Giáo trình thiên văn học.pdf (giáo trình thiên văn học) | Tải miễn phí

Giáo trình thiên văn học

pdf

Số trang Giáo trình thiên văn học
156
Cỡ tệp Giáo trình thiên văn học
4 MB
Lượt tải Giáo trình thiên văn học
3
Lượt đọc Giáo trình thiên văn học
103
Đánh giá Giáo trình thiên văn học

4.9 (
21 lượt)

1564 MB

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 156 trang, để tải xuống xem khá đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

Chủ đề tương quan

Tài liệu tương tự

Nội dung

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ – 2003

“The most incomprehensible thing about the Universe is that it
is comprehensible”
Albert Einstein
Dịch :
“Điều bí ẩn nhất của tự nhiên là ở chỗ chúng ta có thể nhận
thức được nó”
Anbe – Anhxtanh
“Ai không biết tí gì về thiên văn học hiện đại, người đó không
thể được coi là đã học hành đầy đủ”
“Mười vạn câu hỏi vì sao”
NXB Khoa học & kỹ thuật

LỜI MỞ ĐẦU

Thế giới tự nhiên, xét về mặt vật lý, là một bức tranh gồm ba phần: Vi mô, vĩ mô và
siêu vĩ mô. Siêu vĩ mô có nghĩa là vô cùng to lớn theo không gian và thời gian. Thiên văn
là một môn học về thế giới siêu vĩ mô đó. Cùng với các phần học khác của vật lý, thiên văn
giúp chúng ta có được một bức tranh toàn diện về thế giới tự nhiên. Thiên văn là một môn
học rất cổ điển, nhưng đồng thời cũng rất hiện đại. Lượng kiến thức của nó rất đồ sộ.
Thiên văn từ lâu đã bước ra khỏi khuôn khổ của vật lý. Nó là một trong những môn cơ sở
của nhận thức luận và hiện nay đang là một ngành khoa học mũi nhọn. Tuy nhiên ở nước
ta ngành thiên văn còn chưa được phát triển. Thiên văn chỉ được dạy ở bậc đại học của
các trường sư phạm ở mức độ bắt đầu với thời lượng rất ít ỏi, tài liệu sách vở nghèo nàn.
Điều đáng mừng là gần đây tình hình giảng dạy có được cải thiện đáng kể, vị trí môn học
được nâng cao, tài liệu mới có nhiều hơn, các quan hệ quốc tế được mở rộng. Chính vì vậy
việc biên soạn giáo trình cho môn học là một việc rất cần thiết và có nhiều thuận lợi.
Mục đích của cuốn giáo trình này là:
– Chắt lọc những vấn đề cơ bản nhất của thiên văn và cấu trúc lại cho phù hợp với
thời lượng được giao, nhưng đồng thời có thêm phần mở rộng, cập nhật những thông tin
mới nhất để mở rộng tầm nhìn của sinh viên và đề ra những hướng suy nghĩ thêm về vấn
đề được nghiên cứu.
– Nhấn mạnh các nội dung vật lý của các vấn đề thiên văn, theo sát chương trình vật lý
phổ thông để phù hợp với đối tượng học là các thầy giáo vật lý tương lai.
Cùng với cuốn giáo trình thiên văn của GS. Phạm Viết Trinh – Nguyễn Đình Noãn vốn
đã rất chuẩn mực, cuốn giáo trình này ra đời nhằm giúp cho sinh viên có thêm tài liệu
tham khảo để nắm bài học được dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc biên soạn giáo trình cho một môn học đồ sộ và phức tạp như thiên văn
là một vấn đề hết sức khó khăn do đó không tránh khỏi sai sót. Tác giả rất mong nhận
được ý kiến nhận xét của các em sinh viên và các đồng nghiệp xa gần để giúp giáo trình
ngày càng hoàn thiện hơn.
ThS. Trần Quốc Hà

PHẦN NHẬP MÔN
I. THIÊN VĂN HỌC LÀ GÌ.

1. Đối tượng, nội dung nghiên cứu.
Thiên văn học là môn khoa học về các thiên thể – những vật thể tồn tại trên trời. Đó là
cách nói nôm na.
Thực ra, định nghĩa một cách chính xác hơn là: Thiên văn là môn khoa học về cấu tạo,
chuyển động và tiến hóa của các thiên thể (kể cả Trái đất), về hệ thống của chúng và về vũ
trụ nói chung.
Nội dung nghiên cứu có thể chia làm 3 phần chính :
* Về qui luật chuyển động của các thiên thể trong mối quan hệ giữa Trái đất và bầu
trời.
* Về cấu trúc và bản chất vật lý của các thiên thể và các quá trình xảy ra trong vũ trụ.
* Về nguồn gốc hình thành và phát triển của các thiên thể, của hệ thống của chúng và
của vũ trụ.
Việc phân chia các nội dung này rất trùng khớp với lịch sử phát triển của môn thiên văn
học. Sự phức tạp của nội dung tăng dần cùng với sự phát triển của môn học.
Đối tượng nghiên cứu của thiên văn cũng được xác định ngày càng rộng ra và phức tạp
hơn. Từ “thiên thể” chung chung, chỉ các vật trên bầu trời, được mở rộng ra, cụ thể hơn, đa
dạng hơn. Từ mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các thiên thạch… đến các vệ tinh nhân
tạo, các sao, bụi sao (Tinh vân) các quần sao, các thiên hà. Càng ngày người ta càng phát
hiện ra nhiều vật thể lạ (có những vật được tiên đoán trước bằng lý thuyết) như sao nơ trôn
(pun xa), các quaza, các lỗ đen v.v…
Như vậy ta thấy thiên văn không phải thuần túy là môn khí tượng học hay môn chiêm
tinh như người ta thường nhầm.
2. Phương pháp nghiên cứu.
Do đối tượng nghiên cứu là những vật thể rất to lớn và ở trong vũ trụ xa xôi (trừ Trái
đất) nên phương pháp nghiên cứu của thiên văn cũng rất đặc biệt, thậm chí không giống bất
kỳ một môn khoa học nào.
Phương pháp chủ yếu của thiên văn cổ điển là quan sát và quan trắc. Người ta không
thể làm thí nghiệm với các thiên thể (tức không thể bắt chúng tuân theo những điều kiện
mà ta tạo ra), cũng không thể trực tiếp “sờ mó” được chúng. Nguồn thông tin chủ yếu là
ánh sáng từ các thiên thể. Do ảnh hưởng của khí quyển, do chuyển động của Trái đất và do
chính tính chủ quan của việc quan sát làm cho kết quả nghiên cứu có thể bị hạn chế, thậm
chí dẫn đến những kết luận sai lầm. (Ví dụ: Việc quan sát chuyển động biểu kiến của Mặt
trời và các hành tinh dẫn đến kết luận về hệ địa tâm của Ptolemy). Một khó khăn nữa phải
kể đến của việc quan sát là các hiện tượng thiên văn xảy ra trong một thời gian rất dài so
với đời sống ngắn ngủi của con người và đôi khi không lặp lại. Tuy vậy, khi khoa học càng
phát triển thì việc nghiên cứu thiên văn càng trở nên dễ dàng hơn. Nguồn thông tin chính
gởi đến trái đất là bức xạ điện từ được khai thác triệt để ở cả hai vùng khả kiến và vô
tuyến đã giúp cho sự hiểu biết về vũ trụ được phong phú hơn. Đồng thời, cùng với sự phát
triển của ngành du hành vũ trụ (cũng là một thành tựu của thiên văn) con người đã bước
ra khỏi sự ràng buộc, hạn chế của Trái đất để có được những thông tin khách quan hơn về
vũ trụ. Việc xử lý thông tin bằng kỹ thuật tin học đã giúp thiên văn phát triển vượt bậc.
Khác hẳn với thiên văn cổ điển là kiên trì thu thập số liệu quan trắc và suy luận để tìm ra
qui luật, thiên văn hiện đại sử dụng phương pháp mô hình hóa, đề ra những thuyết có tính
chất dẫn đường và việc quan sát thiên văn là tìm kiếm những bằng chứng để kiểm định sự
đúng đắn của lý thuyết.

Nhìn chung phương pháp nghiên cứu khoa học của thiên văn cũng nằm trong khuôn
khổ những phương pháp luận khoa học nói chung, nó luôn phát triển và sẽ còn được hoàn
thiện mãi.
3. Các nội dung vật lý chính của thiên văn.
Các giáo viên vật lý không thể biết hết các phương pháp nghiên cứu thiên văn, các
phương tiện, dụng cụ v.v… Nhưng họ cần phải biết những nguyên tắc cơ bản và các kết quả
nghiên cứu thiên văn để có được cái nhìn đầy đủ, tổng quát về thế giới tự nhiên.
Những nội dung vật lý chính mà thiên văn có liên quan là:
– Cơ học cổ điển
– Điện từ
– Quang
– Vật lý chất rắn
– Vật lý thống kê và nhiệt động học
– Vật lý Plasma
– Cơ học lượng tử
– Vật lý nguyên tử hạt nhân, hạt cơ bản, vật lý năng lượng cao
– Thuyết tương đối (hẹp, rộng)
– Thuyết thống nhất lớn v.v…
Trong khuôn khổ giáo trình này ta sẽ đặc biệt chú ý đến các phần:
– Cơ học
– Điện từ
– Quang
– Nhiệt
– Nguyên tử hạt nhân, hạt cơ bản
– Cơ học lượng tử
– Thuyết tương đối
4. Đặc điểm của việc dạy và học thiên văn.
Thế giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan. Nhưng nhận thức của con người về tự
nhiên lại mang tính chủ quan. Do đó, sự phản ánh tự nhiên qua nhận thức của con người và
được đúc kết thành các môn khoa học dù sao cũng chỉ là những đường tiệm cận với chân
lý. Thiên văn học cũng vậy. Nó cũng luôn phát triển như tất cả những nỗ lực của con người
trong việc tìm hiểu tự nhiên. Vì vậy, không phải tất cả những số liệu, những kết luận trong
thiên văn hiện nay đều là đúng đắn và bất biến. Còn rất nhiều vấn đề của tự nhiên mà thiên
văn chưa biết hoặc chưa giải thích được. Mặt khác, tự nhiên là vô tận nên môn thiên văn
cũng rất phong phú. Không một cuốn sách giáo khoa nào có thể đề cập được một cách chi
tiết và đầy đủ mọi vấn đề trong thiên văn. Do vậy, việc dạy và học thiên văn thực ra là rất
lâu dài và phải luôn cập nhật. Ta cũng cần nhiều thời gian để nghiên cứu, giảng dạy, học
tập thiên văn vì hầu hết các đối tượng của môn học đều rất xa lạ với đời thường, rất trừu
tượng (con người mất cả ngàn năm mới hiểu đúng về Hệ Mặt trời). Cũng cần phải có
nhiều thời gian suy ngẫm để thắng được các định kiến sai lầm về tự nhiên mà mỗi
người tự tích lũy trong mình. Thế nhưng chúng ta lại chỉ có rất ít thời gian cho việc giảng
dạy. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của người dạy và học. Chúng ta nên biết điều đó.
Ngoài ra, thiên văn là môn học đòi hỏi sự quan sát. Trong điều kiện hiện nay ta chưa
làm tốt được. Đây cũng là một vấn đề ta cần tìm cách khắc phục trong việc dạy và học môn
này.
5. Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác và ý nghĩa của việc nghiên
cứu, giảng dạy thiên văn.
Thiên văn có liên hệ với rất nhiều ngành khoa học. Vốn là một môn khoa học xuất hiện
rất sớm, ngay từ trong các nền văn minh cổ, thiên văn là nội dung chính của các cuộc đàm
đạo của các nhà thông thái. Dần dần, khi khoa học đã có sự phân hóa rõ rệt, thiên văn là

môn khoa học góp phần đắc lực nhất vào việc trả lời những câu hỏi lớn của triết học như:
Thế giới được tạo ra như thế nào? Vật chất có trước hay tinh thần có trước? Thế giới là
“khả tri” hay “bất khả tri?” Cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai trường phái triết học xoay
quanh những câu hỏi đó là cuộc đấu tranh gay go, khốc liệt và còn chưa ngã ngũ. Thiên
văn luôn đứng trong hàng đầu của cuộc đấu tranh đó. Trong phần lịch sử phát triển thiên
văn ta sẽ thấy rõ điều này.
Mối quan hệ của thiên văn với vật lý là quá rõ ràng. Trong quá trình học thiên văn ta sẽ
thấy rõ điều này. Các định luật vật lý được ứng dụng trong thiên văn, đem lại phương tiện
để giải quyết những vấn đề của thiên văn. Nhưng đồng thời chính thiên văn thường dẫn
đường và nêu ra những ý tưởng mới cho vật lý.
Công cụ tính toán của thiên văn là toán học, nhất là phần thiên văn tính toán. Rất nhiều
nhà thiên văn đồng thời là các nhà toán học. Trước kia môn thiên văn cũng thường được
dạy trong khoa toán. Trong quá trình tìm hiểu cấu tạo của các thiên thể ta không thể không
biết đến hóa học. Ngày nay trong thiên văn có riêng ngành hóa học thiên văn. Sinh vật học
cũng tìm được cách lý giải rất nhiều vấn đề của mình nhờ thiên văn. Đặc biệt trong sinh
học, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân ngày càng được chú ý. Để hiểu rõ bản chất nguồn gốc
và sự tiến hóa của sự sống không thể không biết gì về thiên văn.
Đối với địa lý môn thiên văn chính là người anh em. Đối tượng nghiên cứu của địa lý
tự nhiên là Trái đất, một thành viên của hệ Mặt trời. Không thể hiểu rõ được Trái đất nếu
không nắm được mối quan hệ của nó với các thành viên trong hệ nói riêng và trong toàn vũ
trụ nói chung.
Ngay cả lịch sử, vốn là môn khoa học xã hội tưởng như xa lạ với thiên văn, nhưng để
xác định chính xác các sự kiện trong lịch sử phải biết cách tính thời gian trong thiên văn.
Nhiều công trình cổ của các nền văn minh lớn của loài người đều ghi lại các kiến thức
thiên văn thời đó. Làm sao có thể hiểu được nếu không có kiến thức thiên văn?
Vũ trụ là một phòng thí nghiệm thiên nhiên vô cùng vĩ đại cho tất cả các ngành khoa
học. Chính thiên văn kích thích các ngành kỹ thuật khác phát triển theo. Tầm quan trọng
của việc nghiên cứu và giảng dạy thiên văn là rất rõ ràng. Đó không chỉ là vấn đề học
thuật, mà còn là vấn đề xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn cho con người.
Hy vọng thiên văn sẽ có một chỗ đứng xứng đáng trong nền giáo dục – đào tạo của nước
nhà. Tuy nhiên, thiên văn là môn học dựa trên cơ sở vật lý và toán cao cấp, nên việc đưa
thiên văn vào dạy ở các bậc học phổ thông là vấn đề còn rất khó khăn, cần phải nghiên cứu
nhiều.
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH THIÊN VĂN HỌC.

Thiên văn xuất hiện từ rất lâu. Ở đây ta chỉ có thể kể sơ lược một số mốc chính trong
sự phát triển của nó. Từ thời hồng hoang, khi con người còn sống trong cảnh màn trời
chiếu đất họ đã có những nhận xét về vũ trụ, lý giải nó một cách ngây thơ trong các câu
chuyện thần thoại. Hầu như không có một dân tộc nào lại không có những thần thoại như
vậy (thần thoại Hy Lạp, chuyện thần trụ trời ở Việt Nam, các chuyện thần thoại Ai Cập, Ấn
Độ, Trung Quốc…). Dần dần các quan trắc về bầu trời trở nên rất cần thiết cho việc canh
tác nông nghiệp và đi biển (qui luật mùa màng, con nước, xác định vị trí trên biển bằng các
sao). Engels đã từng nói về sự xuất hiện của khoa học: “Trước tiên là thiên văn học…
Những người dân du mục và nông dân làm nông nghiệp rất cần thiên văn học để xác định
thời vụ” *. Trong các công trình kiến trúc của các nền văn minh cổ như : Ai Cập, Maya…
đều lưu lại những kiến thức thiên văn rất sâu sắc của người cổ đại.
Lịch sử phát triển của thiên văn như một một môn khoa học có thể chia làm ba giai
đoạn chính: Cổ đại, cổ điển và hiện đại.
Thiên văn cổ đại (Ancient Astronomy): Từ những năm 2000 trước công nguyên con
người đã có những ghi nhận rất chính xác về thiên văn như vị trí các chòm sao, đường đi
của các hành tinh, đường hoàng đạo, chu kỳ Saros. Những nước có nền văn minh cổ đáng

lưu ý là: Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Ả Rập, nhưng đặc biệt là Hy Lạp. Người
đáng chú ý nhất là Aristotle (khoảng năm 350 trước công nguyên) với các ý tưởng đáng
lưu ý như: Ý tưởng về hệ Địa tâm, về 4 nguyên tố cấu thành vũ trụ: đất, không khí, lửa,
nước, về sự bất biến của vũ trụ, sự phân chia thế giới phía dưới Mặt trăng và bên trên Mặt
trăng v.v…
Cùng với sự ra đời của Thiên chúa giáo với ý tưởng Chúa (Thượng đế) sáng tạo ra thế
giới và con người là trung tâm ưu ái, hệ địa tâm Ptolemy ra đời (năm 150 trước công
nguyên). Nó đã thống trị trong thiên văn trong suốt một thời gian rất dài. Chỉ bằng những
cuộc đấu tranh kiên trì của biết bao nhiêu nhà thiên văn dũng cảm mới làm thay đổi được
cái nhìn sai lầm về Hệ Mặt trời mà nó đưa ra.
Thiên văn cổ điển (Classical Astronomy): Từ thế kỷ 16, mặc dù bị giám sát chặt chẽ
của nhà thờ, các nhà thiên văn vẫn không chịu công nhận hệ địa tâm Ptolemy và kiên trì
đấu tranh cho những tư tưởng mới. Hệ nhật tâm do nhà thiên văn Ba Lan Nicolaus
Copernicus (1473 – 1543) đưa ra trong tác phẩm “Về sự quay của thiên cầu” đã mở ra cho
thiên văn học một kỷ nguyên mới. Sau đó, nhà thiên văn Đức Iohan Kepler (1571 – 1630)
đã tìm ra 3 định luật về sự chuyển động của các hành tinh trong Hệ măt trời. Đây là thời kỳ
đấu tranh khốc liệt cho sự thắng lợi của thuyết nhật tâm. Tấm gương chiến đấu tiêu biểu là
cái chết trên dàn hỏa thiêu của nhà khoa học Ý G. Bruno tại Roma và sự kiên định của nhà
thiên văn Ý G. Galileo (1564 – 1642). Galileo còn là cha đẻ của kính thiên văn, một công
cụ không thể thiếu được trong việc quan sát bầu trời. Nhưng đặc biệt nhất trong giai đoạn
này là các công trình nghiên cứu về cơ học của nhà bác học Anh I. Newton với tác phẩm
“Principia ( Các nguyên lý” (1643(1727). Ông đã đặt nền móng vững chắc cho môn cơ học
thiên thể cũng như thiên văn quang học. Các phương pháp tính toán của Newton đã đóng
góp rất nhiều cho toán học. Sau ông, các nhà toán học như: Lagranges, Laplace, Le Verrier
(Pháp) đã tính toán tìm được thêm một số hành tinh mới của Hệ Mặt trời, đánh dấu sự toàn
thắng của thiên văn cổ điển.
Thiên văn hiện đại (Modern Astronomy). Vào cuối thế kỷ XVIII bằng những nỗ lực
hoàn thiện công cụ quan sát (kính thiên văn) F.W. Herschel người Anh (1738(1822) đã
khai sinh thiên văn học hằng tinh (sao). Ông đã nhận thấy Mặt trời không đứng yên một
chỗ mà tham gia chuyển động trong một hệ thống sao gọi là Ngân hà (Our Galaxy). Ông là
người đầu tiên thu được mô hình kết cấu của Ngân hà. Sau đó, nhà thiên văn Mỹ Shapley
đã chứng minh được Mặt trời không nằm tại tâm Ngân hà, nó không phải là tâm của vũ trụ.
Một lần nữa con người nhận thức chính xác hơn về chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Đồng
thời trong quãng thời gian này những nghiên cứu về quang học cũng phát triển vượt bậc,
với sự phát hiện quang phổ vạch Mặt trời của Fraunhofer, các lý thuyết về bức xạ của vật
đen tuyệt đối của Kirchhoff… Cuối thế kỷ XIX cuộc tranh luận về bản chất của ánh sáng đã
chấm dứt và đã đóng góp rất nhiều cho việc hiểu các quá trình thu nhận thông tin (ánh
sáng) từ các thiên thể. Các định luật về bức xạ của Boltzmann, Plank, Einstein… làm cơ sở
cho môn thiên văn vật lý. Các phép trắc quang (Photometry) và quang phổ nghiệm
(Spectroscopy) cho phép ta hiểu sâu về bản chất của các quá trình vật lý trong các thiên
thể. Đầu thế kỷ XX E.P. Hubble (1889 – 1953), nhà thiên văn Mỹ, người sáng lập ra thiên
văn học tinh hệ, đã nhận thấy qua hiệu ứng Doppler là các tinh hệ (thiên hà) là đang rời xa
chúng ta: vũ trụ không có tâm, tất cả đang dãn nở. Và ông đã tìm ra định luật về sự dãn nở
đó. Cùng với các thuyết tương đối rộng và hẹp của A. Einstein vĩ đại (1879 – 1955) về bản
chất của không thời gian, những phát kiến của Hubble đã làm cho môn vũ trụ luận
(Cosmology) tiến thêm một bước, với thuyết vụ nổ lớn (Big – Bang) nổi tiếng hiện nay.
Từ năm 1945 thiên văn vô tuyến ra đời, góp phần đắc lực cho việc tìm hiểu vũ trụ.
Trong thế kỷ XX ta thấy có sự kết hợp hài hòa giữa hai lĩnh vực nghiên cứu khác nhau
của vật lý: vi mô và siêu vĩ mô. Các vật thể vũ trụ dù to lớn đến mấy cũng được cấu tạo từ
những thành phần rất nhỏ là nguyên tử và hạt nhân. Vật lý hạt nhân – nguyên tử cho phép
giải thích nguồn gốc năng lượng của các thiên thể. Các định luật của thế giới vi mô trong

cơ học lượng tử làm cho người ta hiểu rõ cơ chế của các quá trình hình thành, tiến hóa của
các vật thể trong vũ trụ (Nguyên lý Pauli, Giới hạn Chandrasekhar, Nguyên lý bất định
Heisenberg, Những kỳ dị toán học (Singularity) của S. Hawking…). Thiên văn đã đặt ra
nhiều vấn đề cho vật lý học hiện đại và vật lý cũng góp phần giải quyết nhiều vấn đề của
thiên văn. Đặc biệt trong việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ rất cần sự kết hợp giữa các lý
thuyết vật lý hiện đại thành một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh mà hiện nay vật lý chưa
tìm ra được. Do đó thiên văn vật lý đang là một ngành mũi nhọn trong khoa học.
Không thể không kể đến việc từ những năm 60 của thế kỷ này con người đã thành công
trong việc bước ra khỏi chiếc nôi Trái đất bé bỏng của mình, đã đặt những bước chân đầu
tiên vào vũ trụ. Đó chính là những bước sải dài trong lịch sử thiên văn. Nhờ có ngành hàng
không vũ trụ thiên văn của thế kỷ XX đã thu được nhiều thành tựu rất lớn.
Tuy nhiên, vũ trụ là mênh mông vô tận, so với sự tồn tại của nó thì lịch sử phát triển
của môn thiên văn chỉ chưa đầy một tích tắc. Thiên văn vẫn còn chưa viết đoạn kết cho rất
nhiều vấn đề của mình.
III. TỔNG QUAN VỀ VŨ TRỤ.
1. Những quan sát đầu tiên từ Trái đất.
Từ Trái đất ngước mắt nhìn lên bầu trời ta sẽ thấy một vòm cầu trong suốt úp xuống
mặt đất bằng phẳng, nơi ta đứng sẽ là trung tâm. Vì vậy ta có cảm giác trời tròn, đất
vuông và ta là trung tâm của vũ trụ (!).
Thực ra, vòm cầu mà ta nhìn thấy chỉ là ảo giác. Vũ trụ là vô tận, không có đường biên
là vòm cầu, không có nơi tiếp giáp giữa trời và đất như đường chân trời mà ta nhìn thấy. Ta
gọi vòm cầu tưởng tượng đó là thiên cầu.
Ban ngày, Mặt trời xuất hiện rực rỡ từ đường chân trời phía đông, lên cao trên nền trời
trong xanh và lặn xuống chân trời tây. Đêm bắt đầu, bầu trời tối đen thăm thẳm, rải rác trên
vòm cầu là các sao, vị trí giữa chúng dường như không đổi mà nếu như kết nối chúng lại ta
sẽ có được vô số hình ảnh lý thú. Người xưa đã đặt tên cho chúng theo những nhân vật
thần thoại như chòm sao Hercules (Vũ tiên); Orion (Lạp hộ) hoặc các con vật như Ursa
(Gấu), Canis (chó), Leo (sư tử). Mắt thường ta có thể thấy rõ 88 chòm sao trên bầu trời.
Mặt trăng xuất hiện trên bầu trời đêm với hình dạng và thời điểm luôn thay đổi như một cô
gái đỏng đảnh, nhưng là một thiên thể sáng nhất, đẹp nhất và đáng chú ý nhất của bầu trời
đêm.

Hình 1. Bằng những đường nối tưởng tượng giữa các ngôi sao sáng
trong một chòm sao, người ta có được hình tượng nhân vật Tráng sĩ
trong thần thoại Hy Lạp để đặt tên cho chòm sao là chòm sao Tráng sĩ (Lạp hộ) – Orion
Quan sát kỹ ta có cảm giác như Mặt trời, Mặt trăng, sao đều quay quanh một trục
xuyên qua nơi ta đứng, nối với một ngôi sao gần như nằm yên gọi là sao Bắc cực. Ta gọi
trục quay này là thiên cực và hiện tượng quay quanh trục của các thiên thể trong một ngày

đêm là nhật động. Người ta qui ước thiên cực bắc là thiên cực mà nhìn về đó thì thấy các
thiên thể nhật động (quay) ngược với chiều kim đồng hồ (nếu đứng ở bán cầu bắc của Trái
đất). Theo qui định này thì nếu ta đứng như vậy tay phải là phương đông, trái là tây, trước
mặt là bắc, sau lưng là nam. Bầu trời nhật động theo chiều từ đông sang tây (các thiên thể
mọc ở phía đông, lặn ở phía tây).
Quan sát kỹ cả năm ta sẽ thấy đặc điểm chuyển động của các thiên thể như sau:
a) Mặt trời ( ) một năm Mặt trời chỉ mọc đúng hướng đông và lặn đúng hướng tây vào
2 ngày: xuân phân (20 hoặc 21 tháng ba); thu phân (23 hoặc 24 tháng chín). Sau xuân phân
điểm mọc của Mặt trời lệch dần về phía đông bắc, ngày lệch cực đại là hạ chí (22 tháng 6)
23o27’ so với chính đông. Điểm lặn cũng lệch về phía tây bắc theo qui luật ấy. Sau đó,
điểm mọc dịch dần về phía nam và đạt đúng chính đông vào thu phân. Qua thu phân điểm
mọc dịch dần về phía đông nam (điểm lặn tây nam), đạt độ lệch cao nhất vào ngày đông
chí (22 tháng 12) khoảng 23o27’ rồi lại dịch dần về phía bắc cho tới ngày xuân phân. Như
vậy điểm mọc của Mặt trời có thể lệch nhau tới 46o54’ trong một năm (minh họa h.2).
Ñoâng Baéc
Haï chí

Chính ñoâng
Xuaân phaân
Thu phaân

o

23 27’

Ñoâng nam
Ñoâng chí

23o27’

Hình 2 : Sự thay đổi điểm mọc của Mặt trời trong năm
Ngoài ra, trong năm vị trí Mặt trời trên nền trời sao cũng thay đổi. Mặt trời từ từ dịch
chuyển đối với các sao theo ngược chiều nhật động (tây qua đông), trọn một vòng hết
khoảng 365 ngày. Mặt trời dịch chuyển in hình lên các chòm sao và mỗi tháng gần như ở
vào một chòm. Đường đi này gọi là Hoàng đạo và đới cầu bao gồm 12 chòm sao gọi là
hoàng đới. Ban ngày ta không nhìn thấy sao, song ban đêm ta có thể xác định định được
chòm sao mà Mặt trời đang in vào nhờ sự xuất hiện của chòm sao đối diện. Ví dụ : Tháng
ba đối diện tháng chín, đêm ta thấy Mặt trời lặn, chòm Trinh nữ xuất hiện (nhật động đối
diện với Mặt trời trên thiên cầu). Vậy Mặt trời đang in lên chòm Song ngư. (xem bảng 1)
Bảng 1 : Các chòm sao trên hoàng đới
Tháng
1
2
3
4
5
6

Tên chòm sao Mặt trời in lên
Con hươu
Cái bình
Song ngư
Con dê
Con trâu
Song tử

Capricornus
Aquarius
Pisces
Aries
Taurus
Gemini

Thán
g
7
8
9
10
11
12

Tên chòm sao Mặt trời in lên
Con tôm
Sư tử
Trinh nữ
Cái cân
Thần nông
Nhân mã

Cancer
Leo
Virgo
Libra
Scorpius
Sagittarius

b) Mặt trăng ( ) cũng từ từ dịch chuyển đối với các sao ngược chiều nhật động, trọn 1
vòng gần 27 ngày. Đồng thời hình dáng của Mặt trăng cũng thay đổi (lúc tròn, lúc khuyết,
lúc không xuất hiện).
c) Các sao dường như chỉ tham gia nhật động, vị trí tương đối giữa chúng không đổi
trong một năm, tạo nên các chòm cố định.
d) Tuy vậy có một số sao đi lang thang giữa các sao khác (hành tinh). Người xưa tìm
thấy 5 hành tinh là Thủy, Kim, Hỏa, Mộc, Thổ. Các hành tinh nói chung dịch chuyển đối
với các sao ngược với chiều nhật động, nhưng có thời gian chúng dịch chuyển ngược lại
tạo nên quĩ đạo hình nút. Đường đi của chúng gần với Hoàng đạo. Đặc biệt Thủy tinh, Kim
tinh thường ở gần Mặt trời (Thủy tinh: 280, Kim tinh : 480).
Người xưa đã dựa trên những quan sát về qui luật chuyển động của Mặt trời, Mặt
trăng… để xác định thời gian, làm lịch và xác định phương hướng. Họ đã nhận thấy Mặt
trời, Mặt trăng, Trái đất và các hành tinh kết hợp thành một hệ mà ta gọi là Hệ Mặt trời sau
này.
2. Bức tranh toàn cảnh về vũ trụ.
Từ những quan sát ban đầu, người xưa đã có kết luận về vũ trụ gồm một hệ chứa Trái
đất, Mặt trời, Mặt trăng, các hành tinh. Giới hạn của vũ trụ là một vòm cầu trong suốt có
gắn các sao. Ngày nay, con người đã nhận thức được vũ trụ là vô tận. Phần vũ trụ mà con
người tìm hiểu được cũng đã vô cùng lớn (cỡ 3.1026m) trong đó có hàng tỉ tỉ các ngôi sao.
Các ngôi sao thường tập hợp lại thành hệ gọi là thiên hà, hay tinh hệ (galaxy), ta thường
nhìn thấy dưới dạng những vết sáng nhòe yếu ớt nên còn gọi là tinh vân. Thiên hà của
chúng ta (là chữ Galaxy viết hoa) gọi là Ngân hà, là một dải sáng vắt ngang bầu trời đêm,
có khoảng 6000 sao nhìn được bằng mắt thường và hàng trăm tỉ ngôi sao khác.
Mặt trời là một ngôi sao trung bình nằm ngoài rìa của Ngân hà. Mặt trời kéo theo một
“bầu đoàn thê tử” gồm các hành tinh, tiểu hành tinh, sao chổi quay xung quanh, tập hợp
thành Hệ Mặt trời.
Kích thước của các thiên thể rất lớn, nhưng khoảng không vũ trụ giữa chúng còn lớn
hơn nhiều. Trong khoảng không đó còn có vật chất tồn tại dưới dạng bụi, khí, hạt cơ bản,
trường… làm cản trở tầm quan sát. Chúng ta thật ngạc nhiên trước khả năng tìm hiểu vũ trụ
của con người. Ta thử làm một phép so sánh để tưởng tượng ra mức độ vĩ đại đó.
Trước hết là Trái đất, có đường kính cỡ hàng ngàn km. Để đi được vòng quanh Trái đất
con người mất hết hàng nửa năm, nếu đi bộ và Trái đất hoàn toàn bằng phẳng. Trong thực
tế, cách đây 500 năm Magellan đã phải mất 3 năm trên biển mới đi hết được một vòng Trái
đất và kết luận Trái đất hình cầu. Ngày nay bằng máy bay ta cũng mất cỡ 30 giờ để
bay vòng quanh Trái đất. Trái đất vĩ đại thật nhưng chả thấm vào đâu so với vũ trụ. Mặt
trời, một ngôi sao trung bình ở gần Trái đất nhất, có đường kính gấp trăm lần đường kính
Trái đất. Mặt trời có thể chứa hàng triệu Trái đất [(100)3 lần]. Khoảng cách từ Trái đất đến
Mặt trời cỡ hàng trăm triệu km. Nếu con người có thể đi bộ được đến Mặt trời thì cũng mất
hàng ngàn năm. Ánh sáng, vật thể có vận tốc nhanh nhất (cỡ 300.000 km/s), đi từ Mặt trời
xuống Trái đất hết 8 phút. Nhưng ánh sáng đi từ Mặt trời ra đến rìa Hệ Mặt trời (vị trí của
Diêm vương tinh) hết 5,2 giờ. Có nghĩa là gấp 40 lần quãng đường từ Trái đất lên Mặt trời.
Ấy vậy mà đến ngôi sao gần ta nhất, sao Cận tinh, ánh sáng phải đi hết 4,3 năm. Kích
thước phần vũ trụ ta có thể quan sát được là cỡ 1010 năm ánh sáng. Có nghĩa là những sự
kiện ta quan sát được từ rìa vũ trụ đã xảy ra cách đây hàng chục tỷ năm! Thật khó kiếm
được một tỷ lệ thích hợp để mô tả vũ trụ. Ngay đối với Hệ Mặt trời nhỏ bé nếu ta lấy đúng
tỷ lệ (nghĩa là thu nhỏ kích thước và khoảng cách theo cùng một tỷ lệ) thì: Nếu Mặt trời là
một khối cầu đường kính 1,4m đặt tại tượng Phù đổng Thiên vương trên giao lộ Cách
mạng tháng Tám – Nguyễn Trãi – Lý Tự Trọng, Trái đất sẽ là một hòn bi đường kính 1,3
cm đặt cách đó 150m. Khi đó Diêm vương tinh (giới hạn của Hệ Mặt trời) nằm tại ngã tư
Bảy Hiền (cách cỡ 6km) là một hột đậu cỡ 2mm. Thật là khó có tỷ lệ nhỏ hơn để thu vào

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận