Thực vật có hạt (danh pháp khoa học: Spermatophyta (từ tiếng Hy Lạp “Σπερματόφυτα”) bao gồm các loài thực vật có sinh ra hạt. Chúng là tập hợp con của thực vật có mạch (Tracheophyta) trong thực vật có phôi (Embryophyta).
Hiện nay, nói chung thực vật có hạt còn sống sót được chia ra thành 5 nhóm :
- Ngành Tuế (Cycadophyta), nhóm thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới với tán lá rộng bao gồm các lá phức và thân cây to, mập.
- Bạch quả (Ginkgophyta), loài cây gỗ duy nhất còn sinh tồn mà không thể xếp vào các nhóm còn lại,
- Ngành Thông (Pinophyta), các loại cây gỗ và cây bụi mang các quả nón.
- Ngành Dây gắm (Gnetophyta), các thực vật thân gỗ trong các chi Gnetum (dây gắm), Welwitschia, Ephedra (ma hoàng),
- Ngành Thực vật hạt kín (Angiospermae) hay thực vật có hoa, một nhóm lớn bao gồm nhiều loài thực vật quen thuộc và sinh sống trong nhiều môi trường sống khác nhau.
Bổ sung thêm cho các đơn vị phân loại liệt kê trên đây, các mẫu hóa thạch còn chứa các chứng cứ của nhiều đơn vị phân loại tuyệt chủng trong thực vật có hạt. Nhóm gọi là “dương xỉ có hạt” (Pteridospermae) là một trong các nhóm thành công sớm nhất trong thực vật trên đất liền, và các cánh rừng mà dương xỉ có hạt đã từng thống lĩnh là thịnh hành vào cuối đại Cổ Sinh. Glossopteris là chi chứa các loài cây gỗ phổ biến nhất tại siêu lục địa cổ đại ở phương nam là Gondwana trong thời kỳ thuộc kỷ Permi. Vào kỷ Trias, dương xỉ có hạt đã bị suy giảm vai trò trong tầm quan trọng sinh thái, và các đại diện của các nhóm thực vật hạt trần hiện đại đã trở thành phổ biến và thống lĩnh cho tới cuối kỷ Phấn Trắng, khi thực vật hạt kín xuất hiện và dần dà trở thành thịnh vượng. Một nhóm khác ở cuối đại Cổ Sinh cũng được coi là “có thể là thực vật vật có hạt” là nhóm thực vật thuộc bộ Gigantopteridales.
Quan hệ và danh pháp[sửa|sửa mã nguồn]
Thực vật có hạt còn sinh tồn theo truyền thống được chia ra thành thực vật hạt kín (thực vật có hoa) và thực vật hạt trần, trong đó bao gồm các phân nhóm như dây gắm, tuế, bạch quả và thực vật quả nón. Các nghiên cứu hình thái học trước đây chỉ ra quan hệ gần gũi giữa nhóm dây gắm với thực vật hạt kín,[1] cụ thể là dựa trên sự tương đồng về ống mạch. Tuy nhiên, các nghiên cứu phân tử (và một số nghiên cứu, bài báo về hình thái học[2] và hóa thạch gần đây[3]) đã thể hiện sự gần gũi (hoặc nằm trong) cây phát sinh chủng loài của nhóm dây gắm với thực vật quả nón. Ví dụ, một trong những tập hợp đề xuất về mối quan hệ này được gọi là gne-pine hypothesis (giả thuyết dây gắm-thông) và nhìn giống như biểu đồ sau:[4][5][6]
Bạn đang đọc: Thực vật có hạt – Wikipedia tiếng Việt
Tuy nhiên, những mối quan hệ giữa những nhóm này không nên được coi là đã được xử lý trọn vẹn, [ 1 ] [ 8 ] do thực vật hạt kín được coi là đã tiến hóa lên từ tổ tiên là thực vật hạt trần, và điều này làm cho thực vật hạt trần ( nói chung chứ không chỉ gồm có những nhóm còn sống sót ) trở thành một nhóm cận ngành nếu như gồm có cả những đơn vị chức năng phân loại đã tuyệt chủng. Mặc dù không phải là một nhóm đơn vị chức năng phân loại đơn ngành, nhưng thuật ngữ ” thực vật hạt trần ” vẫn còn được sử dụng khá thoáng đãng trong 1 số ít sách báo về thực vật học để phân biệt 4 đơn vị chức năng phân loại thực vật có hạt nhưng không là thực vật có hoa ra khỏi thực vật hạt kín .Phát sinh chủng loài phân tử nói chung vẫn còn xích míc với những chứng cứ dựa trên hình thái học thực vật ở chỗ thực vật hạt trần còn sống sót khi xét toàn diện và tổng thể có phải là một nhóm đơn ngành hay không. Một số tài liệu hình thái học cho rằng nhóm Dây gắm là nhóm có quan hệ chị-em với thực vật hạt kín, nhưng phát sinh chủng loài phân tử nói chung lại chỉ ra rằng nhánh thực vật hạt trần có chứa nhóm dây gắm là nhóm có quan hệ chị-em với nhánh chứa những loài thông như đề cập trên đây và biểu đồ cây phát sinh chủng loài như trên cũng vẫn chỉ là một trong số những giả thuyết phổ cập nhất về cây phát sinh chủng loài của thực vật có hạt .Kiểu gộp nhóm trong phân loại học truyền thống lịch sử đặt hàng loạt thực vật có hạt còn sống sót trong một ngành duy nhất, với những lớp cho 5 nhóm như sau :
- Ngành Spermatophyta
- Cycadopsida, nhóm tuế
- Ginkgoopsida, bạch quả
- Pinopsida, nhóm chứa các loài cây lá kim, quả nón (thông, tùng, bách), (“Coniferopsida”)
- Gnetopsida, nhóm chứa dây gắm, ma hoàng
- Magnoliopsida, các loài thực vật có hoa, hay Angiospermopsida
Phân loại học hiện đại sắp xếp các nhóm còn sinh tồn trên đây như là các ngành riêng rẽ (đôi khi nằm trong cái gọi là siêu ngành Spermatophyta):
Một phát sinh chủng loài khác của thực vật có hạt theo đề xuất kiến nghị của Novíkov và Barabaš-Krasni ( năm ngoái ) [ 9 ] với tên tác giả đơn vị chức năng phân loại lấy theo Anderson, Anderson và Cleal ( 2007 ) [ 10 ] chỉ ra mối quan hệ với những đơn vị chức năng phân loại / nhánh đã tuyệt chủng .
|
Dương xỉ hạt |
Thực vật có hạt chưa gán vào đâu:[cần dẫn nguồn]
- †Avatiaceae Anderson & Anderson 2003
- †Axelrodiopsida Anderson & Anderson
- †Alexiales Anderson & Anderson 2003
- †Hamshawviales Anderson & Anderson 2003
- †Hexapterospermales Doweld 2001
- †Hlatimbiales Anderson & Anderson 2003
- †Matatiellales Anderson & Anderson 2003
- †Petriellales Taylor et al. 1994
- †Arberiopsida Doweld 2001
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Khoa học