .
Tín đồ, sau khi đã Xưng tội và được Giải tội, thì được chịu phép Thánh thể, tức là được ăn một miếng Bánh hay một phần chiếc Bánh nhỏ đã được làm phép để Chúa sẽ ngự trong lòng họ, do tại Chúa có nói rằng : “ Ai ăn thịt ta và uống máu ta, sẽ ở trong ta và ta sẽ ở trong người ấy ” .
Theo qui định của Giáo Hội, sau khi chịu phép Bí tích Thánh thể ( phép Mình Thánh ) lần đầu, Fan Hâm mộ phải chịu phép nầy mỗi năm tối thiểu một lần .

– Bí tích Rửa tội:

Bí tích Rửa tội để rửa sạch tội Tổ Tông và những thứ tội khác, để trở thành Fan Hâm mộ của Chúa, thắng được vật dục, thoát khỏi quyền của Quỉ, được ân sủng của Đức Chúa Jésus .
Bí tích Rửa tội thực thi thuận tiện với trẻ nhỏ của những mái ấm gia đình có đạo, nhưng so với người lớn thì phải có chuẩn bị sẵn sàng về mặt Tâm lý và phải Sám hối về những tội lỗi đã qua .
Bí tích Rửa tội triển khai rất đơn thuần, dùng nước Thánh dội lên đầu người chịu phép với câu nguyện bằng tiếng La tinh mà Chúa Jésus truyền phải dùng : “ Ego te baptizo in nomine Patris, et Filii, et Spiritus Sancti. ” ( Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ) .
Bí tích Rửa tội do những Linh Mục Chánh Xứ thực thi .

–  Bí tích Thêm sức:

Bí tích Thêm sức giúp cho Fan Hâm mộ được ơn Chúa Thánh Thần mà link ngặt nghèo với Giáo Hội, vững lòng tin để đi sâu vào đời sống tín ngưỡng, như trước đây, khi Đức Chúa Jésus lên Trời, những Thánh Tông đồ bơ vơ, Chúa Thánh Thần hiện xuống an ủi và ban sức mạnh cho họ .
Bí tích Thêm sức chỉ làm cho người nào đã chịu Phép Rửa tội ( Thánh tẩy ). Nghi lễ được triển khai bằng việc bôi một thứ dầu thảo mộc lên trán của người chịu phép Bí tích nầy, và đọc một đoạn kinh ngắn bằng tiếng La tinh .
Bí tích Thêm sức do Giám Mục thực thi trong Nhà Thờ trong dịp Lễ Misa .
Tóm lại, 2 Bí tích Rửa tội ( Thánh tẩy ) và Thêm sức :
+ Đối với Đức Chúa Jésus, Thánh tẩy ban ơn tái sinh, Thêm sức ban ơn cường tráng, ân sủng sung mãn .
+ Đối với khung hình siêu nhiên, Rửa tội thích nghi khung hình đó để thao tác tư nhiều hơn, còn Thêm sức chuẩn bị sẵn sàng cho tâm hồn gánh việc công .
+ Đối với Giáo Hội, Thánh tẩy nhập hiệp Fan Hâm mộ vào đại gia đình những Thánh, Thêm sức khuếch trương mái ấm gia đình đó ở trong và ở ngoài, trong phương diện nội trương và ngoại trương .

– Bí tích Giải tội:

Bí tích Giải tội là để tha thứ tội lỗi đã mắc phải. Người được giải tội phải tự xét về hành vi phạm tội của mình, so sánh những Điều Giới Răn, rồi xưng tội với vị Linh Mục một cách thành khẩn .
Vị Linh Mục, với tư cách đại diện thay mặt Chúa, ngồi trong Tòa Giải tội, luận xét tha tội, hoặc định ra những hình thức thay thế sửa chữa đền tội bằng những việc làm nhân đức .
Luật của Giáo Hội qui định mỗi năm Fan Hâm mộ phải xưng tội tối thiểu một lần .

–  Bí tích Xức dầu:

Bí tích Xức dầu Thánh được triển khai so với bệnh nhân lúc tịnh dưỡng hay trong cơn nguy ngập để xin Thiên Chúa nâng đỡ và cứu vớt .
Các Giám Mục thực thi phép chuyển dầu thực vật thành dầu Thánh. Các Linh Mục thực thi Bí tích xức dầu Thánh bằng việc dùng dầu Thánh xức lên trán hoặc thân thể bệnh nhân, và đọc lời cầu nguyện theo qui định .
Bí tích Giải tội để chữa bịnh linh hồn, tha tội và tha hình phạt Hỏa ngục, đó là Bí tích điều trị. Nhưng khi bệnh nhân hết bịnh, khung hình cần tịnh dưỡng, thì Bí tích Xức dầu Thánh được thiết lập và được coi là bổ túc Bí tích Giải tội .
Bí tích Xức dầu Thánh cũng dành cho người gần khuất bóng, trong những giờ phút ở đầu cuối của cuộc sống .

–  Bí tích Truyền chức

Bí tích Truyền chức được triển khai với những Fan Hâm mộ trở thành Thùa Tác viên của Chúa : Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, để đại diện thay mặt Chúa chăn dắt Fan Hâm mộ .
Bí tích Truyền chức được thực thi trong Lễ Tấn phong, bằng cách người truyền chức đặt tay lên người được truyền chức và đọc lời kinh cầu nguyện :
* Truyền chức Phó Tế : Giám Mục đặt tay lên vị Phó Tế :
“ Lạy Chúa, xin Chúa sai Chúa Thánh Thần xuống người nầy để họ được 7 ơn Chúa kiên cường, hầu trung thành với chủ chu toàn trách nhiệm ” .
* Truyền chức Linh Mục : Giám Mục đặt tay lên vị Linh Mục :
“ Lạy CHA toàn năng, xin CHA trao chức Linh Mục cho tôi tớ Chúa đây, xin Chúa cải cách tâm hồn họ bằng Thánh Thần của Chúa, để họ nhận lấy thiên chức có công bậc nhì, đã được chính Chúa ưng chuẩn. ”
* Truyền chức Giám Mục :
“ Xin Chúa trao hết chức quyền cho Linh Mục của Chúa, xin Chúa lấy dầu trên Trời Thánh hóa vị đã được trang sức đẹp đầy vẻ vinh quang ” .
Bí tích Truyền chức trao cho người thụ chức những hiệu suất cao : được trao chức Thánh, thiên chức Thánh và hưởng đầy ân sủng của Chúa .

–  Bí tích Hôn phối:

Bí tích Hôn phối là sự nhìn nhận của Thiên Chúa so với đôi Tân hôn Nam Nữ đã chịu phép Rửa tội, để họ chung sống trọn đời với nhau .
Bí tích Hôn phối Thánh hóa hôn nhân gia đình, Thánh hóa những tác động ảnh hưởng phu thê trong tình thương yêu chân thực .
Bí tích Hôn phối làm tăng cường tính duy nhất và vững chắc trong hôn nhân gia đình và quan hệ mái ấm gia đình của Fan Hâm mộ .

6.  Các Dòng Tu

Trong Công giáo, bên cạnh những tổ chức triển khai mang tánh cách hành chánh điều khiển và tinh chỉnh những hoạt động giải trí của Giáo Hội, như đã trình diễn ở những phần trên, còn có tổ chức triển khai một mạng lưới hệ thống những Dòng Tu hoạt động giải trí rất mạnh .
Theo Giáo luật, Dòng Tu ( L’Ordre des religieux ) là một tập thể Fan Hâm mộ từ bỏ đời sống thế tục để góp sức trọn đời cho Đạo pháp, góp thêm phần cùng Giáo Hội cứu rỗi nhơn loại .
Khi đồng ý hiến thân trọn đời cho Đạo, Fan Hâm mộ phải lập thệ :
+ Thanh khiết, là giữ cuộc sống độc thân toàn vẹn .
+ Thanh bần, là giữ cuộc sống trong sáng nghèo nàn .
+ Vâng phục, là nghe lời bậc Bề trên dạy dỗ .
+ Huynh đệ, là sống trong đại gia đình với tình đồng đội .

– Tổ chức các Dòng Tu:

Mỗi Dòng Tu có hiến chương riêng và qui chế hoạt động giải trí riêng. Hệ thống tổ chức triển khai trong Dòng Tu thường có 3 cấp :
+ Bề trên Dòng, còn gọi là Bề Trên Cả hay Bề Trên Tổng Quyền .
+ Tỉnh Dòng .
+ Các Tu viện và những cơ sở hoạt động giải trí .
Mỗi Dòng Tu thường tổ chức triển khai Đại Hội định kỳ để tổng kết và nhìn nhận tình hình hoạt động giải trí, đề ra chương trình, đổi khác nhơn sự chỉ huy .

– Phân loại các Dòng Tu:

Có 2 cách phân loại những Dòng Tu :

+  Phân loại theo Qui chế: 2 loại.  

* Dòng Tu theo Qui chế Tòa Thánh, là những Dòng Tu lớn, có từ truyền kiếp, mang đặc thù quốc tế, đặt cơ quan Trung ương tại Tòa Thánh La Mã, như những Dòng Tu : Bơ-noa, Đô-mi-ni-cô, Phăn-xi-cô, Dòng Chúa Cứu thế, .
* Dòng tu theo Qui chế Giáo Phận, thuộc quyền tinh chỉnh và điều khiển trực tiếp của Giám Mục Giáo Phận. Một số Dòng Tu theo Qui chế Giáo Phận ở việt nam như : Dòng Thánh Tâm ở Giáo Phận Huế, Dòng Giu-se ở Giáo Phận Nha Trang ,. .

– Phân loại  theo cách hoạt động: 2 loại.

+ Dòng Tu Chiêm niệm ( Contemplatif ) chuyên chú vào việc tụng kinh, trầm tư chiêm nghiệm ( Thiền định ) và tự lao động để sinh sống. Những tu sĩ trong Dòng Chiêm niệm thường không ra ngoài hoạt động giải trí, chỉ ở trong những nhà tu kín .
Một số Dòng Tu Chiêm niệm như : Dòng Bơ-noa, Dòng Ca-mê-lô ,. . .
+ Dòng Tu hoạt động giải trí ( Actif ) chuyên chú về những hoạt động giải trí xã hội dưới nhiều hình thức :
* Hình thức tôn giáo : như giảng dạy Giáo lý, Thần học, Truyền giáo .
* Hình thức từ thiện : như Giáo dục đào tạo, Y tế, Cứu trợ .
Các Dòng nầy như : Dòng Tên, Dòng Đô-mi-ni-cô ,. . .

–  Phân loại theo Giới tính: Nam và Nữ phái.

Phụ nữ Công giáo chỉ được tham gia vào những Dòng Tu, không được huấn luyện và đào tạo để trở thành Linh Mục, Giám Mục, chỉ huy những cấp hành chánh của Giáo Hội. Đây cũng là một thiệt thòi lớn cho Nữ phái Công giáo .
Các Dòng Tu chỉ gồm toàn là tu sĩ Nam phái, hoặc gồm toàn Nữ phái, không có Dòng Tu nào vừa có Nam tu sĩ, vừa có Nữ tu sĩ .
Các tu sĩ trong Dòng Tu được phân làm 2 bực : Các tu sĩ thường ( Nam gọi là Frère : Huynh, Nữ gọi là Soeur [ Bà sơ ] : Tỷ ), và bên trên là những Linh Mục bên Dòng Tu Nam phái, và Bà Bề Trên bên Dòng Tu Nữ phái .
Các Linh Mục Dòng được huấn luyện và đào tạo như những Linh Mục bên Giáo triều và có những hoạt động giải trí như Linh Mục Giáo triều, nhưng chỉ hoạt động giải trí trong Dòng Tu mà thôi. Tuy nhiên, cũng có Dòng Tu không có Linh Mục, như Dòng Tu La-san ( Lasal ) .

– Một số Dòng Tu Nam:

+ Dòng BƠ-NOA (Ordre de Saint Benoit, viết tắt OSB)

Đây là Dòng Tu cổ nhất của Giáo Hội La Mã, do Benoit de Nurci lập ra từ năm 529 ở Monte-Cassino ( Italia ). Dòng Benoit sinh ra đưa những tu sĩ sống độc thân vào đời sống tập thể trong những Tu Viện, khởi đầu thời kỳ Chủ nghĩa Tu Viện Thiên Chúa giáo .
Chủ đích của Dòng Bơ-noa là chiêm niệm, lao động chân tay, điều tra và nghiên cứu Thần học và Phụng vụ .
Vào thời Trung cổ, Dòng Bơ-noa có những góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn dân chúng Âu Châu trồng trọt, chăn nuôi, chế thuốc trị bịnh .
Y phục của Tu sĩ Dòng nầy là áo chùng đen, thắt lựng da, ngoài phủ vải đen .
Dòng Bơ-noa truyền vào việt nam từ năm 1935, có những cơ sở ở Đà Lạt và Huế .

Dòng ĐÔ-MI-NI-CÔ (Odre de Dominicains (OD):

Dòng này còn gọi là Dòng Đa Minh do Dominique lập năm 1206 ở Toulouse nước Pháp .
Chủ đích của Dòng là thuyết giảng, nên còn gọi là Dòng Thuyết giảng ( Odre des Prêcheurs hay Odre des Frères Prêcheurs ), để khuyến tu kẻ ngoại đạo trong những cuộc Thánh chiến chống Hồi giáo .
Y phục của những tu sĩ Dòng nầy là áo chùng trắng và khăn phủ ngoài cũng trắng .
Dòng Đô-mi-ni-cô truyền vào việt nam vào thế kỷ 16 do những Giáo sĩ Dô-mi-ni-cô Tây Ban Nha. Họ giảng đạo và tinh chỉnh và điều khiển Địa Phận Bùi Chu, sau đó tách ra thành Địa Phận Tỉnh Thái Bình, Hải Phòng Đất Cảng, Thành Phố Bắc Ninh .
Năm 1930, có thêm những Giáo sĩ Dòng Đô-mi-ni-cô vào truyền giáo đến Lạng sơn .
Năm 1954, Các Giáo sĩ Dòng nầy chuyển vào thiết kế xây dựng những cơ sở ở miền Nam việt nam .

+ Dòng PHĂN-XI-CÔ (Ordre des Franciscains (OF):

Dòng Phăn-xi-cô do Francois lập năm 1209 tại Assises nước Italia, chủ trương việc giảng thuyết chỉ được xem như thể một trong những hoạt động giải trí từ thiện, như chăm nom người tàn tật, kẻ đau ốm cô độc .
Y phục của những Tu sĩ Dòng nầy giống như của Dòng Bơ-noa, nhưng màu dà, có thắt lưng, chân đi dép .
Dòng Phănxicô truyền vào việt nam với danh nghĩa là “ Anh em hèn mọn ” ( Odre des Frères Mineurs, viết tắt là OFM ), lập cơ sở tiên phong ở Vinh, Thanh Hóa, sau đó là Nha Trang và Sàigòn .

+ Dòng TÊN  (Odre de Jésuites: OJ):

Dòng Tên tức là Dòng Jésus, do một người lính Thánh giá người Tây Ban Nha tên Igntis lập ra năm 1584, để chống lại trào lưu cải cách tôn giáo, đồng thời cung ứng nhu yếu truyền giáo ra quốc tế của Giáo Hội. Dòng Tên đặt dưới sự điều khiển và tinh chỉnh trực tiếp của Đức Giáo Hoàng, được tinh lọc để đảm nhiệm những người quí phái, những nhà trí thức và khoa học. Thực tế, Dòng Tên là tuyến đầu phòng thủ của Giáo Hội, xuất hiện khắp nơi trên quốc tế, chi phối được nhiều chánh phủ của nhiều nước. Năm 1759, Dòng Tên bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha ; năm 1762, và năm 1820 Dòng Tên bị trục xuất khỏi nước Pháp .
Năm 1773, Giáo Hoàng Clê-măng giải tán Dòng Tên, và đến năm 1841, Giáo Hoàng Piô VII mới cho phục sinh lại .
Hiện nay, Dòng Tên xuất hiện tại 100 nước trên quốc tế với khoảng chừng 30.000 Giáo sĩ .
Y phục của Giáo sĩ Dòng Tên giống hệt như y phục của Linh Mục Giáo triều .
Giáo sĩ Dòng Tên vào việt nam rất sớm, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Dòng Tên mất dần ảnh hưởng tác động tại việt nam khi Đức Giáo Hoàng được cho phép Hội Thừa Sai Paris ( MEF ) được độc quyền truyền giáo tại việt nam .
Năm 1957, Tổng Thống Ngô đình Diệm mới cho Dòng Tên trở lại hoạt động giải trí tại Miền Nam việt nam .

+ Dòng KHỔ TU  (Ordre de Trappistes: OT):

Dòng Khổ Tu còn gọi là Dòng Xi-tô vì được xây dựng tại Citeaux nước Pháp vào năm 1098 bởi Robert de Mondesme và sau nầy được Benard củng cố và bổ trợ .
Dòng Khổ Tu tôn vinh đời sống ép xác kham khổ, không ăn thịt cá, đi chân đất, lao động chân tay, chuyên bề chiêm niệm .
Dòng Khổ Tu đào tạo được nhiều Giáo Sĩ hạng sang cho Giáo Hội, là những bậc chơn tu. Riêng trong thế kỷ 17, huấn luyện và đào tạo được 11 Hồng Y và 75 Giám Mục .
Y phục của Dòng Khổ Tu là áo chùng trắng, thắt lưng da, tấm vải phủ ngoài màu đen .
Tại việt nam, vào năm 1920, một Linh Mục người Pháp, dựa trên qui chế Dòng Khổ Tu, lập ra tại Quảng Trị, tự coi là một nhánh của Dòng Bơ-noa, sau nầy sáp nhập với những Giáo Sĩ Dòng Khổ Tu từ Pháp sang, gọi là Dòng Phước Sơn .
Việc sáp nhập trên không được Bề Trên của Dòng Khổ Tu tại Pháp hài lòng, nên họ đưa thêm một số ít Giáo Sĩ khác qua lập những cơ sở khác như ở Mỹ Ca, Châu Sơn, Phước Lý. . .

+ Dòng CHÚA CỨU THẾ  (Congrégation du Très Saint Redemptoriestes, viết tắt là: CSR):

Dòng Chúa Cứu Thế do Alphonse de Liguori lập ra ở Naples ( Ý ) vào thế kỷ 18 trong thực trạng cuộc Cách mạng Tư sản ở những nước Âu Châu liên tục nổ ra. Dòng Chúa Cứu Thế phát triển rất nhanh ở Châu Âu và truyền sang Bắc Mỹ .
Giáo sĩ Dòng nầy thường đi thuyết giảng Giáo lý và đạo đức ở những Xứ đạo trong tuần làm phúc, và đi truyền đạo ở những vùng chưa có Công giáo .
Y phục của Giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế có màu đen, cổ trắng, thắt lưng vải, đeo tràng hạt .
Dòng nầy vào việt nam năm 1925, hầu hết do những Giáo sĩ người Canada, lập những cơ sở tập trung chuyên sâu ở Sàigòn, Nha trang, Vĩnh Long, Đà Lạt .

Dòng LA-SAN (Ordre des Lasaliens, viết tắt là OL) :

Dòng Lasan do Jean Baptist de Lasal lập ra, chuyên dạy học trò ở bậc Trung học, nên còn được gọi là Dòng Sư Huynh, tiếng Pháp là : Ordre des Frères d’Écoles Chrétiennes, viết tắt : OFEC .
Y phục của Giáo sĩ Dòng Lasan giống như Linh Mục của Giáo Hội, có miếng vải trắng trước cổ .
Dòng Lasan vào việt nam qua những Giáo sĩ người Pháp. Trước đây họ mở nhiều Trường Trung học dạy chương trình Pháp như trường Lasan Taberd ở Sàigòn, trường Pellerin ở Huế, trường Pujinier ở TP. Hà Nội .

Dòng BOSCO  (Ordre de Salesiens, viết tắt là OS):

Dòng Bosco do Don Bosco lập ra ở nước Ý vào cuối thế kỷ 18. Chủ đích của Dòng là dạy nghề và dạy văn hóa truyền thống cho thiếu niên nghèo, thất học .
Dòng Bosco vào việt nam vào khoảng chừng năm 1940, lập cơ sở tại Gò Vấp Sàigòn, sau tăng trưởng lên Đà Lạt .

Dòng GIOAN THIÊN CHÚA (Ordre des Hospita-liers, viết tắt là OH):

Dòng nầy được lập ra từ thế kỷ 14 với chủ đích chữa bịnh bằng Đức Tin vào Thiên Chúa và tình thương yêu chăm nom của thầy thuốc .
Y phục của Giáo sĩ Dòng Gioan Thiên Chúa giống y hệt như Giáo sĩ Dòng Bơ-noa .
Dòng nầy vào việt nam năm 1938, do một nhóm tu sĩ người Canada, lập ra những cơ sở tiên phong ở Sài gòn và TP. Hà Nội. Sau năm 1954, những cơ sở ở HàNội dời vào Đà Nẳng và Biên Hòa .

– Một số Dòng Tu Nữ:

+  Dòng BƠ-NOA: Dòng Bơ-noa do Benoit lập ra từ thế kỷ thứ 5, thật tế nó là Dòng Tu dành cho phụ nữ chuyên về Chiêm niệm. Nữ tu Dòng Benoit có y phục giống như bên Nam phái, nhưng thêm khăn đen và lúp che đầu.

Dòng Nữ tu Benoit sang việt nam vào năm 1935, do những Nữ tu người Pháp, lập cơ sở tiên phong tại Ban Mê Thuộc, sau chuyển về Quận Thủ Đức .

+ Dòng OISEAUX: tức Dòng Nữ Tu Thánh Augustine, nhưng gọi theo tiếng Pháp là: Couvent des Oiseaux.

Chủ đích của Dòng Nữ Tu Oiseaux là giáo dục văn hóa truyền thống và nghề nghiệp cho phụ nữ trở thành những Nữ tri thức. Dòng Nữ Tu nầy sống phóng khoáng, tiếp xúc thông thường với người bên ngoài, nên y phục của họ cũng thông thường, chỉ thêm cái khăn phủ đầu màu xám .
Dòng Oiseaux truyền sang việt nam từ năm 1950 do những Nữ Tu người Pháp, có mở cơ sở là trường học tại Sàigòn .

Dòng PHAOLÔ :

Dòng Nữ Tu Phaolô được lập ra ở Pháp, hoạt động giải trí theo gương của Thánh Phaolô, với nội dung đa phần là : Giáo dục đào tạo, Y tế, Xã hội .
Y phục của Dòng Nữ Tu nầy toàn màu trắng, lúp che đầu cũng trắng ( nên gọi là Bà Sơ trắng ), đôi lúc cũng mặc y phục đen, nhưng cái lúp trên đầu vẫn giữ màu trắng .
Dòng Phaolô vào việt nam vào năm 1860, lập ra những Bệnh viện, Trường học, Cô nhi viện, ở Sàigòn, Huế, Thành Phố Hà Nội, TP. Hải Phòng, Tỉnh Nam Định. Sau năm 1954 thì dời vào miền Nam .

Dòng BÁC ÁI  VINH SƠN:

Dòng Nữ Tu Bác Ái Vinh Sơn do Vincent lập ra tại Paris nước Pháp vào thế kỷ 17 trong thực trạng nước Pháp bị loạn lạc. Chủ đích của Dòng là công tác làm việc cứu tế xã hội .
Y phục của những Nữ Tu Dòng nầy có màu xanh, lúp che đầu cũng màu xanh, nên gọi là những Bà Sơ xanh .
Năm 1935, một số ít Nữ Tu Dòng Bác ái Vinh sơn đến lập cơ sở tại Đà Lạt, Sàigòn, và tăng trưởng ra những nơi khác như Nha Trang, Ban Mê Thuộc .

Dòng PHĂN-XI-CÔ:

Dòng Nữ Tu Phănxicô do Nữ Tu người Pháp lập ra từ thế kỷ 18, chọn những hoạt động giải trí từ thiện và dạy học .
Y phục của Dòng nầy có màu tro, có lúp che đầu .
Dòng Nữ Tu Phănxicô lập cơ sở tiên phong ở việt nam là Trại Cùi Qui Nhơn vào năm 1930, sau đó có lập những cơ sở từ thiện khác ở Sàigòn và Đà Lạt .

Dòng ĐỨC BÀ:

Dòng Nữ Tu Đức Bà lập ra ở nước Pháp vào thế kỷ 18. Chủ đích của Dòng là lo dạy học và công tác làm việc xã hội .
Y phục của những Nữ Tu Dòng nầy giống như Dòng Phănxicô nhưng có tấm vải trắng phủ từ sau ra trước, có viền xanh, lúp đầu màu trắng .
Dòng Đức Bà lập cơ sở tiên phong ở TP. Hà Nội, năm 1934. Sau đó chuyển vào Nam lập ở ĐàLạt, Nha Trang, Phan Thiết .

Dòng MẾN THÁNH GIÁ:

Dòng Nữ Tu Mến Thánh Giá do những Linh Mục Dòng Tên lập ra cùng một thời kỳ với những tổ chức triển khai Thầy giảng, từ thế kỷ 17 và 18. Trong thời kỳ đầu, những Nữ Tu sống đơn thuần, hầu hết là cầu nguyện, giúp việc dạy Giáo lý và một số ít việc làm khác của Giáo Hội .
Sau nầy, qua nhiều lần cải cách, hình thành những qui chế ngặt nghèo, có lời khấn, có trường học và trường tập .

7. Hai Chi Phái lớn

Thiên Chúa Giáo do Đức Chúa Jésus Christ lãnh lệnh Đức Chúa Trời giáng trần mở đạo, để giáo hóa và cứu rỗi trái đất, và Đức Chúa Jésus Christ là Giáo chủ của Thiên Chúa Giáo .
Đến thế kỷ 11, hàng giáo phẩm hạng sang của Thiên Chúa Giáo, do sự không tương đồng với Đức Giáo Hoàng, nên tách ra, lập Chính Thống giáo tại Thành Phố Hà Nội Constantinople ở Thổ Nhĩ Kỳ, truyền bá vùng Đông Âu .

Đến thế kỷ 16, một Linh Mục tại nước Đức là Martin Luther công bố  95 Luận Đề cải cách Thiên Chúa Giáo, đó là bước khởi đầu tách ra lập Đạo Tin Lành, truyền bá mạnh mẽ tại Bắc Âu Châu, Bắc Mỹ, rồi lan ra khắp thế giới.

Như thế, Thiên Chúa giáo có 2 Chi Phái lớn là :
+ Chính Thống giáo ( Orthodoxie )
+ Đạo Tin Lành ( Protestantisme ) và từ đó, Thiên Chúa giáo ở La Mã được gọi là Công giáo .

7.1. Chính Thống giáo

Nguyên vào thế kỷ thứ 4, Hoàng đế La Mã là Constantin ( 270 – 337 ) dời Hà Nội Thủ Đô từ La Mã ( Rôma ) đến Constantinople thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Trước kia, thành phố ấy tên là Bizance, Hoàng đế Constantin kiến thiết xây dựng làm Thành Phố Hà Nội mới, đổi tên lại là Constantinople ( lấy tên của Hoàng đế đặt tên cho TP. hà Nội mới ). Do đó, tại Thành Phố Hà Nội mới nầy, hình thành một Trung tâm Thiên Chúa Giáo đứng thứ nhì sau La Mã .
Giáo hội tại Constantinople được gọi là Giáo hội Đông, và Giáo hội tại La Mã được gọi là Giáo hội Tây. Đức Giáo Hoàng ở tại La Mã .
Hai Giáo hội vẫn thông đồng ngặt nghèo, và Giáo hội Đông vẫn tùng lịnh của Đức Giáo Hoàng ở Giáo hội Tây. Nhưng từ từ, những mâu thuẩn mở màn xảy ra, và Giáo Hội Đông nhận thấy Giáo Hoàng có nhiều hành vi can thiệp vào thế tục quá đáng, nên bất mãn .
Sự việc nổ bùng ra vào năm 1054, giữa thế kỷ 11, khi Đức Giáo Hoàng La Mã sai sứ giả đến Constantinople, đặt trên Bàn thờ Thánh đường Santa Sophia Sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng cắt đứt quan hệ với Giáo hội Đông và phạt vạ Thượng Phụ Giáo Chủ của Giáo hội Đông .
Liền đó, Thượng Phụ Giáo Chủ Mi-ca-e của Giáo hội Đông phản ứng kinh khủng bằng cách triệu tập Đại Hội Công Đồng Giáo hội Đông, công bố tuyệt giao với Giáo Hoàng và phạt vạ Giáo Hoàng La Mã .
Thế là kể từ đó, Giáo hội Đông xây dựng Chính Thống giáo. Dùng từ ngữ Chính Thống giáo là để tỏ rằng, tuy tách ra từ Giáo hội La Mã, nhưng vẫn giữ được Chánh đạo chánh truyền, chớ không phải là Tịch Tà hay Lạc giáo mà Giáo Hội La Mã đã gán cho họ .
Do đó, tính bảo thủ là nguyên tắc đặc trưng điển hình nổi bật của Chính Thống giáo. Giáo lý của Chính Thống giáo hầu hết đều giống với Công giáo La Mã, chỉ có 1 số ít ít khác nhau :

 Về Thiên Chúa 3 Ngôi:

+ Công giáo : Ngôi 1 là CHA, Ngôi 2 là CON, Ngôi 3 là THÁNH THẦN. Tuy 3 Ngôi nhưng đồng bản thể cùng Thiên Chúa. Ngôi 1 sanh Ngôi 2, Ngôi 1 và 2 sanh ra Ngôi 3 .
+ Chính Thống giáo : Ngôi 1 sanh ra Ngôi 2, Ngôi 2 sanh ra Ngôi 3 .

 Thiên Chúa giáo tin vào vô nhiễm thai.

Chính Thống giáo không tin điều đó .

Thiên Chúa giáo: Đức Giáo Hoàng không bao giờ sai lầm về Đức tin, tức là không sai lầm khi ban bố một tín điều hay một Sắc lịnh của Giáo Hội.

Chính Thống giáo : Không tin vào đặc thù không sai lầm đáng tiếc của Giáo Hoàng La Mã, chỉ thừa nhận đặc thù không sai lầm đáng tiếc của Giáo Hội, chớ không phải người đứng đầu Giáo Hội .

Chính Thống giáo: Chỉ có Đức Chúa Jésus  mới là Giáo chủ duy nhất; không chấp nhận nơi chuộc tội.

Chính Thống giáo không có một Trung tâm Giáo hội Thống nhứt như Công giáo La Mã, mà nó gồm 15 Giáo hội Chính Thống độc lập, kể ra:

+ Constantinople ( Thổ Nhĩ Kỳ ) + Nga
+ Alexandrie ( Ai Cập ) + Grudi
+ Antoiny ( Syrie, Liban ) + Serbie ( Nam Tư )
+ Bulgarie + Roumanie
+ Chypre + En-lát ( Hy-Lạp )
+ Albanie + Ba Lan
+ Tiệp Khắc + Châu Mỹ
+ Châu Đại Dương .
Phạm vi hoạt động giải trí của Chính Thống giáo là ở vùng những nước Đông Âu .
Số Fan Hâm mộ của Chính Thống giáo và của Đạo Tin Lành được thống kê nơi Phần I trong bài nghiên cứu và điều tra nầy .

7.2. Đạo TIN LÀNH

( Xem chi tiết cụ thể nơi phần sau : Đạo Tin Lành )
* Ngoài 2 Chi Phái lớn của Thiên Chúa giáo kể trên, còn có nhiều Chi phái nhỏ khác nẩy sanh từ Công giáo hay từ Chính Thống giáo hoặc từ Đạo Tin Lành. Xin kể ra 1 số ít Chi phái nhỏ sau đây :

 Các Giáo hội Công giáo Đông phương:

Đây là những Giáo hội theo nghi lễ Đông phương, gần giống như những Giáo hội Chính Thống giáo ở Cận Đông, Đông Âu và Ấn Độ .
Từ thế kỷ 16, những Giáo hội Công giáo Đông phương nầy đã thông hảo với Tòa Thánh La Mã .
Mặc dầu có ít Fan Hâm mộ, chừng 14 triệu, nhưng sự hiện hữu của những Giáo hội nầy rất quí, vì nó chứng tỏ rằng 2 nền văn hóa Đông và Tây, tuy khác nhau, nhưng vẫn hoàn toàn có thể hòa hợp được .

– Các Giáo hội Nhất Thể giáo (Églises Monophysites)

Các Giáo hội này chỉ tin nhận những điều có trước Công Đồng Chung Canxêđôni năm 451, nên cũng gọi là Giáo hội tiền Canxêđôni .
Số Fan Hâm mộ của Giáo hội này được chừng 18 triệu, gồm có những tông phái Syri Đông phương, Syri Tây phương, Syri Chính Thống ở Ấn Độ, Êtiopi, Acmêni .

 Anh giáo (Anh Quốc giáo): (Xem Đạo Tin Lành)

8. Công giáo tại Việt Nam

Công giáo được truyền sang việt nam một cách có mạng lưới hệ thống và qui mô từ đầu thế kỷ 17 với những Thừa Sai Dòng Tên .
Trước đó, thế kỷ 16, từ khi con đường liên lạc giữ Tây Âu và Đông Á được trở nên thuận tiện qua mũi Hảo Vọng ( Nam Phi ) năm 1498, và nhất là sau khi Bồ Đào Nha thiết lập những địa thế căn cứ ở Ân Độ ( 1510 ), ở Mã Lai ( 1511 ) và ở Macao Trung quốc ( 1557 ), những tàu thuyền của Bồ Đào Nha đi Trung quốc và Nhật Bản ngày càng nhiều. Trong những chuyến đi như vậy, những thuyền tàu ấy thường ghé qua những hải cảng việt nam .
Các Linh Mục Dòng Phan Sinh, Đa Minh, hoặc Âu Tinh đi theo làm mục vụ cho những thủy thủ trên tàu, chắc như đinh đã có dịp tiếp xúc với dân chúng việt nam, nhưng vì không hiểu tiếng việt nam nên những cuộc tiếp xúc nầy không đem lại tác dụng nào về phương diện truyền giáo .
Các Linh Mục ấy không lưu lại một chứng từ nào. Các câu truyện về công cuộc truyền giáo ở việt nam trước thế kỷ 17 đều do những nhà chép sử của những Dòng Tu ghi lại vào khoảng chừng năm sáu chục năm sau .
Sách “ Khâm Định Việt Sử Thông giám Cương Mục ” là một bộ sử việt nam được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức, khi nói về một lệnh cấm Đạo Gia Tô năm 1663 dưới triều vua Lê Huyền Tôn, có chú thích về Đạo Gia Tô như sau :
“ Theo Dã Lục, vào khoảng chừng tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất ( 1533 ) đời vua Lê Trang Tôn, có một thương nhân tên Inikhu đi đường biển vào việt nam lén lút vào giảng Đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh, thuộc huyện Nam Chấn và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy ” .
Thời kỳ từ năm 1533 đến 1614, đa phần là những Giáo sĩ Dòng Phănxicô Bồ Đào Nha và Dòng Đa Minh Tây Ban Nha, đi theo những thuyền buôn vào việt nam giảng đạo, nhưng do không quen phong thổ và không thông thuộc tiếng việt nam, nên việc truyền giáo không tác dụng .
Thời kỳ từ năm 1614 đến 1645, những Giáo sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha từ Macao ( Trung quốc ) vào việt nam hoạt động giải trí ở Đàng ngoài và cả Đàng trong, có nhiều vị thông thuộc tiếng Việt, lại hoạt động giải trí khôn khéo, đã lôi kéo được 50.000 người việt nam theo Đạo và tạo được 40 Tu sĩ việt nam giúp việc truyền đạo .
Năm 1693, Nghệ An có 12 làng Công giáo toàn tòng .
Khi Công giáo tăng trưởng đến mức khá lớn, những Giáo sĩ Dòng Tên nghĩ đến việc cần phải có những Giám Mục đảm nhiệm để thôi thúc công cuộc truyền đạo ở mức cao hơn và quản trị nền Đạo. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes, giáo dân quen gọi là Cha Đắc-Lộ của Dòng Tên, có kinh nghiệm tay nghề 30 năm hoạt động giải trí vùng Viễn Đông, trong đó có 17 năm ở việt nam, thông hiểu tình hình việt nam và nói thông thuộc tiếng việt nam, đề cử 2 vị Linh Mục người Pháp tên là : Francois Pallu và Lambert de la Motte, được Đức Giáo Hoàng phong làm Giám Mục đảm nhiệm truyền đạo ở Đông Dương .
Năm 1659, hai Địa Phận Công giáo tiên phong được xây dựng, một ở Đàng trong và một ở Đàng ngoài, do 2 vị Giám Mục nầy quản lý .
Trong thời hạn trở về nước Pháp, Giáo sĩ Alexandre de Rhodes ( người Pháp ) bàn soạn lập kế hoạch hoạt động vua nước Pháp, giới quí tộc Pháp và ý kiến đề nghị Đức Giáo Hoàng lập Hội Thừa Sai Paris ( Mission Étrangère de Paris ) để tổ chức triển khai việc truyền giáo tại Đông Dương cho tác dụng hơn .
Năm 1644, Hội Thùa Sai Paris chính thức xây dựng, được Đức Giáo Hoàng giao cho trách nhiệm truyền giáo tại Đông Dương, Trung quốc và Khu vực Đông Nam Á .
Vì muốn mở mang nước Chúa, muốn được truyền đạo nhanh gọn và độc quyền, những Giáo sĩ của Hội Thừa Sai Paris thường tham gia vào những hoạt động giải trí chánh trị, tiếp tay cho nước Pháp bành trướng thế lực ở Đông Dương .
Giám Mục Pigneu de Béhaine ( Bá-Đa-Lộc ) đã kiến thiết xây dựng kế hoạch giúp Chúa Nguyễn Ánh Phục hồi cơ đồ, đánh tan quân Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long .
Về sau, những vị vua nhà Nguyễn nối tiếp vua Gia Long cấm đạo Công giáo, thì những Giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris như : Giám Mục Pellerin, Phó Giám Mục Lefèbvre, Giám Mục Puginier, là những người đã thông hiểu tình hình việt nam, nên đã giúp quân đội Pháp rất hiệu suất cao, đánh chiếm nước việt nam và từ từ biến nước việt nam thành thuộc địa của nước Pháp .
Nhờ những công trạng nầy, Hội Thùa Sai Paris được Chánh quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương dành cho rất nhiều độc quyền đặc lợi, và được tự do truyền đạo trên thế mạnh của Chánh quyền .
Các vị Giám Mục người Pháp có uy quyền như một ông vua trong Giáo hội Công giáo VN.
Đến năm 1933, sau hơn 400 năm truyền đạo Công giáo tại việt nam, Tòa Thánh Vatican mới giao quyền tự quản Giáo hội việt nam cho những Giáo sĩ việt nam và phong ông Nguyễn bá Tòng làm Giám Mục, là người việt nam tiên phong được phong vào phẩm nầy .
Năm 1960, Giáo phẩm việt nam được thiết lập, người Công giáo việt nam được phong vào 3 cấp : Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục .
Đến năm 1976, Giáo hội Công giáo việt nam có thêm phẩm Hồng Y, đó là Đức Hồng Y Trịnh như Khuê ở Giáo Phận TP. Hà Nội, được phong chức ngày 24-5-1976 tại La Mã .
Hiện nay, Giáo hội Công giáo việt nam có 3 Giáo Tỉnh, tương ứng với 3 Miền Nam, Trung, Bắc, gồm 25 Giáo Phận .
– Giáo Tỉnh Thành Phố Hà Nội : có 10 Giáo Phận ( Địa Phận ) kể ra : Thành Phố Hà Nội, TP. Hải Phòng, Vinh, Bùi Chu, TP Bắc Ninh, Hưng Hóa, Phát Diệm, Thành Phố Lạng Sơn, Thanh Hóa, Tỉnh Thái Bình .
Đứng đầu Giáo Tỉnh TP.HN là Đức Tổng Giám Mục Phạm đình Tụng, Phụ Tá là Giám Mục Lê đắc Trọng .
– Giáo Tỉnh Huế : Có 6 Giáo Phận : Huế, Qui Nhơn, Đà Nẳng, Nha Trang, Kon Tum, Ban Mê Thuộc .
Đứng đầu Giáo Tỉnh Huế là Tổng Giám Mục Nguyễn như Thể .
– Giáo Tỉnh Sài gòn : có 9 Giáo Phận : Sài gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết, Đà Lạt .
Đứng đầu Giáo Tỉnh Sài gòn là Giám Mục Huỳnh văn Nghi, Phụ tá là Giám Mục Phạm văn Nẫm .
Theo thống kê năm 1995 :
. Tổng số Tổng Giám Mục và Giám Mục việt nam là 33 vị .
. Tổng số Linh Mục là 2023 vị .
. Tổng số Tu sĩ : 1051 Nam, 6375 Nữ .
. Tổng số Giáo dân : Giáo Tỉnh TP.HN : 1.785.588
Giáo Tỉnh Huế : 656.645
Giáo Tỉnh Sàigòn : 2.204.372
Tổng cộng : 4.646.605 Giáo dân .
Giáo hội Công giáo việt nam lần lượt có 3 vị Hồng Y được Tòa Thánh La Mã tấn phong :
* Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh như Khuê : sanh năm 1899 tại Thành Phố Hà Nội, thọ phong Linh Mục ngày 1-4-1933, Giám Mục Đại diện Tông Tòa ngày 15-8-1950, Tổng Giám Mục Chính Tòa ngày 24-11-1960, thăng Hồng Y ngày 27-5-1976, và từ trần ngày 27-11-1978 .
* Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh văn Căn : sanh năm 1921 tại Thành Phố Hà Nội, thọ phong Linh Mục ngày 3-12-1949, Giám Mục Phó ngày 2-6-1963, Giám Mục Chính Tòa 27-11-1978, thăng Hồng Y ngày 30-6-1979, và từ trần ngày 18-5-1990 .
* Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm đình Tụng : sanh năm 1919, thọ phong Linh Mục ngày 6-6-1949, Giám Mục ngày 15-8-1963, Tổng Giám Mục TP. Hà Nội ngày 23-4-1994, thăng Hồng Y ngày 26-11-1994 .
Hiện nay, Đức Hồng Y Phạm đình Tụng đứng đầu Hội Đồng Giám Mục Giáo hội Công giáo việt nam .
Đại Hội Hội Đồng Giám Mục việt nam lần thứ 6 tại TP.HN từ ngày 25 đến 29-9-1995, đã bầu ra Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục việt nam như sau :
quản trị : Đức Hồng Y Phạm đình Tụng .
Phó quản trị : Giám Mục Huỳnh văn Nghi .
Giám Mục Nguyễn văn Hòa .
Tổng Thư Ký : Giám Mục Nguyễn sơn Lâm .
Phó Tổng Thư Ký : Giám Mục Lê đắc Trọng .
Giám Mục Trần thanh Chung
Giám Mục Phạm minh Mẫn .
Ủy Ban Phụng tự : Giám Mục Lê phong Thuận .
Ủy Ban Giáo dân : Giám Mục Nguyễn văn Sang .
Ủy Ban Linh Mục, Tu sĩ, Chủng sinh : Tổng G. Mục Nguyễn như Thể .

9. Tiểu sử Đức Chúa Jésus Christ

Đức Chúa Jésus là Giáo chủ của Thiên Chúa giáo. Đạo Thiên Chúa là Thánh đạo trong Ngũ Chi Đại Đạo do Đức Jésus lập ra ở nước Do Thái, sau Đạo Phật ở Ấn Độ 544 năm .
Đức Chúa Jésus giáng sinh trong một mái ấm gia đình bần hàn nhưng rất đạo đức : Gia đình Bà Maria và Ông Joseph .
Bà Maria trước đó là một Nữ tu trong Đền Thờ Jérusalem, đến tuổi lấy chồng, luật Đền Thờ buộc những Nam tu sĩ trong Đền Thờ phải có người đứng ra cưới, chính bới địa thế căn cứ theo lời dạy của Thượng Đế với Ông Adam và Bà Êve : ” Unissez-vous et multipliez. ” ( Bây phải chung sống cùng nhau đặng sanh sản ra nhiều nữa ) .
Lễ chọn chồng của Nữ tu Maria tổ chức triển khai theo luật của Đền Thờ : Các vị Nam tu sĩ chưa có vợ, mỗi người lựa một nhánh bông, cắm vào bình bông đặt trong Đền Thờ, sau 3 ngày, bông của người nào còn tươi tắn là duyên của người đó, phải cưới Maria .
Ông Joseph lúc đó đã 50 tuổi, cũng phải theo luật lệ đó. Các vị Nam tu sĩ trẻ tuổi đã lựa bông kỹ lưỡng với nhiều kỳ vọng và đã cắm vào bình hoa hết rồi. Còn Joseph nghĩ mình đã già rồi, có vợ con làm chi nữa, nhưng luật Đền Thờ thì phải vâng, nhưng làm cho có lệ. Ông lượm một nhánh bông huệ khô héo của ai bỏ dưới đất, đem cắm đại vào bình. Nhưng kỳ lạ thay, loài hoa huệ, những bông nở tàn rồi thì rụng đi, còn bông búp bắt nước sống lại, nở ra xanh tươi. Các thứ hoa khác trong bình đều tàn rụi. Thế là Ông Joseph phải cưới Maria .
Luật Đền Thờ lại buộc 2 vợ chồng mới cưới phải ra ở ngoài, không được ở trong Đền Thờ nữa. Vợ chồng Maria và Joseph dắt ra ngoài mướn nhà tại, lo làm ăn sanh sống. Ông Joseph làm nghề thợ mộc, Bà Maria làm nghề vá may, đan thêu, tạm sống qua ngày .
Bà Maria có thai con đầu lòng : Chúa Jésus. Bà được Thiên Thần Gabriel báo mộng cho biết Bà sẽ sanh ra cho loài người một Đấng Cứu Thế .
Đến Lễ Noel hằng năm tổ chức triển khai trang trọng nơi Đền Thờ Jérusalem, tuy bụng mang dạ chữa gần ngày sanh nở, nhưng vì lòng mộ đạo, hai vợ chồng Maria-Joseph đều nỗ lực đi đến Đền Thờ để chầu lễ. Khi đến nơi, những quán trọ đều bị khách đi dự lễ mướn hết, tiết trời lại quá lạnh lẽo, hai vợ chồng phải đến Bêlem, xin với một chủ trại cho tạm trú đỡ trong chuồng chiên .
Đúng 12 giờ khuya đêm 24 tháng 12 dương lịch, Bà Maria chuyển bụng sanh ra Chúa Jésus. Chúa Hài đồng được quấn tả và được tạm đặt vào máng cỏ cho đỡ lạnh nơi chuồng chiên trong hang đá .
Các nhà Tiên tri đã báo trước ngày Chúa giáng sanh : Ngày nào sao chổi mọc là ngày đó Chúa giáng sanh, nên nhớ mà chú ý tìm người. Trong giờ Chúa giáng sanh, có nhiều huyền diệu xảy ra : Đám chăn chiên ngoài đồng bỗng nghe giữa thinh không có lời nói của Thiên Thần : Có Chúa Cứu Thế giáng sanh, hào quang tỏa sáng ngời .
Các người chăn chiên liền đi tìm và gặp Chúa Hài đồng nằm trong máng cỏ, họ đảnh lễ Chúa thứ nhất hơn hết .
Vua Hérode đang quản lý dân Do Thái, bỗng tiếp kiến những Đạo sĩ từ phương Đông tìm đến và hỏi rằng : ” Vua dân Do Thái mới sanh ra hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao 5 cánh của Ngài bên Trời Đông, nên tìm đến để đảnh lễ Ngài ” .
Nghe vậy, vua Hérode tá hỏa và cả thành Jérusalem cũng náo động lên. Ông cho triệu tập những vị Thượng Tế và Ký Lục để hỏi thì họ cho biết Chúa đã được sanh ra ở Bêlem xứ Juđê. Vua Hérode sợ hãi sự hiện hữu của Chúa làm hại đến quyền lực tối cao của Ông, nên Ông tìm cách giết Chúa, nhưng Ông không biết trẻ con nào là Chúa. Ông ra lịnh giết toàn bộ những đứa trẻ từ 2 tuổi trở xuống, tính theo thời hạn mà Ông đã hỏi nơi những Đạo sĩ .
Thiên Thần liền hiện ra báo mộng cho ông Joseph, bảo : Hãy chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài trốn qua Ai Cập và cứ ở đó cho đến khi ta nói lại, vì vua Hérode sắp lùng bắt hài nhi mà giết đi .
Sáu năm sau, vua Hérode chết. Thiên Thần lại đến báo mộng bảo Joseph : Hãy chổi dậy và đem hài nhi và mẹ Ngài quay trở lại Do Thái vì kẻ tìm hại hài nhi đã chết .
Ông Joseph đem mái ấm gia đình về xứ Galilé ở thành Nazaret. Chúa Jésus được 6 tuổi. Cả mái ấm gia đình sống rất bẩn chật. Ông Joseph liên tục làm nghề thợ mộc, Bà Maria thì vá may. Chúa Jésus thường giúp mẹ đội nước mướn ở bờ sông Jourdain .
Lúc Chúa Jésus được 12 tuổi, Ngài theo cha học nghề thợ mộc. Khi đó, Ông Joseph lãnh làm nhà cho một người trong xóm, thống kê giám sát thế nào mà khi cắt gỗ, mấy cây cột đều cụt hết. Chủ nhà bắt đền. Ông Joseph ngồi khóc ròng, vì nhà nghèo tiền đâu mà đền. Chúa Jésus liền cầu nguyện, rồi cha nắm một đầu cột, con nắm một đầu cột kéo dãn dài ra cho đủ thước tấc để bồi thường cho chủ nhà. Việc làm liều đó, lạ lùng thay, cây cột gỗ lại dãn dài ra như ý muốn .
Đó là Đấng Christ làm phép lạ lần tiên phong lúc 12 tuổi .
Cũng trong năm đó, Chúa Jésus vô Đền Thờ Jérusalem. Các vị Giáo sĩ trong Đền Thờ nghe danh Chúa là thần đồng liền xúm lại phỏng vấn. Buổi đó, Đức Christna Phật giáng linh trên Chúa, nên Ngài đã ngồi giữa những vị Giáo sĩ thuyết pháp mê hồn làm mọi người rất đổi kinh ngạc .
Từ đó, Chúa Jésus về nhà thì cũng như mọi người, phụ làm thợ mộc với cha, hiếu hạnh với mẹ, hòa nhã với mọi người. Nhưng Ngài cảm thấy khó khăn vất vả, Chúa Jésus bèn xin đi làm thuê bên ngoài, lấy tiền về phụ với cha mẹ nuôi mái ấm gia đình .
Thời gian dài trôi qua, đến năm Chúa Jésus được 30 tuổi, nghe Thánh Jean Baptiste đang làm lễ Giải Oan tại bờ sông Jourdain, Chúa Jésus liền đi đến đó. Khi nhìn thấy Chúa Jésus từ xa đi tới, Thánh Jean Baptiste biết đây là Chúa Cứu Thế, mới nói : ” Từ sáng tới giờ, tôi chỉ chờ vị nầy thôi ” .
Đức Chúa đến thọ pháp Giải Oan nơi Thánh Jean. Khi Thánh Jean hành pháp vừa xong, Đức Chúa Jésus từ dưới sông vừa bước lên bờ thì trên không trung hiện ra hào quang sa xuống giữa đầu Chúa và có tiếng phán rằng : ” Nầy con yêu dấu của Ta ! Cả ơn nghĩa của Ta để cho ngươi đó ” .
Sau đó, Chúa Jésus được khiến đi vào sa mạc để chịu sự thử thách của Quỉ Satan. Suốt 40 ngày đêm, Chúa bị Quỉ vương cám dỗ đủ điều, nhưng không dụ được Chúa. Quỉ vương đành khuất phục trước sự cao quý của Ngài .
Từ buổi đó, Đức Chúa Jésus là Chân linh của Đấng Christna giáng hạ. Ngài mở màn truyền Đạo khắp nơi, thâu nhận 12 Tông đồ, làm nhiều phép lạ để cứu khổ nhân sanh. Ngài xưng là con của Đức Chúa Trời, tức là con của Thượng Đế và tôn vinh Đấng Thượng Đế cao quý .
Đức Chúa Jésus, với lòng yêu quý nhơn sanh một cách nồng nàn, Ngài đã dạy dỗ những môn đồ lòng yêu dấu, bác ái, hạnh bố thí, sự chân thực, khiêm nhượng, tự xét mình để sửa mình, những điều răn cấm, giữ tâm thanh cao trong sáng, lời nói trọn lành, hành vi chân chánh, thờ kính Đức Chúa Trời một cách hết lòng .
Bởi luật vô vi, không ai thoát khỏi ngày Phán Xét ở đầu cuối, dù người đã chết hay người đang sống, cũng đều chịu sự thưởng phạt đúng mức công bình .
Tất cả những điều giáo huấn của Đức Chúa Jésus tạo thành một mạng lưới hệ thống Giáo lý cho nền Đạo Thánh ở nước Do Thái, truyền bá can đảm và mạnh mẽ sang Âu Châu. Uy quyền của bọn vua quan phong kiến và bọn Giáo chủ Cai-phe bị lung lay, nên chúng tìm cách giết Chúa Jésus .
Bọn chúng vu cáo Ngài mưu việc phản loạn, lại mua chuộc Yuda, một Tông đồ của Chúa, phản lại Chúa. Yuda bị tài lộc làm chóa mắt nên điềm chỉ cho bọn lính bắt Chúa và Chúa bị chúng lên án tử hình, đóng đinh trên Thập tự giá .
Đức Chúa Jésus đã biết trước việc đó, nhưng Ngài không tránh mặt, mà cứ thể theo Thiên ý .
Cái chết của Ngài có ý nghĩa gì ?
Đó là đem xác Thánh quí trọng hiến dâng lên Đức Thượng Đế, làm con tế vật hầu chuộc tội cho loài người. Việc làm nầy đồng thể với việc dâng Tam bửu của Fan Hâm mộ Cao Đài lên Đức Chí Tôn, nhưng lại tuyệt đối cao trọng hơn .
Cái chết của Chúa Jésus để chuộc tội cho loài người thật là cao quý, xứng danh là Chúa Cứu Thế của nhơn loại .
Mười hai vị Thánh Tông đoàn của Đức Chúa Jésus là :
1. Simôn, cũng gọi là Phêrô ( Thánh Pierre ) .
2. Anhrê, em của Phêrô .
3. Yacôbê, con của Zêbêđê .
4. Yoan, em của Yacôbê .
5. Philip .
6. Barthêlêmy .
7. Thôma .
8. Mathiơ là người thâu thuế .
9. Yacôbê, con của Alphê .
10. Thađê .
11. Simôn nhiệt thành người Ca-na-an .
12. Yuđa Iscariốt ( được thay bằng Matthya ) .
Chính Yuda đã bán Chúa để nhận tiền của bọn Cai-phe đem về mua ruộng đất, nhưng liền bị tai nạn thương tâm té nhào, vỡ bụng lòi ruột chết thảm .
Mười một Tông đồ còn lại của Chúa đã cử Ông Matthya sửa chữa thay thế Yuđa cho đủ số 12 Tông đồ như lúc đầu .
Đức Chúa Jésus Christ, tuy là Giáo chủ Thánh đạo, nhưng Chơn linh Ngài là một vị Phật. Ngài lãnh lịnh Đức Chí Tôn mở Đạo Thánh nơi nước Do Thái để cứu độ những sắc dân ở Âu Châu .
Đức Chúa Jésus giáng sanh, dù do phàm thai hay do Thánh thai, dù là con ruột của Ông Joseph thuộc dòng dõi vua David ( tức là phàm thai, Đức mẹ Maria không đồng trinh ), hay là con nuôi của Ông Joseph, không thuộc dòng dõi của vua David ( tức là Thánh thai, Đức mẹ Maria đồng trinh ), thì sự tôn thờ Chúa, không phải địa thế căn cứ vào điều đó, mà địa thế căn cứ vào công đức và sự nghiệp của Chúa so với quả đât. Chúa Jésus đã dạy dỗ trái đất nhiều điều hữu dụng và ở đầu cuối dùng cái chết của mình trên cây Thập giá để chuộc tội cho loài người và trả hiếu Thượng Đế. Đó mới là điều quan trọng. Nhân loại mới tôn thờ Ngài, suy tôn Ngài là Đấng Cứu Thế .
Nếu nói rằng Đức Chúa Jésus giáng sanh bằng phàm thai là hạ thấp giá trị của Chúa thì trọn vẹn không đúng, chính bới nếu đúng như vậy, thì Đức Phật Thích Ca hay Đức Khổng Tử đều giáng sanh bằng phàm thai thì không đáng kính trọng hay sao ?

Chúa Giêsu

SermonOnTheMountcropped.jpg

Gia phả và Gia đình

Cuộc đời và đường khổ nạn của Chúa Giêsu, tranh của họa sỹ Ý Gaudenzio Ferrari, 1513
Có hai ký thuật gia phả Chúa Giê-su trong những sách Phúc âm : một về họ nội qua người cha pháp lý Joseph ( Giu-se hoặc Giô-sép ) trong Phúc âm Matthew ( Mát-thêu hoặc Ma-thi-ơ ) và về họ ngoại qua người mẹ với những tham chiếu về người cha được chép ở Phúc âm Lu-ca. Hai ký thuật trên đều truy nguyên phổ hệ của Chúa Giê-su đến Vua David, rồi từ đó đến Abraham. Có sự tương đương nếu tính từ Abraham đến David, nhưng có một chút ít độc lạ nếu tính từ David đến Joseph. Matthew khởi đầu với Vua Solomon và liệt kê những đời vua Judah cho đến vị vua sau cuối, Jeconiah. Sau đó quốc gia bị xâm lăng bởi Đế quốc Babylon. Như thế, Matthew chỉ ra rằng Chúa Giê-su là hậu duệ chính thức của vương triều Israel. Trong khi đó, bản gia phả của Luca dài hơn và cụ thể hơn bản gia phả của Matthew, truy nguyên đến Adam và phân phối nhiều tên tuổi hơn trong đoạn từ David đến Chúa Giê-su, đưa ra những tên của những hậu duệ trực tiếp từ Adam đến Chúa Giê-su về phía Mary ( Maria hoặc Ma-ri ) .
Joseph chỉ Open trong phần tường thuật về tuổi thơ của Chúa Giê-su. Sự kiện Chúa phó thác cho người môn đồ thân yêu bổn phận chăm nom bà Mary khi ngài đang bị đóng đinh trên thập tự giá cho thấy có lẽ rằng Joseph đã từ trần trong thời hạn Chúa Giê-su thi hành thánh chức. Cả Matthew và Mark ( Macô hoặc Mác ) đều nói về người thân trong gia đình trong mái ấm gia đình của Chúa Giê-su. Phúc âm Máccô thuật lại rằng những người nghe Chúa Giê-su giảng luận đều hỏi ” Có phải người là thợ mộc, con trai Ma-ri, bạn bè với Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, và Si-môn chăng ? Chị em người há chẳng phải ở giữa tất cả chúng ta đây ư ? “. Sứ đồ Phao-lô, trong thư gởi tín hữu ở Galatia đã viết : ” nhưng tôi không thấy một sứ đồ nào khác, ngoại trừ James ( Giacôbê hoặc Gia-cơ ) là em của Chúa “. Sử gia Do Thái sống vào thế kỷ thứ nhất, Josephus, đã miêu tả James Người Công chính là ” em của Giê-su, được gọi là Chúa Cơ Đốc “. Hơn nữa, một sử gia Cơ Đốc, Eusebius ( trước tác trong thế kỷ 4 nhưng trích dẫn những nguồn tài liệu từ trước nay đã thất lạc ) có nhắc đến James Người Công chính là em Chúa Giê-su. Tuy nhiên, Epiphanius cho rằng họ là ” những người con của người vợ trước của Joseph ( không có ký thuật nào về sự kiện này ) “, trong khi Jerome lập luận rằng họ là ” bạn bè họ của Chúa Giê-su “. Từ adelphos trong tiếng Hy Lạp thường được dịch trong những bản Kinh Thánh là ” đồng đội ” nhưng cũng hoàn toàn có thể chỉ những mối quan hệ mái ấm gia đình, và Công giáo La Mã cũng như Chính Thống giáo Đông phương, đồng ý giáo lý Mary đời đời đồng trinh, cho rằng adelphos nên được hiểu là người họ hàng hoặc bạn bè họ .
Theo ký thuật của Phúc âm Luca, Mary có họ hàng với Elizabeth, mẹ của Giăng Báp-tít ( Gioan Tẩy giả ) .

Giáng sinh và Thời thơ ấu

Các mục tử tìm đến tôn thờ Ấu Chúa, tranh Gerard van Honthorst
Theo Matthew và Luca, Chúa Giê-su sinh ở Bethlehem xứ Judea bởi nữ đồng trinh Mary, do ” thế lực siêu nhiên ” của Chúa Thánh Linh. Phúc âm Lu-ca thuật lại sự kiện thiên sứ Gabriel đến gặp Mary để báo tin cô đã được chọn để mang thai Con Thiên Chúa. Tín hữu Công giáo gọi sự kiện này là Lễ Truyền tin. Cũng theo Lu-ca, Mary và Joseph, bởi chiếu chỉ của Caesar Augustus, phải rời nhà mình ở Nazareth để trở về quê nhà của Joseph thuộc dòng dõi của Vua David để ĐK vào sổ dân. Sau khi sinh hạ hài nhi Giê-su, hai người phải dùng một máng cỏ làm nôi chính bới không có chỗ trong quán trọ. Theo Lu-ca, một thiên sứ đã loan tin giáng sinh cho những người chăn chiên để họ tìm đến chiêm ngưỡng và thưởng thức rồi họ báo tin mừng đến khắp nơi trong vùng. Matthew thuật lại câu truyện Những nhà thông thái mang lễ vật đến cho hài nhi Giê-su trong cuộc hành trình dài được hướng dẫn bởi một vì sao mà họ tin là tín hiệu báo tin giáng sinh của Đấng Messiah hoặc Vua của dân Do Thái .
Tuổi thơ của Chúa Giê-su, theo ký thuật của Tân Ước, trải qua ở thành Nazareth xứ Galilee sau khi trở lại từ Ai Cập, nơi họ tìm đến trú ẩn ngay sau khi hài nhi Giê-su chào đời để tránh cuộc tàn sát của vua Herod. Năm 12 tuổi, cậu bé Giê-su cùng cha mẹ lên Đền thờ ở Jerusalem, bị thất lạc và được cha mẹ tìm thấy, là hàng loạt đời sống ẩn dật thời thơ ấu của Chúa Giê-su được ghi trong sách Tân Ước của Luca .

Báp têm và chịu cám dỗ

Phúc âm Máccô khởi đầu với sự kiện Chúa Giê-su chịu báp têm ( phép rửa ) bởi Giăng Báp-tít ( Gioan Tẩy giả ), được những học giả Kinh Thánh xem là điểm khởi đầu thánh chức của ngài trên đất. Theo ký thuật của Mark, Chúa Giê-su đến sông Jordan, nơi Giăng Báp-tít vẫn giảng dạy và làm báp têm cho đám đông. Sau khi Chúa Giê-su chịu lễ báp têm và bước lên khỏi nước thì, theo lời thuật của Mark, ” Ngài thấy những từng trời mở ra, và Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trên trời phán rằng : Ngươi là Con Yêu dấu của ta đẹp lòng ta mọi đường “. Lu-ca bổ trợ những cụ thể tuần tự kể rằng Giăng Báp-tít khởi sự giảng dạy vào năm thứ 15 đời Tiberius Ceasar ( khoảng chừng năm 28 CN. ), và Chúa Giê-su chịu lễ báp têm lúc ngài khoảng chừng ba mươi tuổi. Matthew bổ trợ cho những ký thuật khác chi tiết cụ thể Giăng phủ nhận làm lễ báp têm cho Chúa Giê-su, nói rằng chính Chúa Giê-su mới là người xứng danh cử hành lễ báp têm cho Giăng. Tuy nhiên, Chúa Giê-su nhấn mạnh vấn đề rằng việc ngài chịu lễ báp têm là để ” làm trọn mọi việc công bình “. Phúc âm Giăng tập chú vào lời chứng của Giăng Báp-tít nhìn thấy Chúa Thánh Linh như chim bồ câu đậu trên mình Chúa Giê-su, và phân biệt ngài là ” Chiên con của Thiên Chúa “, và là Chúa Cơ Đốc ( nghĩa là đấng chịu xức dầu để trị vì ) .
Theo ký thuật của phúc âm Mátthêu, sau khi chịu lễ báp têm, Chúa Thánh Linh đưa Chúa Giê-su vào hoang mạc, ở đó ngài kiêng ăn trong bốn mươi ngày đêm. Ma quỷ hiện ra và cám dỗ Chúa Giê-su bày tỏ thế lực siêu nhiên để chứng tỏ ngài chính là Thiên Chúa, nhưng ngài đã khước từ và thắng sự cám dỗ của ma quỷ bằng cách trưng dẫn lời Kinh Thánh từ sách Phục truyền Luật lệ ký ( Đệ nhị Luật ). Cả thảy, ma quỷ tìm đến cám dỗ ngài ba lần. Các sách Phúc âm thuật lại rằng, sau khi chịu thất bại, ma quỷ bỏ đi và những thiên sứ đến để hầu việc Chúa Giê-su .

Thi hành Thánh chức

Bài giảng trên núi, tranh của Carl Heinrich Bloch, thế kỷ 19
Theo những sách Phúc âm, Chúa Giê-su là Đấng Messiah, ” Con Thiên Chúa “, ” Chúa và Thiên Chúa “. Ngài đến để ” phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người ” và ” giảng tin mừng của Nước Trời “. Các sách Phúc âm cũng thuật lại rằng Chúa Giê-su đi khắp nhiều nơi để rao giảng tin lành và làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi quỷ, đi trên mặt nước, hóa nước thành rượu, và khiến kẻ chết sống lại như trong câu truyện của Lazarus .
Phúc âm Giăng ghi nhận ba kỳ lễ Vượt qua trong thời hạn Chúa Giê-su thi hành thánh chức. Điều này ý niệm thời hạn Chúa Giê-su rao giảng Phúc âm lê dài ba năm. Mặc dù có nhiều môn đồ, Chúa Giê-su rất thân mật với Mười hai Sứ đồ. Có những đám đông khổng lồ lên đến hàng ngàn người tìm đến nghe ngài giảng dạy. Dù không được tôn trọng ở quê nhà, [ 15 ] và ở Perea ( thuộc phía tây sông Jordan ), ngài được đặc biệt quan trọng trọng vọng trong xứ Galilee ( phía bắc Israel ) .
Một trong những bài thuyết giáo nổi tiếng nhất của Chúa Giê-su là Bài giảng trên núi, trong đó có Các Phước Lành và bài Cầu nguyện chung ( Kinh Lạy Cha ). Chúa Giê-su khuyên bảo tránh xa sự khó chịu, dâm dục, chớ ly dị, thề nguyền và báo thù ; tôn trọng và tuân giữ Luật pháp Moses. Theo ghi chép trong phúc âm Mátthêu, Chúa Giê-su nói : ” Các ngươi đừng tưởng Ta đến đặng bãi bỏ luật Mô-sê hay là lời những ngôn sứ ; ta đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn “. Trong khi diễn giải luật Moses, Chúa Giê-su truyền dạy môn đồ ” điều răn mới ” và khuyên họ ” nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia “, hãy yêu quân địch và cần tuân giữ ý thức của lao lý chứ không phải mù quáng theo văn tự .
Chúa Giê-su thường dùng dụ ngôn khi giảng dạy, như chuyện kể về Người con trai hoang đàng, và câu truyện Người gieo giống. Giáo huấn của ngài tập chú vào tình yêu vô điều kiện kèm theo và thấm nhuần niềm tin hi sinh so với Thiên Chúa và so với mọi người. Chúa Giê-su cũng dạy về ý thức ship hàng và đức khiêm nhường cũng như lòng bao dung khoan thứ, sống độc lập, đức tin, và ơn thừa kế sự sống vĩnh cửu trong ” Vương quốc Thiên Chúa “. Chúa Giê-su loan báo những sự kiện sẽ xảy ra, và tiên báo về sự tận cùng của quốc tế, là điều sẽ đến cách giật mình ; do đó, nhắc nhở những người theo ngài hãy luôn tỉnh thức và trung tín trong đức tin. Bài giảng trên núi Olive, được chép trong phúc âm Mátthêu 24, Mark 13, và Lu-ca 21 cung ứng nhiều chi tiết cụ thể về sự kiện này .
Trong giáo huấn của Chúa Giê-su có những điều xem ra là nghịch lý so với trần gian nhưng tương thích với lẽ công bình của Thiên Chúa như lời cảnh báo nhắc nhở ” kẻ đầu sẽ nên rốt, và rốt sẽ nên đầu ” cũng như lời dặn dò ” Ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại ” và lời khuyên hãy lấy tình yêu thương và lòng hiếu hòa mà đáp trả đấm đá bạo lực. Giê-su hứa ban sự bình an cho những người tin ngài, và xử lý mọi nan đề họ đối lập trong đời sống tuy nhiên Chúa Giê-su cũng cảnh báo nhắc nhở rằng sẽ có sự phân rẽ khiến những thành viên trong mái ấm gia đình chống nghịch nhau ( vì sự không tương đồng về niềm tin ) ..
Chúa Giê-su thường tranh luận với giới chỉ huy tôn giáo của dân Do Thái. Ngài sự không tương đồng với người Sadducee vì họ không tin vào sự sống lại của người chết. [ 28 ] Mối quan hệ giữa Chúa Giê-su và người Pharisee còn phức tạp hơn. Mặc dù thường quở trách người Pharisee là đạo đức giả, Chúa Giê-su vẫn mở ra cho họ thời cơ tiếp cận với giáo huấn của ngài bằng cách cùng ăn tối với họ, giảng dạy tại những hội đường, và xem một số ít người Pharisee như Nicodemus là môn đồ .

Xứ Judaea và Xứ Galilee trong thời Chúa Giê-su
Chúa Giê-su sống thân mật với những người bị xã hội khinh rẻ như giới thu thuế ( nhân viên cấp dưới thuế vụ của Đế chế La Mã, thường bị khinh miệt vì tận dụng chức quyền để nhũng nhiễu ), trong đó có Matthew ( về sau là một trong Mười hai Sứ đồ ) ; khi người Pharisee chỉ trích Giê-su vì thường tiếp xúc với kẻ tội lỗi, Chúa Giê-su đáp lại rằng chỉ có người bệnh mới cần đến thầy thuốc, không phải người khỏe mạnh hoặc tưởng mình là khỏe mạnh, ” Hãy đi và học cho biết câu này nghĩa là gì : Ta muốn sự thương xót, nhưng chẳng muốn của tế lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, tuy nhiên kêu kẻ có tội “. Theo Lu-ca và Giăng, Chúa Giê-su tìm đến để rao giảng phúc âm cho hội đồng Samaria ( những người theo một hình thức biến dị của Do Thái giáo và bị người Do Thái xem là tà giáo ) cạnh giếng Jacob tại Sychar
Bốn sách Phúc âm đều thuật lại sự kiện Chúa Giê-su được nghênh đón vinh hiển khi vào thành Jerusalem. Ấy là trong kỳ lễ Vượt qua ( 15 Nisan ; vào mùa xuân ) theo Phúc âm Giăng, họ hô vang Hosanna để chúc tụng Chúa là Đấng Messiah .

Chết trên thập tự giá

Câu chuyện Chúa Giê-su vào Đền thờ được ký thuật trong ba sách Phúc âm đồng quan, và trong Phúc âm Giăng. Khi bước vào Đền thờ, Chúa Giê-su nhìn thấy trong sân đầy những thú nuôi dùng để dâng tế lễ, và bàn của những người đổi bạc. Họ đổi tiền đang lưu hành sang những đồng nửa shekel, loại tiền đồng dùng trong nghi thức đền thờ. Theo những sách phúc âm, Chúa Giê-su đánh đuổi thú nuôi, hất đổ những bàn đổi tiền và nói ” Có lời chép rằng, Nhà ta sẽ là nhà cầu nguyện ; tuy nhiên những ngươi biến thành hang trộm cướp ” .
Theo những sách phúc âm đồng quan, Chúa Giê-su dùng bữa cùng những môn đồ, gọi là Tiệc Ly, rồi đến Vườn Gethsemane để cầu nguyện. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su bẻ bánh, dâng lời tạ ơn, đưa bánh cho những môn đồ mà nói rằng ” Nầy là thân thể ta ” ; Rồi lấy chén, tạ ơn, đưa cho những môn đồ mà nói rằng ” Hết thảy hãy uống đi ; vì này là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội “. Sau cùng, ngài căn dặn môn đồ : ” Hãy làm điều này để nhớ đến ta ” .
Khi đang ở trong vườn Gethsemane, lính La Mã tìm đến vây bắt Chúa Giê-su theo lệnh của Tòa Công luận ( Sanhedrin ) và thầy thượng tế Caiaphas ( về sau được nhắc đến trong Matthew ). Nhà chức trách quyết định hành động bắt giữ Chúa Giê-su vì xem ngài là mối rình rập đe dọa cho quyền lực tối cao của họ, vì phương pháp Chúa dùng để diễn giải Kinh Thánh và vì Chúa thường vạch trần sự giả trá của họ trong đời sống tôn giáo. Họ tìm cách bắt Chúa Giê-su vào đêm hôm hầu tránh bùng nổ bạo loạn vì ngài được dân chúng yêu dấu. Theo những sách Phúc âm, Judas Iscariot, một trong những sứ đồ, phản bội Chúa Giê-su bằng cách ôm hôn ngài để giúp binh lính hoàn toàn có thể nhận diện ngài trong bóng đêm. Một môn đồ, Peter ( Phêrô hoặc Phi-e-rơ ) dùng gươm tiến công những kẻ đến bắt giữ Chúa Giê-su, chém đứt tai một người, nhưng theo Phúc âm Luca, Chúa Giê-su chữa lành cho người ấy. Ngài quay sang quở trách Peter rằng ” Hãy nạp gươm vào vỏ ; vì hễ ai cầm gươm sẽ bị chết vì gươm “. Sau khi Chúa Giê-su bị bắt, những môn đồ tản lạc nhiều nơi để ẩn trốn. Thầy Thượng tế và những trưởng lão tra hỏi Chúa Giê-su ” Ngươi là Con Thiên Chúa sao ? ” ; ngài đáp : ” Chính những người nói ta là Con Ngài “. Chúa Giê-su bị Tòa công luận buộc tội phạm thượng. Thầy Thượng tế giao ngài cho Tổng đốc La Mã Pontius Pilate với cáo buộc phản loạn vì cho rằng Giê-su tự nhận mình là Vua dân Do Thái .

Chúa bị đóng đinh, tranh Paolo Veronese, thế kỷ 16 .
Khi Pilate hỏi Chúa Giê-su ” Có phải ngươi là Vua của dân Do Thái không ? “, ngài vấn đáp : ” Thật như lời ngươi nói “. Theo những sách phúc âm, Pilate phân biệt Chúa Giê-su không phạm tội gì chống nghịch chính quyền sở tại La Mã, thế cho nên theo tập tục, vào dịp lễ Vượt qua tổng đốc La Mã sẽ phóng thích một tù nhân, Pilate nhu yếu đám đông chọn giữa Giê-su người Nazareth và một kẻ phiến loạn tên Barabbas. Đám đông, theo sự xúi giục của giới chỉ huy Do Thái, muốn Barabbas được tha và Giê-su bị đóng đinh. Theo phúc âm Mátthêu, Pilate rửa tay mình để bày tỏ rằng ông vô tội trong quyết định hành động này. Pilate, vì cố xoa dịu cơn phẫn nộ của đám đông, cho đánh đòn Chúa Giê-su. Song đám đông liên tục yên cầu Giê-su phải bị đóng đinh. Trong cơn cuồng nộ, họ gào thét, ” Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự, ” và chứng minh và khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm của họ về cái chết của Giê-su, ” Huyết nó sẽ đổ lại trên chúng tôi và con cháu chúng tôi ! “. Cuối cùng Pilate chịu nhượng bộ. Những người lính La Mã đan một mão bằng gai và đặt trên đầu ngài, rồi quỳ xuống mà chế giễu ” Mừng Vua dân Do Thái ” .
Bốn sách Phúc âm thuật lại Pilate ra lệnh đóng đinh Chúa Giê-su với tấm bảng treo trên đầu cây thập tự viết rằng ” Người này là Giê-su, Vua dân Do Thái “. Buộc phải vác thập tự giá lên đồi Golgotha, nơi ngài bị đóng đinh. Theo Phúc âm Luca, khi bị treo trên cây thập tự, Chúa Giê-su cầu nguyện : ” Lạy Cha, xin tha cho họ ; vì họ không biết mình làm điều gì ” ( Luca 23. 34 ). Nhiều người đi qua nhiếc móc Chúa Giê-su và có kẻ cho uống giấm khi nghe Giê-su kêu khát. Theo Phúc âm Giăng, Mary và những phụ nữ khác đến bên chân thập tự giá. Khi thấy Chúa Giê-su đã chết, một người lính La Mã dùng giáo đâm vào hông để kiểm tra, tức thì máu và nước chảy ra .
Theo bốn sách phúc âm, Chúa Giê-su trút hơi thở sau cuối trước khi trời tối, Joseph người Arimathea, một người Do Thái giàu sang và là thành viên Tòa Công luận, đến gặp Pilate để xin an táng Chúa Giê-su, ông đặt xác trong một ngôi mộ. Theo ký thuật của Giăng, Nicodemus, người được nhắc đến trong những phần khác của Phúc âm Giăng, tìm đến cùng Joseph lo việc an táng. Các sách Phúc âm đồng quan đều thuật lại hiện tượng kỳ lạ động đất và khung trời tối sầm từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều .

Phục sinh và Lên Trời

Một họa phẩm thế kỷ 16 miêu tả Sự Phục sinh của Chúa Giê-su của Matthias Grünewald
Theo những sách Phúc âm, Chúa Giê-su sống lại từ kẻ chết sau ba ngày kể từ khi bị đóng đinh trên cây thập tự. phúc âm Mátthêu thuật lại một thiên sứ hiện ra bên ngôi mộ và báo tin sự sống lại của Chúa Giê-su cho những phụ nữ khi họ đến xức xác theo tục lệ. Quang cảnh hiện ra của thiên sứ đã làm những lính canh hôn mê. Trước đó, thầy thượng tế và người Pharisee xin Pilate cho lính đến gác mộ vì họ tin rằng những môn đồ sẽ tìm cách cướp xác. Vào buổi sáng Phục hồi, Chúa Giê-su hiện ra với Mary Magdalene. Khi Mary nhìn vào ngôi mộ, hai thiên sứ hỏi bà tại sao khóc ; và khi bà nhìn quanh, thấy Chúa Giê-su nhưng không nhận ra cho đến khi ngài gọi bà .
Theo ký thuật của sách Công vụ những Sứ đồ, Chúa Giê-su hiện ra cho nhiều người tại nhiều khu vực khác nhau trong suốt bốn mươi ngày. Sau khi sống lại, Chúa Giê-su đến với hai người khách bộ hành đang trên đường đến thành Emmaus. Khi những môn đồ nhóm lại, Giê-su hiện ra với họ ngay buổi chiều Phục hồi. Thư Corinthian thứ nhất, Phúc âm cho người Hebrew, và 1 số ít tư liệu cổ khác đều đề cập đến việc hiện ra cho James ( Giacôbe hoặc Gia-cơ ). Theo Phúc âm Giăng, một môn đồ tên Thomas tỏ vẻ thiếu tín nhiệm về sự Phục hồi của Chúa Giê-su, nhưng sau khi đặt tay vào vết đâm bên hông, ông thốt lên ” Lạy Chúa tôi, Thiên Chúa của tôi ! “. Sau đó, Chúa Giê-su đến xứ Galilee và hiện ra với vài môn đồ bên bờ hồ. Sau khi ủy thác cho những môn đồ sứ mạng rao giảng Phúc âm trên khắp đất, Chúa Giê-su về trời, ” Ngài phán bấy nhiêu lời rồi, thì được cất lên trong lúc họ đang nhìn xem Ngài, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa “. Chúa Giê-su hứa trở lại để ứng nghiệm lời tiên tri về sự tái lâm .

Bữa tiệc ly của chúa Gie-su với 12 môn đồ, Chúa Giê-su bẻ bánh, dâng lời tạ ơn, đưa bánh cho những môn đồ mà nói rằng ” Nầy là thân thể ta ” ; Rồi lấy chén, tạ ơn, đưa cho những môn đồ mà nói rằng ” Hết thảy hãy uống đi ; vì này là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội “. Sau cùng, ngài căn dặn môn đồ : ” Hãy làm điều này để nhớ đến ta ” .
Phỏng theo : Đạo cao đài và những tôn giáo khác. http://www.daotam.info/tusachdd.htm Và https://vi.wikipedia.org/wiki/

CHIA SẺ BÀI VIẾT

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận