Nghị luận xã hội về sống và chết – Tài liệu text

Nghị luận xã hội về sống và chết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.45 KB, 9 trang )

Nghị luận xã hội về sống và chết
Triết lý nhà phật có nhắc đến cái gọi là thuyết luân hồi: Một con người,
sự vật chết đi sẽ hoá thân, chuyển kiếp sang một kiếp sống mới, dưới
một hình hài mới. Bản thân tôi không hoàn toàn tin vào nó, tôi cảm nhận
được nó dưới một khía cạnh khác. Đọc “Mùa lạc” của Nguyễn Khải tôi
nhận ra được một điều đó: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh
phúc hiện hình từ trong những hy sinh gian khổ, ở đời này không có con
đường cùng, chi có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để
bước qua những ranh giới ấy”
Sự sống ở đây, theo tôi là những giá trị hiện sinh, đó là sự sống của con
người, cỏ cây, chim muông. Đó cũng có thể hiểu là sự sống trong tâm
hồn, trong nhận thức. Sự sống và cái chết; hạnh phúc và hy sinh gian
khổ là những khái niệm trái ngược nhau, thế nhưng “Sự sống nảy sinh từ
trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ”.
Tại sao lại như thế? Theo tôi, trước hết là bởi không có gì trường tồn
mãi với thời gian, không có cuộc sống, số phận nào là luôn luôn hạnh
phúc. Cái chết phải luôn song hành cùng sự sống, có hy sinh gian khổ
mới có hạnh phúc. Cuộc sống vốn rất phức điệu và đa chiểu. Nó có
muôn màu, muôn vẻ thiên hình ị vạn trạng. Ông cha ta đã từng khẳng
định: “Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai”. Đó chính là một dẫn chứng cho
ý kiến trên. Không ai cấm trên xác cây khô kia nảy sinh những mầm
xanh, qua mùa đông tàn tạ úa vàng mới đến ngày xuân trăm hoa đua nó.
Đó chính là vì “sự sống nảy sinh từ trong cái chết”.
Ở đây là một câu nói có tính chất khẳng định. Từ trong cái chết – cái tàn
ta úa vàng sẽ nảy sinh ra sự sống – giá trị hiện sinh. Sự sống ấy dĩ nhiên
không thể chung sống, phát triển trong môi trường ấy nhưng đó là nơi nó
“nảy sinh”. Bản thân sự vật luôn biến đổi không ngừng nghi, ẩn đằng
sau – tận bên trong sự khô héo không ai ngăn trở được những biến đổi
vận động không ngừng để nảy sinh ra sự sống. Ai biết được, những hạt
lúa đã được phơi khô kia cấy xuống nước lại có thể mọc ra cây lúa xanh
tươi. Tôi lại chợt nhớ đến bài kể của bậc thiền sư thời Lý căn dặn học trò

trước lúc ra đi:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đinh tiền tạc dạ nhất chi mai
(Mãn Giác thiến sư)
Dịch thơ
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Sau lưng già đến rồi
Ai bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Vâng, xuân đến và đi là quy luật của tạo hoá. Đó là vòng quay của thời
gian, nhưng, trong cái giá rét của đêm đông ấy, trên cái cành khô mà
tưởng như đã “lạc tận” – rụng hết ấy vẫn bừng lên vẻ đẹp của “nhất chi
mai”. Cái hình cành mai dẫu đơn độc nhưng thật cứng cỏi ấy như tạc vào
đêm tối chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự sống ở giữa cái nơi mà
vạn vật tưởng đã úa tàn. Sự sống và cái chết, đau khổ và hạnh phúc, đó
chính là một vòng tròn của số phận, của tạo hoá; đó chính là nguyên cớ
cho sự nảy sinh – hiện hình.
Với “Mùa lạc”, Nguyễn Khải cũng đã chứng minh được điều đó. Có ai
ngờ ở trên mảnh đất đầy bom đạn của Điện Biên, nơi từng bị bom thù
giày xéo từng tấc đất, tưởng như không một sự sống lại mọc lên một
nông trường Điện Biên cây cối tốt tươi, có cả cuộc sống con người với
đủ mọi cung bậc cảm xúc. Đối với con người cũng vậy, hạnh phúc hiện
hình từ trong hy sinh, gian khổ. Bác Hồ cũng đã từng nói: “Nếu không
có cảnh đông tàn/Thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Con người từ

khi sinh ra, không ai có được quyền hưởng hạnh phúc suốt đời mà
không phải chịu sự khổ đau, hi sinh nào. Cũng như, không có ai là suốt
đời đau khổ mà không tìm được hạnh phúc. Trong vất vả, đớn đau, hạnh
phúc vẫn có thể hiện hình. Một ngưòi đã “quá lứa lỡ thì” như Đào, đã
từng mất chồng mất con, từng lang bạt tứ xứ tối đến đặt lưng ở đâu là
nhà – một con người từng chịu bao nhiêu đau khổ, mặc cảm – cuối cùng
cũng tìm được một bến đỗ bình yên nơi nông trường, tìm được một hạnh
phúc dẫu muộn màng bên người đội trưởng.
Vâng, phải chăng đó chính là sự hiện hình của hạnh phúc. Hay với “ vợ
nhặt” của Kim Lân chẳng hạn. Trong cái nạn đói khủng khiếp từng giết
chết hai triệu đồng bào ta, giữa cái không khí dày đặc nỗi ám ảnh về cái
chết Kim Lân đã dựng rất thành công, người đọc vẫn cảm động biết bao
khi bao hạnh phúc – dẫu mới chớm nở và đang ngập chìm trong nỗi lo
toan của Tràng của “Thị” và của bà cụ Tứ. Vâng, trong đau khổ, đói
nghèo, kề cận với chết cái hạnh phúc vẫn hiện hình và trở thành nguồn
động viên vời họ. Không trải qua hy sinh, gian khổ làm sao đòi hỏi được
có hạnh phúc. Hạnh phúc – sự sống như được gieo mầm từ trong cái chết
– trong gian khổ hy sinh. Đó chính là lí do để thôi thúc tôi không nguôi
hy vọng, không thôi chiến đấu vì niềm tin. Đó là bởi “ ở đời này không
có con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức
mạnh để bước qua những ranh giới ấy”
Vai trò của con người đã được khẳng định: con người phải chiến đấu,
luôn chiến đấu để vượt qua ranh giới – ranh giới của sự sống và cái chết
hạnh phúc và hy sinh, đau khổ. Vâng, ở đời này không có con đường
cùng chỉ có những ranh giới. Sự sống, hạnh phúc chưa và sẽ không bao
giờ đi đến tận diệt cả, có chăng đó chỉ là những thử thách, ranh giới đòi
hỏi con người vượt qua, phải chiến thắng nó. Đó mới là vai trò, sứ mệnh
của con người “điều cốt yếu” là phải có sức mạnh để bước qua những
ranh giới ấy.
Giữa sự sống – cái chết, hạnh phúc – khổ đau luôn có những ranh giới

chỉ có chúng ta, những con người mới có đủ khả năng vượt qua nó. Mị
“vợ chồng A Phủ” là một minh chứng về sức mạnh vượt qua những ranh
giới của con người. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo hay nức tiếng khắp
nơi, về “cúng trình ma” nhà A Sử, sau khi muốn tự từ mà không được vì
thương bố, Mị phải chấp nhận làm dâu – làm con trâu, con ngựa cho nhà
thống lí Pá Tra. Bị hành hạ, đối xử tàn tệ, tưởng như Mị đã mất hết sức
sống, mất hết ý chí mà trở thành cái xác vô hồn. Nhưng không, trong
con người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt không gì dập tắt nổi.
Đó là ngày xuân muộn ở Hồng Ngài, Mị đòi đi chơi xuân (dù sau đó bị
A Sử bắt trói vào cột nhà). Đó là ngày tết Mị lén lấy rượu uống từng
ngụm lớn. Và tiêu biểu nhất, đỉnh cao của tác phẩm là khi cô cắt dây trói
cho A Phủ và xin đi theo. Đó chính là hành động giải thoát cho người
khác và cho chính bản thân mình. Tưởng chừng như sau biết bao hy sinh
đau khổ, sự sống, khát khao hạnh phúc trong cô đã bị dập tắt. Nhưng
không, nó vẫn cháy âm ỉ thành một sức mạnh giúp cô vượt qua ranh giới
ấy mà tìm tới hạnh phúc, tìm lại sự sống (và quả thật, tới Phiền Sa và
được ánh sáng của cách mạng Mị và A Phủ đã có cuộc sống đúng nghĩa),
con người như Mị, tưởng như bị đẩy tới “bước đường cùng” nhưng vẫn
có sức mạnh để vượt qua. Đó chính là minh chứng: trên đời này không
có đường cùng mà đó chỉ là ranh giới mà chúng ta phải vượt qua mà
thôi, tại sao, con người lại không đủ dũng khí để tiến bước! Hay như
nhân vật Đào “Mùa lạc”, cành ngộ ấy, cuộc đời ấy như bị đẩy tới tột
cùng của đau khổ. Có lúc, Đào mặc cảm không dám đón nhận và chiến
đấu vì hạnh phúc, mà sau đó cô cũng nhận thức được, cũng khao khát
được hạnh phúc, đón nó. Và cuối cùng, hạnh phúc đã đến với cô, một
gia đình hạnh phúc với người yêu cô trên cái nông trường Điện Biên
thân yêu. Đó chính là ranh giới và vượt qua ranh giới. Trên đời này
không có con đường cùng mà chi có những giới. Vâng, và vì thế đứng
trước những ranh giới đó con người phải biết đấu tranh, phải có sức
mạnh để vượt qua. Đó chính là điều cốt yếu! Là con người hạnh phúc và

sự sống không thể chờ đợi ai mang đến cho mình mà phải chiến đấu mà
giành lấy và gìn giữ nó. Đúng trước những ranh giới ấy, bản lĩnh người
mới được bộc lộ và phát huy. Không bao giờ được nguôi tắt hi vọng –
phải chăng phần nào Nguyễn Khải muốn nhắn gửi với chúng ta điều đó.
Trong cái chết, trong gian khổ hy sinh vẫn có thể nảy sinh, hiện hình
hạnh phúc và sự sống. Xung quanh chúng ta cũng có biết bao tấm gương
như vậy. Những học sinh hoàn cảnh khó khăn, mất bố mẹ, gia đình
nghèo khó mà vẫn lên học tốt không phải là những tấm gương cho ta học
tập sao? Những người thương binh, hy sinh một phần máu thịt cho Tổ
quốc, những người không còn sức khoẻ mà vẫn vươn lên làm kinh tế
giỏi, những người đó có làm khơi lại suy nghĩ? Cuộc sống dường như đã
đẩy họ đến bước đường cùng, nhưng họ đã chứng minh cho ta thấy, đó
chi là những ranh giới và thực tế ý chí, quyết tâm, sức mạnh họ đã vượt
qua cái ranh giới khó khăn ấy rằng, từ trong cái chết sự sống vẫn hiện
hình. Nó thôi thúc ta hy vọng, chiến đấu để vượt qua tất cả. Hạnh phúc,
sự sống nảy sinh hiện hình từ trong đau khổ và cái chết mới khiến ta trân
trọng biết bao! Vấn đề nhân sinh mà Nguyễn Khải đặt ra trong “Mùa
lạc” là rất đáng để suy ngẫm chiêm nghiệm.
trước lúc ra đi : Xuân khứ bách hoa lạcXuân đáo bách hoa khaiSự trục nhãn tiền quáLão tòng đầu thượng laiMạc vị xuân tàn hoa lạc tậnĐinh tiền tạc dạ nhất chi mai ( Mãn Giác thiến sư ) Dịch thơXuân đi trăm hoa rụngXuân đến trăm hoa cườiTrước mắt việc đi mãiSau sống lưng già đến rồiAi bảo xuân tàn hoa rụng hếtĐêm qua sân trước một cành maiVâng, xuân đến và đi là quy luật của tạo hoá. Đó là vòng xoay của thờigian, nhưng, trong cái giá rét của đêm đông ấy, trên cái cành khô màtưởng như đã ” lạc tận ” – rụng hết ấy vẫn bừng lên vẻ đẹp của ” nhất chimai “. Cái hình cành mai dẫu đơn độc nhưng thật cứng cỏi ấy như tạc vàođêm tối chính là vật chứng rõ ràng nhất cho sự sống ở giữa cái nơi màvạn vật tưởng đã úa tàn. Sự sống và cái chết, đau khổ và niềm hạnh phúc, đóchính là một vòng tròn của số phận, của tạo hoá ; đó chính là nguyên cớcho sự phát sinh – hiện hình. Với ” Mùa lạc “, Nguyễn Khải cũng đã chứng tỏ được điều đó. Có aingờ ở trên mảnh đất đầy bom đạn của Điện Biên, nơi từng bị bom thùgiày xéo từng tấc đất, tưởng như không một sự sống lại mọc lên mộtnông trường Điện Biên cây cối tốt tươi, có cả đời sống con người vớiđủ mọi cung bậc cảm hứng. Đối với con người cũng vậy, niềm hạnh phúc hiệnhình từ trong quyết tử, gian nan. Bác Hồ cũng đã từng nói : ” Nếu khôngcó cảnh đông tàn / Thì sao có cảnh huy hoàng ngày xuân “. Con người từkhi sinh ra, không ai có được quyền hưởng niềm hạnh phúc suốt đời màkhông phải chịu sự khổ đau, hi sinh nào. Cũng như, không có ai là suốtđời đau khổ mà không tìm được niềm hạnh phúc. Trong khó khăn vất vả, đớn đau, hạnhphúc vẫn có thể hiện hình. Một ngưòi đã ” quá lứa lỡ thì ” như Đào, đãtừng mất chồng mất con, từng lang bạt tứ xứ tối đến đặt sống lưng ở đâu lànhà – một con người từng chịu bao nhiêu đau khổ, mặc cảm – cuối cùngcũng tìm được một bến đỗ bình yên nơi nông trường, tìm được một hạnhphúc dẫu muộn màng bên người đội trưởng. Vâng, phải chăng đó chính là sự hiện hình của niềm hạnh phúc. Hay với “ vợnhặt ” của Kim Lân ví dụ điển hình. Trong cái nạn đói kinh khủng từng giếtchết hai triệu đồng bào ta, giữa cái không khí xum xê nỗi ám ảnh về cáichết Kim Lân đã dựng rất thành công xuất sắc, người đọc vẫn cảm động biết baokhi bao niềm hạnh phúc – dẫu mới chớm nở và đang ngập chìm trong nỗi lotoan của Tràng của ” Thị ” và của bà cụ Tứ. Vâng, trong đau khổ, đóinghèo, kề cận với chết cái niềm hạnh phúc vẫn hiện hình và trở thành nguồnđộng viên vời họ. Không trải qua quyết tử, gian nan làm thế nào yên cầu đượccó niềm hạnh phúc. Hạnh phúc – sự sống như được gieo mầm từ trong cái chết – trong gian nan quyết tử. Đó chính là lí do để thôi thúc tôi không nguôihy vọng, không thôi chiến đấu vì niềm tin. Đó là bởi “ ở đời này khôngcó con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sứcmạnh để bước qua những ranh giới ấy ” Vai trò của con người đã được chứng minh và khẳng định : con người phải chiến đấu, luôn chiến đấu để vượt qua ranh giới – ranh giới của sự sống và cái chếthạnh phúc và quyết tử, đau khổ. Vâng, ở đời này không có con đườngcùng chỉ có những ranh giới. Sự sống, niềm hạnh phúc chưa và sẽ không baogiờ đi đến tận diệt cả, có chăng đó chỉ là những thử thách, ranh giới đòihỏi con người vượt qua, phải thắng lợi nó. Đó mới là vai trò, sứ mệnhcủa con người ” điều cốt yếu ” là phải có sức mạnh để bước qua nhữngranh giới ấy. Giữa sự sống – cái chết, niềm hạnh phúc – khổ đau luôn có những ranh giớichỉ có tất cả chúng ta, những con người mới có đủ năng lực vượt qua nó. Mị ” vợ chồng A Phủ ” là một dẫn chứng về sức mạnh vượt qua những ranhgiới của con người. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo hay nức tiếng khắpnơi, về ” cúng trình ma ” nhà A Sử, sau khi muốn tự từ mà không được vìthương bố, Mị phải đồng ý làm dâu – làm con trâu, con ngựa cho nhàthống lí Pá Tra. Bị hành hạ, đối xử tàn tệ, tưởng như Mị đã mất hết sứcsống, mất hết ý chí mà trở thành cái xác vô hồn. Nhưng không, trongcon người Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt không gì dập tắt nổi. Đó là ngày xuân muộn ở Hồng Ngài, Mị đòi đi chơi xuân ( dù sau đó bịA Sử bắt trói vào cột nhà ). Đó là ngày tết Mị lén lấy rượu uống từngngụm lớn. Và tiêu biểu vượt trội nhất, đỉnh điểm của tác phẩm là khi cô cắt dây tróicho A Phủ và xin đi theo. Đó chính là hành vi giải thoát cho ngườikhác và cho chính bản thân mình. Tưởng chừng như sau biết bao hy sinhđau khổ, sự sống, khát khao niềm hạnh phúc trong cô đã bị dập tắt. Nhưngkhông, nó vẫn cháy âm ỉ thành một sức mạnh giúp cô vượt qua ranh giớiấy mà tìm tới niềm hạnh phúc, tìm lại sự sống ( và quả thật, tới Phiền Sa vàđược ánh sáng của cách mạng Mị và A Phủ đã có đời sống đúng nghĩa ), con người như Mị, tưởng như bị đẩy tới ” bước đường cùng ” nhưng vẫncó sức mạnh để vượt qua. Đó chính là vật chứng : trên đời này khôngcó đường cùng mà đó chỉ là ranh giới mà tất cả chúng ta phải vượt qua màthôi, tại sao, con người lại không đủ dũng khí để tiến bước ! Hay nhưnhân vật Đào ” Mùa lạc “, cành ngộ ấy, cuộc sống ấy như bị đẩy tới tộtcùng của đau khổ. Có lúc, Đào mặc cảm không dám tiếp đón và chiếnđấu vì niềm hạnh phúc, mà sau đó cô cũng nhận thức được, cũng khao khátđược niềm hạnh phúc, đón nó. Và sau cuối, niềm hạnh phúc đã đến với cô, mộtgia đình niềm hạnh phúc với tình nhân cô trên cái nông trường Điện Biênthân yêu. Đó chính là ranh giới và vượt qua ranh giới. Trên đời nàykhông có con đường cùng mà chi có những giới. Vâng, và cho nên vì thế đứngtrước những ranh giới đó con người phải biết đấu tranh, phải có sứcmạnh để vượt qua. Đó chính là điều cốt yếu ! Là con người niềm hạnh phúc vàsự sống không hề chờ đón ai mang đến cho mình mà phải chiến đấu màgiành lấy và gìn giữ nó. Đúng trước những ranh giới ấy, bản lĩnh ngườimới được thể hiện và phát huy. Không khi nào được nguôi tắt hy vọng – phải chăng phần nào Nguyễn Khải muốn nhắn gửi với tất cả chúng ta điều đó. Trong cái chết, trong gian nan quyết tử vẫn hoàn toàn có thể phát sinh, hiện hìnhhạnh phúc và sự sống. Xung quanh tất cả chúng ta cũng có biết bao tấm gươngnhư vậy. Những học viên thực trạng khó khăn vất vả, mất cha mẹ, gia đìnhnghèo khó mà vẫn lên học tốt không phải là những tấm gương cho ta họctập sao ? Những người thương bệnh binh, quyết tử một phần máu thịt cho Tổquốc, những người không còn sức khoẻ mà vẫn vươn lên làm kinh tếgiỏi, những người đó có làm khơi lại suy nghĩ ? Cuộc sống có vẻ như đãđẩy họ đến bước đường cùng, nhưng họ đã chứng tỏ cho ta thấy, đóchi là những ranh giới và trong thực tiễn ý chí, quyết tâm, sức mạnh họ đã vượtqua cái ranh giới khó khăn vất vả ấy rằng, từ trong cái chết sự sống vẫn hiệnhình. Nó thôi thúc ta kỳ vọng, chiến đấu để vượt qua tổng thể. Hạnh phúc, sự sống phát sinh hiện hình từ trong đau khổ và cái chết mới khiến ta trântrọng biết bao ! Vấn đề nhân sinh mà Nguyễn Khải đặt ra trong ” Mùalạc ” là rất đáng để suy ngẫm chiêm nghiệm .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận