Khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khí hậu ở việt nam – Tài liệu text

Khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khí hậu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.22 KB, 7 trang )

VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG
TÀI NGUYÊN KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM
ThS. Tòng Thị Quỳnh Hương
Khoa Sử Địa – Đại học Tây Bắc
Tóm tắt:
Tài nguyên khí hậu Việt Nam rất phong phú, với tính chất chung là khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa, phân hóa đa dạng. Dựa trên các đặc điểm này, kết hợp với các điều kiện tự
nhiên và kinh tế – xã hội khác, nước ta đã quy hoạch được 7 vùng sinh thái nông nghiệp,
mỗi vùng có những sản phẩm chuyên môn hóa đặc trưng. Đồng thời, trải qua quá trình
khai thác lãnh thổ lâu đời, nhân dân ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất quý
báu dựa trên các đặc điểm khí hậu. Bên cạnh đó, những năm gần đây, việc khai thác các
dạng tài nguyên khí hậu cho phát triển năng lượng tái tạo phục vụ sinh hoạt và sản xuất ở
nước ta cũng được chú trọng, góp phần khai thác và sử dụng khí hậu ngày càng có hiệu
quả và bền vững.
1. Đặt vấn đề
Khí hậu là một trong những thành phần quan trọng của tự nhiên, có vai trò to lớn
trong đời sống và sự phát triển của sinh vật và con người. Tuy nhiên, trong các nghiên
cứu thì khí hậu thường được xem xét nhiều dưới góc độ điều kiện tự nhiên chứ chưa phải
tài nguyên thiên nhiên. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế và giao lưu xã
hội, khí hậu, thời tiết đang trở thành một dạng tài nguyên vật chất quan trọng của con
người. Tài nguyên khí hậu bao gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, áp suất khí
quyển, gió, các hiện tượng xảy ra trong khí quyển và nhiều yếu tố khí tượng khác trong
khoảng thời gian dài ở một vùng, miền xác định mà ở trình độ nhất định của sự phát triển
lực lượng sản xuất chúng được sử dụng hoặc có thể được sử dụng làm phương tiện sản
xuất và làm đối tượng tiêu dùng. Dưới đây sẽ phân tích khái quát một số khía cạnh của
vấn đề khai thác và sử dụng tài nguyên khí hậu theo hướng bền vững ở Việt Nam.
2. Khái quát về tài nguyên khí hậu Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam trải dài từ 8 o34′ đến 23o23′ vĩ độ Bắc, nằm hoàn toàn trong vành
đai nhiệt đới Bắc bán cầu và khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa châu
Á. Chính vị trí địa lý đã tạo nên những đặc trưng cơ bản cho khí hậu Việt Nam với nền
khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đó là nền nhiệt cao, bức xạ các tháng trong năm đều dương,

hoàn lưu khí quyển chuyển động theo mùa rõ rệt, có lượng mưa phong phú, do đó khí hậu

1

nhiệt đới ẩm gió mùa Việt Nam khác với nhiều nước ở Tây Á, Đông Phi, Tây Phi… có
cùng vĩ độ.
Tính chất nhiệt đới ẩm và gió mùa của lãnh thổ Việt Nam được thể hiện ở đặc điểm
nổi bật là nóng ẩm, có hai mùa mưa khô rõ rệt, mùa đông lạnh, ngắn. Nhiệt độ bình quân
hàng năm thường trên 20 oC, cao nhất vào khoảng tháng 6, tháng 7 cũng chỉ 35 – 36 oC,
nhiệt độ thấp nhất vào cuối tháng 12 và tháng 1 đạt dưới 15 oC, có năm vào các tháng này
nhiệt độ xuống dưới 10oC, cá biệt ở một số nơi núi cao, nhiệt độ xuống dưới 0 oC, có
sương muối, băng giá, nhưng thời gian không kéo dài, chỉ từ 3 – 4 ngày. Mùa hè cũng là
mùa mưa, có gió mùa Đông Nam và Tây Nam thịnh hành, mưa kèo theo giông bão, lốc
cuốn ở vùng ven biển. Mùa đông chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc kèm
theo mưa phùn ẩm ướt. Lượng mưa trung bình năm khoảng 2000 mùa mưa, năm cao nhất
hớn 3000 mùa mưa, năm thấp nhất vào khoảng 1600 – 1800 mùa mưa, tập trung vào các
tháng mùa hè, chiếm tới 80% lượng mưa cả năm.
3. Khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khí hậu ở Việt Nam
a) Trong nông nghiệp
– Khí hậu có tác động lớn đến năng suất cây trồng, chất lượng nông sản, quyết định
thời vụ gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp. Khí hậu nước ta có thuận lợi để phát triển
một nền nông nghiệp đa dạng, trồng được nhiều loại cây, nuôi được nhiều loại con. Khí
hậu phân hóa theo vĩ tuyến, theo mùa và theo độ cao có thể phát triển các vùng chuyên
canh hàng hóa cây trồng, vật nuôi có quy mô lớn. Đặc biệt, nước ta có những vùng khí
hậu đặc thù có thể phát triển rau, hoa, quả ôn đới quanh năm với chất lượng cao như: Sa
Pa, Đà Lạt. Với bờ biển dài 3260 km cộng với khí hậu nhiệt đới điển hình ở vùng ven
biển miền Trung và Nam Bộ, có thể phát triển nuôi trồng thủy sản (tôm, cá) có năng suất
và chất lượng cao. Hiện tại, trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 7 vùng sinh thái nông nghiệp,
mỗi vùng đều có các sản phẩm chuyên môn hóa đặc trưng, phù hợp với đặc điểm khí hậu

địa phương. Ví dụ:
Vùng Đồng bằng sông Hồng có khí hậu nhiệt đới có mùa đông lạnh nên thích hợp
cho việc trồng các loại lúa cao sản, lúa có chất lượng cao, trồng cây thực phẩm, đặc biệt là
các loại rau cao cấp, ngoài ra còn trồng các loại cây công nghiệp như đay, cói. Bên cạnh
đó vùng còn phát triển chăn nuôi lợn, bò sữa (ven thành phố lớn), gia cầm, nuôi thủy sản
nước ngọt, mặn, lợ.

2

Vùng Đông Nam Bộ có khí hậu mang tính chất cận xích đạo, thiếu nước về mùa khô.
Vùng này là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước với các cây công nghiệp
lâu năm (như cao su, cà phê, điều) và hàng năm (như đậu tương, mía). Ngoài ra vùng còn
phát triển nuôi trồng thủy sản, nuôi bò sữa (ven thành phố lớn), gia cầm.
– Trải qua lịch sử khai thác lãnh thổ lâu đời, người dân Việt Nam dựa trên các đặc
điểm thời tiết, khí hậu đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm sản xuất quý báu dễ thuộc, dễ
nhớ trong ca dao, tục ngữ.
Ví dụ:
“Lúa chiêm ngấp nghé đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Vụ chiêm ở miền Bắc tiến hành trong điều kiện khí hậu khô hạn, nhất là khi lúa trổ
vào khoảng tháng 4 rất cần nước, cho nên “sấm dậy” sớm vào khoảng tháng 4 dương lịch
lag điều kiện thuận lợi cho lúa chiêm “phất cờ” mà lên. Lúa tốt mọc lên mạnh mẽ vì
không những được cung cấp một lượng nước đáng kể mà còn được thêm một lượng phân
bón thiên nhiên (nitơ) hình thành so dự phóng điện trong cơn dông. Cho nên, trải qua kinh
nghiệm nhiều năm, thấy rằng sau cơn mưa dông cây non thường mọc lên nhanh và tốt
tươi nên người dân đã tổng kết thành câu ca dao trên.
Như vậy, có thể thấy, trải qua quá trình khai thác lãnh thổ lâu dài, đấu tranh với thiên
nhiên để bảo vệ sản xuất, nhân dân ta có rất nhiều kinh nghiệm về các quy luật diễn biến
của thời tiết, khí hậu. Những kinh nghiệm ấy được đưa vào ca dao, tục ngữ và được

truyền đi rộng rãi trong dân gian từ đời này sang đời khác.
b) Sử dụng các dạng tài nguyên khí hậu cho phát triển năng lượng tái tạo phục vụ
sinh hoạt và sản xuất ở Việt Nam
*) Năng lượng gió
– Tiềm năng khí hậu của năng lượng gió ở Việt Nam (ở độ cao 10m)
Nước ta có tiềm năng năng lượng gió khá phong phú với sự phân bố như sau: Tiềm
năng năng lượng gió tăng lên từ đất liền ra ngoài khơi; và có khuynh hướng giảm khi
càng gần xích đạo. Tiềm năng lớn nhất tại các đảo phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng
năm W > 4000kwh/m2. Tại các đảo phía Nam, giảm dần chỉ từ 400 – 900 kwh/m 2. Những
khu vực bị ảnh hưởng bởi sự che chắn của khối núi đồ sộ Trường Sơn như phía Tây
Quảng Nam – Quảng Ngãi, chỉ vài trăm kwh/m 2. Ở Trung du và núi thấp, W nhỏ, có giá
trị dưới 200 kwh/m2.

3

Phân bố năng lượng gió trung bình năm theo các loại gió như sau: Tại các đảo phía
Đông, ưu thế năng lượng gió thuộc về gió Đông Bắc. Trên đất liền ở Bắc Bộ, tiềm năng
trong mùa gió mùa Đông Bắc nói chung vẫn có ưu thế hơn mùa gió mùa Đông Nam. Cực
đại thứ hai ở đồng bằng Bắc Bộ thường vào giữa mùa gió mùa Đông Nam với giá trị khá
cao, có khi vượt cực đại mùa đông, nhưng thời gian xuất hiện năng lượng lớn này rất
ngắn. Ở Trung Bộ, những vị trí nằm sát biển, tiềm năng trong gió mùa Đông Bắc vẫn
chiếm ưu thế, vào đất liền, ưu thế chuyển dần sang gió mùa Tây Nam. Ở Tây Nguyên,
tiềm năng trong gió mùa Đông Bắc chiếm ưu thế, tuy nhiên ở các vị trí thấp, do địa hình
nên trong năm gió Tây Nam mạnh hơn gió Đông Bắc. Ở Nam Bộ, vai trò của cả 2 mùa
gió đều rõ rệt.
– Khai thác và sử dụng năng lượng gió ở Việt Nam
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã có chương trình năng lượng mới của Nhà nước, chủ
yếu tập trung nghiên cứu khí hậu năng lượng gió. Những năm 90, Trung tâm nghiên cứu
thiết bị nhiệt và năng lượng tái tạo thuộc trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh đã

nghiên cứu việc sử dụng năng lượng gió để phát điện, bơm nước, ca nô chạy bằng sức
gió. Tuy nhiên, các thiết bị này công suất thấp, từ vài trăm đến dưới 1000W. Song song
việc việc điều tra cơ bản, một số nhà kỹ thuật đã chế tạo hoặc nhập khẩu các thiết bị phát
điện chạy bằng sức gió với công suất cỡ vài trăm đến 2000W và đã lắp đặt ở một vài nơi.
Cũng ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, một số nhà đầu tư và chuyên gia về năng
lượng gió của Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Italia, Mỹ… đã tiếp xúc và tìm hiểu về nguồn năng
lượng gió ở Việt Nam, cũng đã đề xuất hợp tác hoặc tài trợ, xây dựng các trạm phát điện
sức gió ở đảo Bạch Long Vĩ do Tây Ban Nha tài trợ. Đây là trạm phát điện công suất lớn
hoạt động đầu tiên ở Việt Nam.
*) Năng lượng Mặt Trời
– Tiềm năng năng lượng Mặt Trời ở Việt Nam
Tiềm năng năng lượng Mặt Trời được phản ánh qua số giờ nắng. Trung bình năm ở
nước ta có khoảng 1400 – 3000 giờ nắng. Sự phân bố của tiềm năng năng lượng Mặt Trời
theo thứ tự giảm dần như sau: Lớn nhất là vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ
và một phần lãnh thổ phía Đông của Nam Bộ. Tiếp đến là đại bộ phận khu vực Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, phần lớn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vùng
núi thấp và vừa ở sườn phía Tây Hoàng Liên Sơn. Ít nhất là sườn phía Đông Hoàng Liên
Sơn và phần lớn khu vực Đông Bắc.

4

– Khai thác và sử dụng năng lượng Mặt Trời ở nước ta
Thiết bị đun nước nóng Mặt Trời (ĐNNMT) bắt đầu được nghiên cứu ở Việt Nam
trong khuôn khổ chương trình Nhà nước về năng lượng mới (1981 – 1985 và 1986 – 1990)
do một số Viện nghiên cứu và Trường Đại học thực hiện. Tuy nhiên, kết quả của các đề
tài này chỉ dừng lại ở mô hình thử nghiệm, chưa đưa vào sản xuất. Trong giai đoạn 19911995, trường Đại học Bách khoa Hà Nội đưa ra một mẫu thiết bị với giá thành rẻ. Sau đó
cũng đã nghiên cứu, cải tiến và hoàn thiện một mẫu ĐNNMT với bộ thu nhiệt có kết cấu
tấm ống. Đến nay, hàng trăm thiết bị ĐNNMT của trường Đại học Bách khoa Hà Nội
nghiên cứu chế tạo được lắp đặt tại Hà Nội và một số địa phương khác được người tiêu

dùng đánh giá cao. Tuy nhiên, quy trình sản xuất vẫn mang tính thủ công và quy mô sản
xuất còn rất hạn chế. Từ năm 1997 đến nay, một số doanh nghiệp bắt đầu nhập thiết bị
ĐNNMT của nước ngoài vào Việt Nam (như Úc, Trung Quốc, Israel và hiện tại, thị
trường thiết bị ĐNNMT chủ yếu nhập thiết bị của Trung Quốc hoặc công nghệ của Trung
Quốc).
*) Tài nguyên mây và làm mưa nhân tạo
Từ năm 1999 – 2002, một số nhà khoa học của Viện Khí tượng Thủy văn đã soạn
thảo dự án làm mưa nhân tạo ở Việt Nam và thực hiện đề tài “Khả năng làm mưa nhân
tạo cho khu vực Tây Nguyên” đã nghiên cứu về tài nguyên mây ở Việt Nam nói chung và
khu vực Tây Nguyên nói riêng. Ngay cả thời kỳ khô hạn kéo dài, đặc biệt ảnh hưởng của
El Nino 1997 – 1998 trong các tháng đang bị hạn nghiêm trọng, mỗi ngày vẫn tồn tại 3 – 5
ngày có mây có đủ đủ điều kiện làm mưa nhân tạo. Thậm chí dự đoán được khô hạn
những tháng trước đó, nhiều ngày có mây đủ điều kiện làm mưa nhân tạo để tích nước
vào các hồ, đập chứa. Điều đó chắc chắn sẽ hạn chế được thiệt hại do khô hạn gây ra. Tuy
nhiên, các nghiên cứu này mới chủ yếu ở dạng lý thuyết và chưa ứng dụng vào thực tế.
*) Tài nguyên mưa với việc phát triển thủy điện, thủy điện nhỏ và cực nhỏ.
Do khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa phong phú, lưu lượng
nước khá cao, hệ thống sông suối dày đặc và nhiều sông lớn, vì vậy tiềm năng thủy điện
rất lớn. Song song với việc xây dựng các nhà máy thủy điện công suất lớn như thủy điện
Hòa Bình, thủy điện Sơn La… còn phát triển thủy điện nhỏ và cực nhỏ. Ở những vùng
sâu, vùng xa thuộc các tỉnh trung du, miền núi, các tỉnh biên giới phía Bắc, vùng Tây
Nguyên và khu vực địa lý hẹp miền Đông Nam Bộ với sông, suối có nguồn nước tương
đối ổn định rất thích hợp đối với việc lắp đặt thủy điện nhỏ và cực nhỏ.

5

Trong những năm qua, thủy điện nhỏ và cực nhỏ đã được chú ý và phát triển khá rầm
rộ. Hiện có khoảng 150.000 các máy thủy điện gia đình đã được lắp đặt và đã biến nước
ta thành một trong những nước có tỷ lệ hộ gia đình ứng dụng thủy điện gia đình nhiều

nhất thế giới.
Thực tế ứng dụng và lắp đặt các máy thủy điện nhỏ và cực nhỏ là một trong những
giải pháp kỹ thuật tuy đơn giản và rẻ tiền, nhưng đã đem lại hiệu quả cao không những về
kinh tế mà còn cả về xã hội. Hiện tại, chi phí cho máy thủy điện gia đình khoảng từ
400.000 đến 1 triệu đồng. Các Trung tâm, Viện nghiên cứu không ngừng cải tiến thiết bị
để nâng cao công suất, giảm giá thành, tăng cường bảo đảm chất lượng và tuổi thọ của
thiết bị, sẽ là điều kiện tốt hỗ trợ cho phát triển máy thủy điện nhỏ và cực nhỏ.
*) Tiềm năng biển ở nước ta (theo tính toán của các nhà khoa học Viện cơ học)
Gồm có năng lượng thủy triều, năng lượng sóng và năng lượng dòng chảy. Tuy nhiên
các dạng tài nguyên này vẫn đang ở dạng tiềm năng chứ chưa được khai thác và đưa vào
sử dụng.
4. Kết luận
Với tài nguyên khí hậu đa dạng và phong phú, kết hợp với các điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên và điều kiện kinh tế – xã hội khác, Việt Nam ngày càng khai thác có
hiệu quả hơn nguồn tài nguyên này phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước. Hiện tại,
trong nông nghiệp, toàn lãnh thổ nước ta được chia thành 7 vùng nông nghiệp sinh thái
dựa trên các đặc điểm khí hậu khác nhau, mỗi vùng có những sản phẩm chuyên môn hóa
với chất lượng và đặc trưng riêng; đồng thời, qua quá trình đấu tranh với thiên nhiên bảo
vệ sản xuất, nhân dân ta đã rút ra nhiều kinh nghiệm về quy luật diễn biến của khí hậu
phục vụ sản xuất nông nghiệp, những kinh nghiệm đó được đưa vào ca dao, tục ngữ và
được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Bên cạnh đó, ngày nay, nhiều dạng tài nguyên
của khí hậu cũng được khai thác để phát triển năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất và sinh
hoạt, song một số loại mới chỉ được sản xuất trên quy mô nhỏ (năng lượng gió, năng
lượng Mặt Trời), các loại khác hầu như đang ở dạng tiềm năng, chưa được khai thác đưa
vào sử dụng (năng lượng mây làm mưa nhân tạo, năng lượng thủy triều, sóng biển…).
Song nhìn chung, các hướng khai thác và sử dụng tài nguyên khí hậu ở nước ta hiện nay
tương đối hợp lý và bền vững, đem lại hiệu quả khá cao về kinh tế, xã hội và môi trường.

6

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Huy Bá (chủ biên), 2006, Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững, NXB
Khoa học kĩ thuật, Hà Nội.
[2] Lê Văn Khoa (chủ biên), 2011, Giáo trình con người và môi trường, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
[3] Đặng Duy Lợi (chủ biên), 2006, Địa lý tự nhiên Việt Nam 1, NXB ĐHSP, Hà Nội.
[4] Đỗ Thúy Mùi, 2013, Dân số, tài nguyên, môi trường, NXB ĐHSP, Hà Nội.
[5] Đặng Văn Phan, 2008, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[6] Lê Đình Quang, Những dạng tài nguyên khí hậu với việc khai thác, sử dụng năng
lượng tái tạo ở Việt Nam, Hội thảo khoa học lần 9 – Viện Khí tượng Thuỷ văn, Hà Nội.
[7] Lê Thông (tổng chủ biên), 2008, Địa lý 12 nâng cao, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[8] Lê Thông (chủ biên), 2011, Địa lý kinh tế – xã hội Việt Nam, NXB ĐHSP, Hà
Nội.
[9] Hoàng Hữu Triết, 1973, Bước đầu tìm hiểu về khí tượng dân gian Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
[10] Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), 2012, Địa lý kinh tế – xã hội đại cương, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
ISSUES ABOUT THE EXPLOITATION AND SUSTAINABLE USE
CLIMATE RESOURCE IN VIETNAM
Abstract:
Vietnam climate resources are abundant, the general nature of climate is tropical
monsoon moisture, fertilizer diverse. Based on these features, combined with the natural
conditions and economic-social, our country is planning seven agro-ecological zones,
each zone has specialized products featured. At the same time, over the course of a long
mining territory, our people have accumulated precious experience in production based on
climate characteristics. Besides, in recent years, the exploitation of resources forms
climate develop renewable energy for daily life and production in our country are also
focused, contributing to the exploitation and use of climate more effective and

sustainable.
Keywords: Bền vững, tài nguyên, khí hậu, sustainable, natural resources, climate.

7

hoàn lưu khí quyển hoạt động theo mùa rõ ràng, có lượng mưa phong phú và đa dạng, do đó khí hậunhiệt đới ẩm gió mùa Nước Ta khác với nhiều nước ở Tây Á, Đông Phi, Tây Phi … cócùng vĩ độ. Tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm và gió mùa của chủ quyền lãnh thổ Nước Ta được bộc lộ ở đặc điểmnổi bật là nóng ẩm, có hai mùa mưa khô rõ ràng, mùa đông lạnh, ngắn. Nhiệt độ bình quânhàng năm thường trên 20 oC, cao nhất vào khoảng chừng tháng 6, tháng 7 cũng chỉ 35 – 36 oC, nhiệt độ thấp nhất vào cuối tháng 12 và tháng 1 đạt dưới 15 oC, có năm vào những tháng nàynhiệt độ xuống dưới 10 oC, riêng biệt ở 1 số ít nơi núi cao, nhiệt độ xuống dưới 0 oC, cósương muối, băng giá, nhưng thời hạn không lê dài, chỉ từ 3 – 4 ngày. Mùa hè cũng làmùa mưa, có gió mùa Đông Nam và Tây Nam phổ cập, mưa kèo theo giông bão, lốccuốn ở vùng ven biển. Mùa đông chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc kèmtheo mưa phùn khí ẩm. Lượng mưa trung bình năm khoảng chừng 2000 mùa mưa, năm cao nhấthớn 3000 mùa mưa, năm thấp nhất vào tầm 1600 – 1800 mùa mưa, tập trung chuyên sâu vào cáctháng mùa hè, chiếm tới 80 % lượng mưa cả năm. 3. Khai thác và sử dụng vững chắc tài nguyên khí hậu ở Việt Nama ) Trong nông nghiệp – Khí hậu có ảnh hưởng tác động lớn đến hiệu suất cây xanh, chất lượng nông sản, quyết địnhthời vụ gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp. Khí hậu nước ta có thuận tiện để phát triểnmột nền nông nghiệp phong phú, trồng được nhiều loại cây, nuôi được nhiều loại con. Khíhậu phân hóa theo vĩ tuyến, theo mùa và theo độ cao hoàn toàn có thể tăng trưởng những vùng chuyêncanh sản phẩm & hàng hóa cây cối, vật nuôi có quy mô lớn. Đặc biệt, nước ta có những vùng khíhậu đặc trưng hoàn toàn có thể tăng trưởng rau, hoa, quả ôn đới quanh năm với chất lượng cao như : SaPa, Đà Lạt. Với bờ biển dài 3260 km cộng với khí hậu nhiệt đới gió mùa nổi bật ở vùng venbiển miền Trung và Nam Bộ, hoàn toàn có thể tăng trưởng nuôi trồng thủy hải sản ( tôm, cá ) có năng suấtvà chất lượng cao. Hiện tại, trên toàn chủ quyền lãnh thổ Nước Ta có 7 vùng sinh thái xanh nông nghiệp, mỗi vùng đều có những loại sản phẩm trình độ hóa đặc trưng, tương thích với đặc thù khí hậuđịa phương. Ví dụ : Vùng Đồng bằng sông Hồng có khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh nên thích hợpcho việc trồng những loại lúa cao sản, lúa có chất lượng cao, trồng cây thực phẩm, đặc biệt quan trọng làcác loại rau hạng sang, ngoài những còn trồng những loại cây công nghiệp như đay, cói. Bên cạnhđó vùng còn tăng trưởng chăn nuôi lợn, bò sữa ( ven thành phố lớn ), gia cầm, nuôi thủy sảnnước ngọt, mặn, lợ. Vùng Đông Nam Bộ có khí hậu mang đặc thù cận xích đạo, thiếu nước về mùa khô. Vùng này là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước với những cây công nghiệplâu năm ( như cao su đặc, cafe, điều ) và hàng năm ( như đậu tương, mía ). Ngoài ra vùng cònphát triển nuôi trồng thủy hải sản, nuôi bò sữa ( ven thành phố lớn ), gia cầm. – Trải qua lịch sử vẻ vang khai thác chủ quyền lãnh thổ truyền kiếp, dân cư Nước Ta dựa trên những đặcđiểm thời tiết, khí hậu đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm tay nghề sản xuất quý báu dễ thuộc, dễnhớ trong ca dao, tục ngữ. Ví dụ : “ Lúa chiêm ngấp nghé đầu bờHễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên ” Vụ chiêm ở miền Bắc triển khai trong điều kiện kèm theo khí hậu khô hạn, nhất là khi lúa trổvào khoảng chừng tháng 4 rất cần nước, vì vậy “ sấm dậy ” sớm vào khoảng chừng tháng 4 dương lịchlag điều kiện kèm theo thuận tiện cho lúa chiêm “ phất cờ ” mà lên. Lúa tốt mọc lên can đảm và mạnh mẽ vìkhông những được phân phối một lượng nước đáng kể mà còn được thêm một lượng phânbón vạn vật thiên nhiên ( nitơ ) hình thành so dự phóng điện trong cơn dông. Cho nên, trải qua kinhnghiệm nhiều năm, thấy rằng sau cơn mưa dông cây non thường mọc lên nhanh và tốttươi nên người dân đã tổng kết thành câu ca dao trên. Như vậy, hoàn toàn có thể thấy, trải qua quy trình khai thác chủ quyền lãnh thổ vĩnh viễn, đấu tranh với thiênnhiên để bảo vệ sản xuất, nhân dân ta có rất nhiều kinh nghiệm tay nghề về những quy luật diễn biếncủa thời tiết, khí hậu. Những kinh nghiệm tay nghề ấy được đưa vào ca dao, tục ngữ và đượctruyền đi thoáng rộng trong dân gian từ đời này sang đời khác. b ) Sử dụng những dạng tài nguyên khí hậu cho tăng trưởng nguồn năng lượng tái tạo phục vụsinh hoạt và sản xuất ở Nước Ta * ) Năng lượng gió – Tiềm năng khí hậu của nguồn năng lượng gió ở Nước Ta ( ở độ cao 10 m ) Nước ta có tiềm năng nguồn năng lượng gió khá phong phú và đa dạng với sự phân bổ như sau : Tiềmnăng nguồn năng lượng gió tăng lên từ đất liền ra ngoài khơi ; và có khuynh hướng giảm khicàng gần xích đạo. Tiềm năng lớn nhất tại những hòn đảo phía Đông chủ quyền lãnh thổ, tổng năng lượngnăm W > 4000 kwh / mét vuông. Tại những hòn đảo phía Nam, giảm dần chỉ từ 400 – 900 kwh / m 2. Nhữngkhu vực bị tác động ảnh hưởng bởi sự che chắn của khối núi đồ sộ Trường Sơn như phía TâyQuảng Nam – Tỉnh Quảng Ngãi, chỉ vài trăm kwh / m 2. Ở Trung du và núi thấp, W nhỏ, có giátrị dưới 200 kwh / mét vuông. Phân bố nguồn năng lượng gió trung bình năm theo những loại gió như sau : Tại những hòn đảo phíaĐông, lợi thế nguồn năng lượng gió thuộc về gió Đông Bắc. Trên đất liền ở Bắc Bộ, tiềm năngtrong mùa gió mùa Đông Bắc nói chung vẫn có lợi thế hơn mùa gió mùa Đông Nam. Cựcđại thứ hai ở đồng bằng Bắc Bộ thường vào giữa mùa gió mùa Đông Nam với giá trị khácao, có khi vượt cực lớn mùa đông, nhưng thời hạn Open nguồn năng lượng lớn này rấtngắn. Ở Trung Bộ, những vị trí nằm sát biển, tiềm năng trong gió mùa Đông Bắc vẫnchiếm lợi thế, vào đất liền, lợi thế chuyển dần sang gió mùa Tây Nam. Ở Tây Nguyên, tiềm năng trong gió mùa Đông Bắc chiếm lợi thế, tuy nhiên ở những vị trí thấp, do địa hìnhnên trong năm gió Tây Nam mạnh hơn gió Đông Bắc. Ở Nam Bộ, vai trò của cả 2 mùagió đều rõ ràng. – Khai thác và sử dụng nguồn năng lượng gió ở Việt NamĐầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã có chương trình nguồn năng lượng mới của Nhà nước, chủyếu tập trung chuyên sâu điều tra và nghiên cứu khí hậu nguồn năng lượng gió. Những năm 90, Trung tâm nghiên cứuthiết bị nhiệt và nguồn năng lượng tái tạo thuộc trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh đãnghiên cứu việc sử dụng nguồn năng lượng gió để phát điện, bơm nước, ca nô chạy bằng sứcgió. Tuy nhiên, những thiết bị này hiệu suất thấp, từ vài trăm đến dưới 1000W. Song songviệc việc tìm hiểu cơ bản, một số ít nhà kỹ thuật đã sản xuất hoặc nhập khẩu những thiết bị phátđiện chạy bằng sức gió với hiệu suất cỡ vài trăm đến 2000W và đã lắp ráp ở một vài nơi. Cũng ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, một số ít nhà đầu tư và chuyên viên về nănglượng gió của Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Italia, Mỹ … đã tiếp xúc và khám phá về nguồn nănglượng gió ở Nước Ta, cũng đã đề xuất kiến nghị hợp tác hoặc hỗ trợ vốn, thiết kế xây dựng những trạm phát điệnsức gió ở hòn đảo Bạch Long Vĩ do Tây Ban Nha hỗ trợ vốn. Đây là trạm phát điện hiệu suất lớnhoạt động tiên phong ở Nước Ta. * ) Năng lượng Mặt Trời – Tiềm năng nguồn năng lượng Mặt Trời ở Việt NamTiềm năng nguồn năng lượng Mặt Trời được phản ánh qua số giờ nắng. Trung bình năm ởnước ta có khoảng chừng 1400 – 3000 giờ nắng. Sự phân bổ của tiềm năng nguồn năng lượng Mặt Trờitheo thứ tự giảm dần như sau : Lớn nhất là vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộvà một phần chủ quyền lãnh thổ phía Đông của Nam Bộ. Tiếp đến là đại bộ phận khu vực NamTrung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, phần đông đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vùngnúi thấp và vừa ở sườn phía Tây Hoàng Liên Sơn. Ít nhất là sườn phía Đông Hoàng LiênSơn và phần nhiều khu vực Đông Bắc. – Khai thác và sử dụng nguồn năng lượng Mặt Trời ở nước taThiết bị đun nước nóng Mặt Trời ( ĐNNMT ) mở màn được điều tra và nghiên cứu ở Việt Namtrong khuôn khổ chương trình Nhà nước về nguồn năng lượng mới ( 1981 – 1985 và 1986 – 1990 ) do một số ít Viện nghiên cứu và điều tra và Trường Đại học thực thi. Tuy nhiên, hiệu quả của những đềtài này chỉ dừng lại ở quy mô thử nghiệm, chưa đưa vào sản xuất. Trong tiến trình 19911995, trường Đại học Bách khoa TP. Hà Nội đưa ra một mẫu thiết bị với giá tiền rẻ. Sau đócũng đã nghiên cứu và điều tra, nâng cấp cải tiến và triển khai xong một mẫu ĐNNMT với bộ thu nhiệt có kết cấutấm ống. Đến nay, hàng trăm thiết bị ĐNNMT của trường Đại học Bách khoa Hà Nộinghiên cứu sản xuất được lắp ráp tại TP. Hà Nội và một số ít địa phương khác được người tiêudùng nhìn nhận cao. Tuy nhiên, quy trình tiến độ sản xuất vẫn mang tính bằng tay thủ công và quy mô sảnxuất còn rất hạn chế. Từ năm 1997 đến nay, 1 số ít doanh nghiệp mở màn nhập thiết bịĐNNMT của quốc tế vào Nước Ta ( như Úc, Trung Quốc, Israel và hiện tại, thịtrường thiết bị ĐNNMT đa phần nhập thiết bị của Trung Quốc hoặc công nghệ tiên tiến của TrungQuốc ). * ) Tài nguyên mây và làm mưa nhân tạoTừ năm 1999 – 2002, 1 số ít nhà khoa học của Viện Khí tượng Thủy văn đã soạnthảo dự án Bất Động Sản làm mưa tự tạo ở Nước Ta và triển khai đề tài “ Khả năng làm mưa nhântạo cho khu vực Tây Nguyên ” đã điều tra và nghiên cứu về tài nguyên mây ở Nước Ta nói chung vàkhu vực Tây Nguyên nói riêng. Ngay cả thời kỳ khô hạn lê dài, đặc biệt quan trọng tác động ảnh hưởng củaEl Nino 1997 – 1998 trong những tháng đang bị hạn nghiêm trọng, mỗi ngày vẫn sống sót 3 – 5 ngày có mây có đủ đủ điều kiện kèm theo làm mưa tự tạo. Thậm chí Dự kiến được khô hạnnhững tháng trước đó, nhiều ngày có mây đủ điều kiện kèm theo làm mưa tự tạo để tích nướcvào những hồ, đập chứa. Điều đó chắc như đinh sẽ hạn chế được thiệt hại do khô hạn gây ra. Tuynhiên, những nghiên cứu và điều tra này mới hầu hết ở dạng kim chỉ nan và chưa ứng dụng vào thực tiễn. * ) Tài nguyên mưa với việc tăng trưởng thủy điện, thủy điện nhỏ và cực nhỏ. Do khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa gió mùa, lượng mưa nhiều mẫu mã, lưu lượngnước khá cao, mạng lưới hệ thống sông suối sum sê và nhiều sông lớn, vì thế tiềm năng thủy điệnrất lớn. Song song với việc kiến thiết xây dựng những xí nghiệp sản xuất thủy điện hiệu suất lớn như thủy điệnHòa Bình, thủy điện Sơn La … còn tăng trưởng thủy điện nhỏ và cực nhỏ. Ở những vùngsâu, vùng xa thuộc những tỉnh trung du, miền núi, những tỉnh biên giới phía Bắc, vùng TâyNguyên và khu vực địa lý hẹp miền Đông Nam Bộ với sông, suối có nguồn nước tươngđối không thay đổi rất thích hợp so với việc lắp ráp thủy điện nhỏ và cực nhỏ. Trong những năm qua, thủy điện nhỏ và cực nhỏ đã được chú ý quan tâm và tăng trưởng khá rầmrộ. Hiện có khoảng chừng 150.000 những máy thủy điện mái ấm gia đình đã được lắp ráp và đã biến nướcta thành một trong những nước có tỷ suất hộ mái ấm gia đình ứng dụng thủy điện mái ấm gia đình nhiềunhất quốc tế. Thực tế ứng dụng và lắp ráp những máy thủy điện nhỏ và cực nhỏ là một trong nhữnggiải pháp kỹ thuật tuy đơn thuần và rẻ tiền, nhưng đã đem lại hiệu suất cao cao không những vềkinh tế mà còn cả về xã hội. Hiện tại, ngân sách cho máy thủy điện mái ấm gia đình khoảng chừng từ400. 000 đến 1 triệu đồng. Các Trung tâm, Viện điều tra và nghiên cứu không ngừng nâng cấp cải tiến thiết bịđể nâng cao hiệu suất, giảm giá tiền, tăng cường bảo vệ chất lượng và tuổi thọ củathiết bị, sẽ là điều kiện kèm theo tốt tương hỗ cho tăng trưởng máy thủy điện nhỏ và cực nhỏ. * ) Tiềm năng biển ở nước ta ( theo thống kê giám sát của những nhà khoa học Viện cơ học ) Gồm có nguồn năng lượng thủy triều, nguồn năng lượng sóng và nguồn năng lượng dòng chảy. Tuy nhiêncác dạng tài nguyên này vẫn đang ở dạng tiềm năng chứ chưa được khai thác và đưa vàosử dụng. 4. Kết luậnVới tài nguyên khí hậu phong phú và đa dạng và phong phú, tích hợp với những điều kiện kèm theo tự nhiên, tàinguyên vạn vật thiên nhiên và điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội khác, Nước Ta ngày càng khai thác cóhiệu quả hơn nguồn tài nguyên này ship hàng cho tăng trưởng kinh tế tài chính quốc gia. Hiện tại, trong nông nghiệp, toàn chủ quyền lãnh thổ nước ta được chia thành 7 vùng nông nghiệp sinh tháidựa trên những đặc thù khí hậu khác nhau, mỗi vùng có những loại sản phẩm trình độ hóavới chất lượng và đặc trưng riêng ; đồng thời, qua quy trình đấu tranh với vạn vật thiên nhiên bảovệ sản xuất, nhân dân ta đã rút ra nhiều kinh nghiệm tay nghề về quy luật diễn biến của khí hậuphục vụ sản xuất nông nghiệp, những kinh nghiệm tay nghề đó được đưa vào ca dao, tục ngữ vàđược lưu truyền thoáng rộng trong dân gian. Bên cạnh đó, ngày này, nhiều dạng tài nguyêncủa khí hậu cũng được khai thác để tăng trưởng nguồn năng lượng tái tạo ship hàng sản xuất và sinhhoạt, tuy nhiên 1 số ít loại mới chỉ được sản xuất trên quy mô nhỏ ( nguồn năng lượng gió, nănglượng Mặt Trời ), những loại khác phần đông đang ở dạng tiềm năng, chưa được khai thác đưavào sử dụng ( nguồn năng lượng mây làm mưa tự tạo, nguồn năng lượng thủy triều, sóng biển … ). Song nhìn chung, những hướng khai thác và sử dụng tài nguyên khí hậu ở nước ta hiện naytương đối hợp lý và bền vững và kiên cố, đem lại hiệu suất cao khá cao về kinh tế tài chính, xã hội và môi trường tự nhiên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [ 1 ] Lê Huy Bá ( chủ biên ), 2006, Tài nguyên thiên nhiên và môi trường và tăng trưởng vững chắc, NXBKhoa học kĩ thuật, Thành Phố Hà Nội. [ 2 ] Lê Văn Khoa ( chủ biên ), 2011, Giáo trình con người và môi trường tự nhiên, NXB Giáodục, TP. Hà Nội. [ 3 ] Đặng Duy Lợi ( chủ biên ), 2006, Địa lý tự nhiên Nước Ta 1, NXB ĐHSP, TP. Hà Nội. [ 4 ] Đỗ Thúy Mùi, 2013, Dân số, tài nguyên, môi trường tự nhiên, NXB ĐHSP, TP. Hà Nội. [ 5 ] Đặng Văn Phan, 2008, Tổ chức chủ quyền lãnh thổ nông nghiệp Nước Ta, NXB Giáo dục đào tạo, Thành Phố Hà Nội. [ 6 ] Lê Đình Quang, Những dạng tài nguyên khí hậu với việc khai thác, sử dụng nănglượng tái tạo ở Nước Ta, Hội thảo khoa học lần 9 – Viện Khí tượng Thuỷ văn, TP. Hà Nội. [ 7 ] Lê Thông ( tổng chủ biên ), 2008, Địa lý 12 nâng cao, NXB Giáo dục đào tạo, TP.HN. [ 8 ] Lê Thông ( chủ biên ), 2011, Địa lý kinh tế tài chính – xã hội Nước Ta, NXB ĐHSP, HàNội. [ 9 ] Hoàng Hữu Triết, 1973, Bước đầu khám phá về khí tượng dân gian Nước Ta, NXBGiáo dục, TP. Hà Nội. [ 10 ] Nguyễn Minh Tuệ ( chủ biên ), 2012, Địa lý kinh tế tài chính – xã hội đại cương, NXB Đạihọc Sư phạm, TP. Hà Nội. ISSUES ABOUT THE EXPLOITATION AND SUSTAINABLE USECLIMATE RESOURCE IN VIETNAMAbstract : Vietnam climate resources are abundant, the general nature of climate is tropicalmonsoon moisture, fertilizer diverse. Based on these features, combined with the naturalconditions and economic-social, our country is planning seven agro-ecological zones, each zone has specialized products featured. At the same time, over the course of a longmining territory, our people have accumulated precious experience in production based onclimate characteristics. Besides, in recent years, the exploitation of resources formsclimate develop renewable energy for daily life and production in our country are alsofocused, contributing to the exploitation and use of climate more effective andsustainable. Keywords : Bền vững, tài nguyên, khí hậu, sustainable, natural resources, climate .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận