Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người

Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.71 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………… 1
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề …………………………………………………………………… 2
II. Khái niệm chung về nhân cách ………………………………………………………………. 2
III. Vai trò của các yếu tố ảnh hưởng …………………………………………………….. 3
tới sự hình thành và phát triển nhân cách
1. Nhân tố bẩm sinh – di truyền có vai trò tiền đề vật chất ……………………….. 3
2. Nhân tố hoàn cảnh sống …………………………………………………………………… 4
a. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng …………………………………………………………. 4
đến sự hình thành và phát triển nhân cách
b. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng …………………………………………….. 5
trong sự hình thành và phát triển nhân cách
3. Nhân tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo ………………………………………………… 6
4. Nhân tố hoạt động giữ vai trò quyết định trực tiếp ……………………………… 7
5. Nhân tố giao tiếp giữ vai trò cơ bản ………………………………………………….. 7
IV. Liên hệ thực tế ……………………………………………………………………………..

9

KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………… 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………… 11

MỞ ĐẦU
Vấn đề nhân cách được coi là một trong những vấn đề cơ bản song cũng là
một vấn đề phức tạp nhất của khoa học tâm lý nói riêng và của khoa học xã hội
và nhân văn nói chung.
Nhân cách không phải được sinh ra, không phải có sẵn và được bộc lộ dần
trong cuộc sống mà là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong
quá trình sống, hoạt động, giao tiếp … Chính bằng các hoạt động xã hội, con

người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung năng lực bản chất người
chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động của họ.
Sự phát triển nhân cách như là sự phát triển toàn bộ các sức mạnh của con
người. Quá trình phát triển nhân cách không chỉ là những biến đổi về lượng mà
là những biến đổi về chất trong mỗi con người.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người chịu sự tác động của
nhiều yếu tố mà mỗi yếu tố này lại có vai trò quan trọng khác nhau.

2

NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy mà
nhân cách là các cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong quá
trình sống – giao tiếp, vui chơi, học tập, lao động … Như V.I. Lênin đã khẳng
định “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà
nó là thành viên”. Nhà tâm lý học Xô viết nổi tiếng A.N. Lêonchiev cũng chỉ ra
rằng: “nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và phát triển
theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự
nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan
hệ xã hội mà nó gắn bó”.
Trong quá trình hình thành nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố : bẩm sinh di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao tiếp.
II. Khái niệm chung về nhân cách
Con người là một thành viên của cộng đồng, một xã hội, vừa là một thực thể tự
nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Khái niệm “con người là một thực thể sinh vật xã hội và văn hóa” đã xem xét con người dưới ba góc độ: sinh vật, tâm lý và xã hội.
Cá nhân dùng để chỉ một con người cụ thể trong một cộng đồng, thành viên
của xã hội. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật – văn hóa và xã hội nhưng
được xem xét một cách cụ thể riêng từng người với các đặc điểm về sinh lý, tâm
lý và xã hội để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác trong cộng đồng.

Cá tính dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lại trong tâm
lý (hoặc sinh lý) của cá thể động vật hoặc cá thể người
Nghiên cứu về nhân cách đã được nhiều lý thuyết trong tâm lý học đề cập đến,
và các lý thuyết này đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về nhân cách. Hiện
nay có rất nhiều lý thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lý. Có thể
nêu lên một số thuyết sau: Thuyết phân tâm học của Freud, thuyết siêu đẳng và bù
trừ của A.Adler, thuyết lo lắng của K.Horney, thuyết phát huy bản ngã của
A.Maslow, thuyết đặc trưng của A.Allport …

3

– Quan điểm sinh vật hóa nhân cách: coi bản chất nhân cách nằm trong các
đặc điểm hình thể (Krestchmev), ở góc mặt (C. Lombrozo), ở bản năng vô thức
(S.Freud) …
– Quan điểm xã hội hóa nhân cách lấy các quan hệ xã hội (gia đình, họ hàng, làng
xóm …) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lý của cá nhân.
Từ những cách hiểu trên đây, có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách
như sau: Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu
hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.
Như vậy, nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà
chỉ bao hàm những đặc điểm quy định con người là một thành viên của xã hội, nói
lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Nhân cách
quy định bản sắc riêng, cái riêng của cá nhân trong sự thống nhất trọn vẹn với cái
chung.
III. Vai trò của các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển
nhân cách.
1. Nhân tố bẩm sinh – di truyền có vai trò tiền đề vật chất.
Ngay từ lúc trẻ em ra đời đều có những đặc điểm hình thái – sinh lý của con
người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh học

có ngay từ lúc đứa trẻ mới sinh gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Những đặc
điểm, những thuộc tính sinh học của cha, mẹ được ghi lại trong hệ thống gen
truyền lại cho con cái được gọi là di truyền. Yếu tố bẩm sinh – di truyền bao
gồm các đặc điểm hình thể như cấu trúc giải phẫu – sinh lý, đặc điểm cơ thể, đặc
điểm của hệ thần kinh và các tư chất.
Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và
chức năng cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có
những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não. Những đặc
điểm của hoạt động thần kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu
của cá thể. Ví dụ như có rất nhiều tài năng âm nhạc thiên bẩm được sinh ra trong
một gia đình mà bố mẹ đều theo nghiệp ca sĩ hay nhạc sĩ.
Sự phát triển không bình thường của cơ thể con người cũng ảnh hưởng đến
sự phát triển tâm lý nhân cách. Ví dụ: người có dị tật hay người thấp bé thường

4

nảy sinh tâm lý tự ti, không thích thể hiện mình ở giữa đám đông. Hoặc những
người điếc bao giờ cũng nói to vì họ tưởng người khác cũng khó nghe như họ.
Theo quan điểm tâm lý học mácxít thì yếu tổ bẩm sinh – di truyền không quyết
định chiều hướng cũng như giới hạn phát triển của nhân cách con người. Mặc dù
những đặc điểm sinh học có thể ảnh hưởng mạnh đến quá trình hình thành tài năng,
xúc cảm, thể chất … trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển con người nhưng nó
chỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách. Những quan sát khoa
học về quá trình phát triển của trẻ sinh đôi cùng trứng cũng chỉ ra rằng, sự tương
đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh, âm thanh ở chúng đã mất dần cùng với sự phát
triển của lứa tuổi do tác động của hoàn cảnh và tính tích cực riêng của mỗi cá thể.
Như vậy, di truyền có một vai trò quan trọng đối với một số đặc điểm sinh học
của con người. Di truyền không quyết định sự hình thành và phát triển của nhân
cách nhưng là những tiền đề vật chất cần thiết cho sự định hướng và phát triển của

con người trong một số lĩnh vực nhất định.
2. Nhân tố hoàn cảnh sống.
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và
xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có
thể phân thành 2 loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
a. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách
Môi trường tự nhiên bao gồm các điều kiện tự nhiên – hệ sinh thái phục vụ
cho các hoạt động sinh sống của con người. Hoàn cảnh địa lý, nước, không khí,
đất đai, động vật, thực vậtt, khí hậu, thời tiết … đều thuộc môi trường tự nhiên.
Mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định với những độc đáo riêng về
hoàn cảnh địa lý. Những điều kiện ấy qui định đặc điểm của các dạng, các ngành
sản xuất, đặc tính nghề nghiệp và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ
thuật. Qua đó, quy định giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định.
Cho nên có thể nói, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông
qua khâu trung gian là phương thức sống. Ví dụ như những người ở đồng bằng
thì trồng lúa còn người sống ở thành thị thì thường là tiểu thương, buôn bán.
Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện và
hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lý nào đó của bản địa, của nghề nghiệp
5

cũng có thể được hiểu theo logic ấy. Nhân cách như là một thành viên xã hội,
chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh
thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy mà qua phương thức sống của
chính bản thân nó. Ví dụ, những người sống ở nơi gần biển thì thường làm nghề
đi biển, dạn dày với nắng gió. Vì vậy họ thường phát triển theo lối sống mạnh
mẽ, từng trải nhưng vô cùng thuần hậu.
b. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển
nhân cách

Môi trường xã hội bao gồm cả một hệ thống quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội
– lịch sử, văn hóa, giáo dục … được thiết lập. Con người hòa nhập được với xã
hội qua môi trường này. Tác động của môi trường xã hội đến sự hình thành và
phát triển nhân cách qua các mối quan hệ xã hội mà mỗi cá nhân tham gia tích
cực vào các mối quan hệ đó. Các mối quan hệ giữa cá nhân được thiết lập lại do
các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế quyết định.
Không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống trong một xã
hội quá đơn điệu thì cơ thể sẽ lớn lên và phát triển trong trạng thái của động vật
hoặc sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ Sing, người
Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa
ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh
táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng 2 chân, nhưng khi bị đuổi thì
chạy bằng 4 chi khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala trong 4 năm nhưng cô chỉ
nói được 2 từ. Cô không thể thành người thực sự và 18 tuổi thì qua đời.
Trong môi trường xã hội ta còn thấy những hiện tượng tâm lý xã hội quần
chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Dư luận và tâm trạng
chung, đó là sự phán xét đánh giá của đông người về sự kiện đời sống xã hội của
hoạt động tập thể của hành vi cá nhân. Dư luận có thể đóng vai trò tích cực hay
tiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh,
phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Tâm trạng chung: Bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan – sức phấn đấu
chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó. Ví dụ:

6

lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn của một thành viên đều có muôn màu muôn vẻ
của tâm trạng chung đó, tình cảm của nhân cách được kết tinh dần dần từ đó.
Thi đua: Là phương thức tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm và tập thể làm
tăng kết quả hoạt động của nhau. Nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể được phát

triển qua thi đua.Ví dụ: sự thi đua trong lớp học nhằm đạt kết quả cao trong học
tập sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ở mỗi thành viên sự nỗ lực học tập.
Bắt chước: Thể hiện ra trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bắt chước diễn ra
một cách có ý thức hay không có ý thức, bắt chước trong cách giao tiếp, ngôn
ngữ, trong ăn mặc. Đặc biệt trẻ con trong độ tuổi ấu thơ rất hay bắt chước người
lớn. Vì vậy, cách xử sự của người lớn có tác động rất lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ sau này.
3. Nhân tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
Giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và
có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh,
trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Trong sự hình thành và phát
triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo, điều đó được thể hiện:
– Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
và dẫn dắt sự hình thành và phát triển của học sinh theo chiều hướng đó. Quá
trình này được thực hiện bằng các mục tiêu đào tạo của nhà trường các cấp và
các cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
– Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Ví dụ như đến một độ tuổi nào đó,
đứa trẻ làm được mọi động tác vốn có của con người nhưng muốn có được
những kỹ xảo nghề nghiệp thì dứt khoát phải học nghề.
– Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối
sự hình thành nhân cách như các yếu tố thể chất (bẩm sinh di truyền), yếu tố xã
hội. Ví dụ như những trẻ khi sinh ra đã có khả năng về âm nhạc sẽ được giáo
dục một cách bài bản để có nhận thức đầy đủ nhất về âm nhạc. Đồng thời giáo
dục bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do bệnh tật đem lại cho con người. Ví
dụ là nhạc sĩ chơi ghita nổi tiếng Văn Vượng của nước ta bị mù từ bé, nhờ giáo
dục mà thành tài năng âm nhạc.

7

– Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự phát
của môi trường hay xã hội gây nên. Chẳng hạn, công tác giáo dục trẻ em hư
hoặc cải tạo lao động đối với những người phạm pháp. Và không phải ngẫu
nhiên mà những trại cai nghiện được lập ra.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, giáo dục không phải là
vạn năng, cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức
hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan
hệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Giáo dục không tách rời với tự giáo dục, tự
rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
4. Nhân tố hoạt động giữ vai trò quyết định trực tiếp.
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực
tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt
động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng
những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân
để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất
tâm “lực lượng bản chất” (sức mạnh của thần kinh, cơ bắp, trí tuệ, năng lực …)
và xã hội, “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác trong xã hội.
Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người phụ thuộc vào hoạt động
chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con người phải
tham gia vào các dạng hoạt động khác, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của
hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động
đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển
nhân cách. Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân
cách. Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá giúp con người thấm nhuần
những chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội trở thành lương tâm của con người.
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích và bao giờ cũng mang tính
tập thể, tính cộng đồng, hoạt động của con người bao giờ cũng được thực hiện

bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Do đó mỗi hoạt động
bao giờ cũng đặt ra trước con người những phẩm chất và năng lực nhất định thì

8

mới thực hiện được. Chính trong quá trình tham gia trực tiếp hoạt động đó mà con
người hình thành và phát triển được những phẩm chất năng lực này.
5. Nhân tố giao tiếp giữ vai trò cơ bản.
Nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một
cấu tạo tâm lý mới, là tổng hợp các đặc điểm tâm lý đặc trưng với một cơ cấu
xác định. Do đó, nhân cách của con người chỉ được hình thành trong quá trình
tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Giao lưu là sự
tiếp xúc giữa hai hay nhiều người để trao đổi với nhau những thông tin cần thiết.
Giao lưu tạo ra các quan hệ người – người, các quan hệ xã hội. Nếu với xã hội,
giao lưu là một điều kiện tồn tại và phát triển của nó, thì đối với cá nhân, giao lữu
cũng có vai trò như thế. Không có sự giao lưu với người khác, cá nhân không
phát triển được tâm lý, ý thức của mình, không thể trở thành một nhân cách.
C.Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát
triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao lưu một cách trực tiếp và gián tiếp
với họ”.
Thực tế chứng minh những trường hợp trẻ con do động vật nuôi đã mất bản
tính người, mất nhân cách và chỉ còn lại đặc điểm tâm lý, hành vi của con vật.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng sự giao tiếp quá hạn chế, nghèo
nàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nề là dễ mắc bệnh “đói giao lưu do nằm
viện lâu ngày” (hospitalism).
Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hoá xã hội, chuẩn mực xã hội và “tổng hoà các quan hệ xã hội” thành bản
chất con người. Cụ thể hơn, con người học được cách đánh giá hành vi, thái độ,

lĩnh hội được các tiêu chuẩn đạo đức một cách trực tiếp từ cuộc sống, kiểm tra
và vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn, dần dần hình thành nguyên tắc
đạo đức trong cuộc sống của mình. Như vậy, những phẩm chất nhân cách quan
trọng như: tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính trung thực, lòng
nhân ái… được biểu hiện và được hình thành trong chính quá trình giao tiếp.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các
quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh
mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như là một
9

nhân cách để hình thành một thái độ giá trị – cảm xúc nhất định đối với bản thân.
Hay nói khác đi, qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
IV. Liên hệ thực tế
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của riêng
mình và sự tác động của các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển của
nhân cách cũng không giống nhau, nhưng thời đại nào, đất nước nào cũng có
những vĩ nhân, những nhân cách lớn. Nhân loại xưa tự hào vì có nhà bác học
Đácuyn với câu nói nổi tiếng: “Bác học không có nghĩa là ngừng học”. Nhân
dân Việt Nam tự hào vì có lãnh tụ Hồ Chí Minh – một nhân cách lớn.
Chúng ta đang sống trong môi trường xã hội vô cùng năng động, trong một nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, có rất nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy
quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Bác Hồ đã từng dạy: “Có tài mà
không có đức là đồ vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.” Vì
thế một nhân cách hoàn thiện phải có đủ “tài” và “đức”. Để đạt được điều ấy cần có
sự tác động vào các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách một cách thích hợp.
Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của các yếu tố sinh thể với nhân cách, ta có
thể có những biện pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những yếu tố
không tốt thuộc về mặt bẩm sinh di truyền trong khả năng có thể.
Ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, tìm hiểu các kiến

thức về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của thời đại mới, từ đó
có sự rèn luyện bản thân theo hướng đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó.
Tích cực giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ rộng
lớn, thu thập nhiều kiến thức lịch sử – xã hội giúp nhân cách được phát triển toàn
diện. Cần có sự năng động, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Là một sinh viên,
kiến thức về chuyên môn là cần thiết nhưng kiến thức, kinh nghiệm đời sống
cũng quan trọng không kém.
Phải luôn luôn tự nhìn nhận lại bản thân đánh giá đúng sai những việc đã làm,
vạch ra mục đích cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm khắc với chính mình, nhìn
nhận, đánh giá cuộc sống để giảm bớt những hành vi sai lệch. Quá trình tự giáo
dục phải được xác định là thường xuyên liên tục thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.
Cuối cùng, bởi yếu tố môi trường xã hội ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành
và phát triển nhân cách, cho nên bản thân ta phải là một tấm gương về nhân cách
tốt để có thể tác động một cách tích cực tới những nhân cách mới hình thành
như: những đứa em, đứa cháu nhỏ của mình.
10

KẾT LUẬN
Năm yếu tố: bẩm sinh di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao
tiếp đều có tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng có vai trò
không giống nhau. Theo quan điểm của tâm lý học macxit thì yếu tố bẩm sinh di
truyền giữ vai trò làm tiền đề; yếu tố môi trường, đặc biệt là môi trường xã hội
có vai trò quyết định; yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết
định trực tiếp; yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài và
phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố đã nêu thường xuyên tác động lẫn
nhau và có sự thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Nhân cách
không phải là một cái gì đó đã hoàn tất mà là quá trình luôn đòi hỏi sự trau dồi

thường xuyên.
Nhân cách là một vấn đề vô cùng phức tạp và rất khó lý giải. Nhưng nó lại
hiện diện quanh ta hàng ngày hàng giờ. Chính bản thân ta cũng là một nhân
cách. Việc làm thế nào để có một nhân cách tốt phù hợp với những yêu cầu
chuẩn mực của xã hội là một vấn đề lớn. Nó đòi hòi ở mỗi cá nhân sự rèn luyện,
phấn đấu liên tục, không mệt mỏi. Một đất nước chỉ có thể phát triển bền vững
khi đất nước đó được xây dựng trên số đông là nhân cách tốt, đa phần là những
con người có đủ tài và đức.

11

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học đại cương – Tập thể tác giả, Đinh Thị Kim Thoa (chủ biên) NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009.
2. Tâm lý học – TS. Đinh Phương Duy – NXB Giáo dục, năm 2009.
3. Giáo trình Tâm lý học đại cương – Đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản
CAND -7/2006.
4. Giáo trình Tâm lý học đại cương – Tập thể tác giả. Nguyễn Xuân Thức
(chủ biên) – NXB Đại học sư phạm, 2009.
5. Tuyển tập Tâm lý học – Phạm Minh Hạc – NXB Giáo dục, 2002.
6. Hỏi và đáp môn Tâm lý đại cương – TS. Nguyễn Thị Huệ (chủ biên). ThS.
Lê Minh Nguyệt – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
7. Các website:
– http://tamlyhoc.net/
– http://tamly.com.vn/

12

người ngay từ khi còn nhỏ đã từ từ lĩnh hội nội dung năng lượng thực chất ngườichứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có tương quan đến hoạt động giải trí của họ. Sự phát triển nhân cách như thể sự phát triển hàng loạt các sức mạnh của conngười. Quá trình phát triển nhân cách không chỉ là những biến hóa về lượng màlà những đổi khác về chất trong mỗi con người. Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người chịu sự ảnh hưởng tác động củanhiều yếu tố mà mỗi yếu tố này lại có vai trò quan trọng khác nhau. NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận của vấn đềNhân cách không có sẵn bằng cách thể hiện dần các bản năng nguyên thủy mànhân cách là các cấu trúc tâm ý mới được hình thành và phát triển trong quátrình sống – tiếp xúc, đi dạo, học tập, lao động … Như V.I. Lênin đã khẳngđịnh “ Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm ý, đạo đức của xã hội mànó là thành viên ”. Nhà tâm lý học Xô viết nổi tiếng A.N. Lêonchiev cũng chỉ rarằng : “ nhân cách đơn cử là nhân cách của con người sinh thành và phát triểntheo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với quốc tế tựnhiên, quốc tế vật phẩm, nền văn hóa truyền thống xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quanhệ xã hội mà nó gắn bó ”. Trong quy trình hình thành nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố : bẩm sinh di truyền, thực trạng sống, giáo dục, hoạt động giải trí và tiếp xúc. II. Khái niệm chung về nhân cáchCon người là một thành viên của hội đồng, một xã hội, vừa là một thực thể tựnhiên, vừa là một thực thể xã hội. Khái niệm “ con người là một thực thể sinh vật xã hội và văn hóa truyền thống ” đã xem xét con người dưới ba góc nhìn : sinh vật, tâm ý và xã hội. Cá nhân dùng để chỉ một con người đơn cử trong một hội đồng, thành viêncủa xã hội. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật – văn hóa truyền thống và xã hội nhưngđược xem xét một cách đơn cử riêng từng người với các đặc thù về sinh lý, tâmlý và xã hội để phân biệt cá thể này với cá thể khác trong hội đồng. Cá tính dùng để chỉ cái đơn nhất, độc nhất vô nhị, không lặp lại trong tâmlý ( hoặc sinh lý ) của thành viên động vật hoang dã hoặc thành viên ngườiNghiên cứu về nhân cách đã được nhiều kim chỉ nan trong tâm lý học đề cập đến, và các kim chỉ nan này đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về nhân cách. Hiệnnay có rất nhiều kim chỉ nan khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm ý. Có thểnêu lên một số ít thuyết sau : Thuyết phân tâm học của Freud, thuyết siêu đẳng và bùtrừ của A.Adler, thuyết lo ngại của K.Horney, thuyết phát huy bản ngã củaA. Maslow, thuyết đặc trưng của A.Allport … – Quan điểm sinh vật hóa nhân cách : coi thực chất nhân cách nằm trong cácđặc điểm hình thể ( Krestchmev ), ở góc mặt ( C. Lombrozo ), ở bản năng vô thức ( S.Freud ) … – Quan điểm xã hội hóa nhân cách lấy các quan hệ xã hội ( mái ấm gia đình, họ hàng, làngxóm … ) để thay thế sửa chữa một cách đơn thuần, máy móc các thuộc tính tâm ý của cá thể. Từ những cách hiểu trên đây, hoàn toàn có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cáchnhư sau : Nhân cách là tổng hợp những thuộc tính tâm ý của một cá thể biểuhiện ở truyền thống và giá trị xã hội của người ấy. Như vậy, nhân cách không phải là tổng thể các đặc thù thành viên của con người màchỉ bao hàm những đặc thù pháp luật con người là một thành viên của xã hội, nóilên bộ mặt tâm ý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá thể. Nhân cáchquy định truyền thống riêng, cái riêng của cá thể trong sự thống nhất toàn vẹn với cáichung. III. Vai trò của các yếu tố tác động ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triểnnhân cách. 1. Nhân tố bẩm sinh – di truyền có vai trò tiền đề vật chất. Ngay từ lúc trẻ nhỏ sinh ra đều có những đặc thù hình thái – sinh lý của conngười gồm có các đặc thù bẩm sinh và di truyền. Những thuộc tính sinh họccó ngay từ lúc đứa trẻ mới sinh gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Những đặcđiểm, những thuộc tính sinh học của cha, mẹ được ghi lại trong mạng lưới hệ thống gentruyền lại cho con cháu được gọi là di truyền. Yếu tố bẩm sinh – di truyền baogồm các đặc thù hình thể như cấu trúc giải phẫu – sinh lý, đặc thù khung hình, đặcđiểm của hệ thần kinh và các tư chất. Đối với mỗi thành viên khi sinh ra đã nhận được một số ít đặc thù về cấu trúc vàchức năng khung hình từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó cónhững đặc thù về cấu trúc và tính năng của các giác quan và não. Những đặcđiểm của hoạt động giải trí thần kinh cấp cao được biểu lộ ngay từ những ngày đầucủa thành viên. Ví dụ như có rất nhiều năng lực âm nhạc thiên bẩm được sinh ra trongmột mái ấm gia đình mà cha mẹ đều theo nghiệp ca sĩ hay nhạc sĩ. Sự phát triển không thông thường của khung hình con người cũng ảnh hưởng tác động đếnsự phát triển tâm ý nhân cách. Ví dụ : người có dị tật hay người thấp bé thườngnảy sinh tâm ý tự ti, không thích bộc lộ mình ở giữa đám đông. Hoặc nhữngngười điếc khi nào cũng nói to vì họ tưởng người khác cũng khó nghe như họ. Theo quan điểm tâm lý học mácxít thì yếu tổ bẩm sinh – di truyền không quyếtđịnh khunh hướng cũng như số lượng giới hạn phát triển của nhân cách con người. Mặc dùnhững đặc thù sinh học hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động mạnh đến quy trình hình thành năng lực, xúc cảm, sức khỏe thể chất … trong tiến trình đầu của quy trình phát triển con người nhưng nóchỉ đóng vai trò tạo nên tiền đề cho sự phát triển nhân cách. Những quan sát khoahọc về quy trình phát triển của trẻ sinh đôi cùng trứng cũng chỉ ra rằng, sự tươngđồng rất cao của trí nhớ hình ảnh, âm thanh ở chúng đã mất dần cùng với sự pháttriển của lứa tuổi do ảnh hưởng tác động của thực trạng và tính tích cực riêng của mỗi thành viên. Như vậy, di truyền có một vai trò quan trọng so với một số ít đặc thù sinh họccủa con người. Di truyền không quyết định hành động sự hình thành và phát triển của nhâncách nhưng là những tiền đề vật chất thiết yếu cho sự khuynh hướng và phát triển củacon người trong một số ít nghành nghề dịch vụ nhất định. 2. Nhân tố thực trạng sống. Môi trường là mạng lưới hệ thống các thực trạng bên ngoài, các điều kiện kèm theo tự nhiên vàxã hội xung quanh thiết yếu cho hoạt động giải trí sống và phát triển của con người. Cóthể phân thành 2 loại : môi trường tự nhiên tự nhiên và môi trường tự nhiên xã hội. a. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng tác động đến sự hình thành và phát triển nhâncáchMôi trường tự nhiên gồm có các điều kiện kèm theo tự nhiên – hệ sinh thái phục vụcho các hoạt động giải trí sinh sống của con người. Hoàn cảnh địa lý, nước, không khí, đất đai, động vật hoang dã, thực vậtt, khí hậu, thời tiết … đều thuộc thiên nhiên và môi trường tự nhiên. Mỗi dân tộc bản địa sống trên một chủ quyền lãnh thổ nhất định với những độc lạ riêng vềhoàn cảnh địa lý. Những điều kiện kèm theo ấy qui định đặc thù của các dạng, các ngànhsản xuất, đặc tính nghề nghiệp và một số ít nét riêng trong khoanh vùng phạm vi phát minh sáng tạo nghệthuật. Qua đó, pháp luật giá trị vật chất và ý thức ở một mức độ nhất định. Cho nên hoàn toàn có thể nói, tâm ý dân tộc bản địa mang dấu ấn của thực trạng tự nhiên thôngqua khâu trung gian là phương pháp sống. Ví dụ như những người ở đồng bằngthì trồng lúa còn người sống ở thành thị thì thường là kinh doanh nhỏ lẻ, kinh doanh. Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện kèm theo vàhoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm ý nào đó của địa phương, của nghề nghiệpcũng hoàn toàn có thể được hiểu theo logic ấy. Nhân cách như thể một thành viên xã hội, chịu tác động ảnh hưởng của điều kiện kèm theo tự nhiên trải qua những giá trị vật chất và tinhthần, qua phong tục tập quán của dân tộc bản địa, của địa phương, của nghề nghiệp những cái vốn có liên hệ với điều kiện kèm theo tự nhiên ấy mà qua phương pháp sống củachính bản thân nó. Ví dụ, những người sống ở nơi gần biển thì thường làm nghềđi biển, dạn dày với nắng gió. Vì vậy họ thường phát triển theo lối sống mạnhmẽ, từng trải nhưng vô cùng thuần hậu. b. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triểnnhân cáchMôi trường xã hội gồm có cả một mạng lưới hệ thống quan hệ chính trị, kinh tế tài chính, xã hội – lịch sử vẻ vang, văn hóa truyền thống, giáo dục … được thiết lập. Con người hòa nhập được với xãhội qua môi trường tự nhiên này. Tác động của thiên nhiên và môi trường xã hội đến sự hình thành vàphát triển nhân cách qua các mối quan hệ xã hội mà mỗi cá thể tham gia tíchcực vào các mối quan hệ đó. Các mối quan hệ giữa cá thể được thiết lập lại docác quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế tài chính quyết định hành động. Không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống trong một xãhội quá đơn điệu thì khung hình sẽ lớn lên và phát triển trong trạng thái của động vậthoặc sẽ nghèo nàn về tâm ý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ Sing, ngườiẤn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưara khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnhtáo và nhiều lúc sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng 2 chân, nhưng khi bị đuổi thìchạy bằng 4 chi khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala trong 4 năm nhưng cô chỉnói được 2 từ. Cô không hề thành người thực sự và 18 tuổi thì qua đời. Trong môi trường tự nhiên xã hội ta còn thấy những hiện tượng kỳ lạ tâm ý xã hội quầnchúng khác tác động ảnh hưởng đến sự phát triển tâm ý nhân cách. Dư luận và tâm trạngchung, đó là sự phán xét nhìn nhận của đông người về sự kiện đời sống xã hội củahoạt động tập thể của hành vi cá thể. Dư luận hoàn toàn có thể đóng vai trò tích cực haytiêu cực trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó phát sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng tác động trở lại tâm trạng đó. Tâm trạng chung : Bao trùm bầu không khí sáng sủa hay bi quan – sức phấn đấuchung của nhóm hay cá thể đều chịu ảnh hưởng tác động của tâm trạng chung đó. Ví dụ : lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn của một thành viên đều có muôn màu muôn vẻcủa tâm trạng chung đó, tình cảm của nhân cách được kết tinh từ từ từ đó. Thi đua : Là phương pháp tác động ảnh hưởng qua lại giữa cá thể, nhóm và tập thể làmtăng tác dụng hoạt động giải trí của nhau. Nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể được pháttriển qua thi đua. Ví dụ : sự thi đua trong lớp học nhằm mục đích đạt hiệu quả cao trong họctập sẽ tạo điều kiện kèm theo thuận tiện để phát triển ở mỗi thành viên sự nỗ lực học tập. Bắt chước : Thể hiện ra trong mọi nghành nghề dịch vụ của đời sống. Bắt chước diễn ramột cách có ý thức hay không có ý thức, bắt chước trong cách tiếp xúc, ngônngữ, trong ăn mặc. Đặc biệt trẻ con trong độ tuổi ấu thơ rất hay bắt chước ngườilớn. Vì vậy, cách xử sự của người lớn có ảnh hưởng tác động rất lớn đến sự hình thành vàphát triển nhân cách của trẻ sau này. 3. Nhân tố giáo dục giữ vai trò chủ yếu. Giáo dục đào tạo thường được hiểu như thể quy trình tác động ảnh hưởng có ý thức, có mục tiêu vàcó kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ nhỏ và học viên, trong mái ấm gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Trong sự hình thành và pháttriển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ yếu, điều đó được bộc lộ : – Giáo dục đào tạo vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cáchvà dẫn dắt sự hình thành và phát triển của học viên theo khunh hướng đó. Quátrình này được triển khai bằng các tiềm năng đào tạo và giảng dạy của nhà trường các cấp vàcác cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền haymôi trường tự nhiên không hề đem lại được. Ví dụ như đến một độ tuổi nào đó, đứa trẻ làm được mọi động tác vốn có của con người nhưng muốn có đượcnhững kỹ xảo nghề nghiệp thì dứt khoát phải học nghề. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phốisự hình thành nhân cách như các yếu tố sức khỏe thể chất ( bẩm sinh di truyền ), yếu tố xãhội. Ví dụ như những trẻ khi sinh ra đã có năng lực về âm nhạc sẽ được giáodục một cách chuyên nghiệp và bài bản để có nhận thức rất đầy đủ nhất về âm nhạc. Đồng thời giáodục bù đắp cho những thiếu vắng, hạn chế do bệnh tật đem lại cho con người. Vídụ là nhạc sĩ chơi ghita nổi tiếng Văn Vượng của nước ta bị mù từ bé, nhờ giáodục mà thành năng lực âm nhạc. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm ý xấu, do ảnh hưởng tác động tự phátcủa thiên nhiên và môi trường hay xã hội gây nên. Chẳng hạn, công tác làm việc giáo dục trẻ nhỏ hưhoặc tái tạo lao động so với những người phạm pháp. Và không phải ngẫunhiên mà những trại cai nghiện được lập ra. Giáo dục đào tạo giữ vai trò chủ yếu quyết định hành động sự hình thành và phát triển nhâncách, tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, giáo dục không phải làvạn năng, cần phải thực thi giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chứchoạt động, tổ chức triển khai quan hệ tiếp xúc, hoạt động giải trí cùng nhau trong các mối quanhệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Giáo dục đào tạo không tách rời với tự giáo dục, tựrèn luyện, tự triển khai xong nhân cách ở mỗi cá thể. 4. Nhân tố hoạt động giải trí giữ vai trò quyết định hành động trực tiếp. Hoạt động là phương pháp sống sót của con người, là tác nhân quyết định hành động trựctiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạtđộng có mục tiêu, mang tính xã hội, mang tính hội đồng, được triển khai bằngnhững thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Con người lĩnh hội kinh nghiệm tay nghề xã hội lịch sử dân tộc bằng hoạt động giải trí của bản thânđể hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng trải qua hoạt động giải trí con người xuấttâm “ lực lượng thực chất ” ( sức mạnh của thần kinh, cơ bắp, trí tuệ, năng lượng … ) và xã hội, “ tạo nên sự đại diện thay mặt nhân cách của mình ” ở người khác trong xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người nhờ vào vào hoạt độngchủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con người phảitham gia vào các dạng hoạt động giải trí khác, trong đó đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm tới vai trò củahoạt động chủ yếu. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức triển khai và hướng dẫn các hoạt độngđảm bảo tính giáo dục và tính hiệu suất cao so với việc hình thành và phát triểnnhân cách. Việc nhìn nhận hoạt động giải trí là rất quan trọng trong việc hình thành nhâncách. Việc nhìn nhận sẽ chuyển dần thành tự nhìn nhận giúp con người thấm nhuầnnhững chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội trở thành lương tâm của con người. Hoạt động của con người là hoạt động giải trí có mục tiêu và khi nào cũng mang tínhtập thể, tính hội đồng, hoạt động giải trí của con người khi nào cũng được thực hiệnbằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định. Do đó mỗi hoạt độngbao giờ cũng đặt ra trước con người những phẩm chất và năng lượng nhất định thìmới thực thi được. Chính trong quy trình tham gia trực tiếp hoạt động giải trí đó mà conngười hình thành và phát triển được những phẩm chất năng lượng này. 5. Nhân tố tiếp xúc giữ vai trò cơ bản. Nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm ý riêng không liên quan gì đến nhau mà là mộtcấu tạo tâm ý mới, là tổng hợp các đặc thù tâm ý đặc trưng với một cơ cấuxác định. Do đó, nhân cách của con người chỉ được hình thành trong quá trìnhtham gia vào các mối quan hệ xã hội. Giao tiếp là điều kiện kèm theo sống sót của cá thể và xã hội loài người. Giao lưu là sựtiếp xúc giữa hai hay nhiều người để trao đổi với nhau những thông tin thiết yếu. Giao lưu tạo ra các quan hệ người – người, các quan hệ xã hội. Nếu với xã hội, giao lưu là một điều kiện kèm theo sống sót và phát triển của nó, thì so với cá thể, giao lữucũng có vai trò như vậy. Không có sự giao lưu với người khác, cá thể khôngphát triển được tâm ý, ý thức của mình, không hề trở thành một nhân cách. C.Mác đã chỉ ra rằng : “ Sự phát triển của một cá thể được lao lý bởi sự pháttriển của toàn bộ các cá thể khác và nó giao lưu một cách trực tiếp và gián tiếpvới họ ”. Thực tế chứng tỏ những trường hợp trẻ con do động vật nuôi đã mất bảntính người, mất nhân cách và chỉ còn lại đặc thù tâm ý, hành vi của con vật. Đã có nhiều khu công trình nghiên cứu và điều tra chỉ ra rằng sự tiếp xúc quá hạn chế, nghèonàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nề là dễ mắc bệnh “ đói giao lưu do nằmviện lâu ngày ” ( hospitalism ). Nhờ tiếp xúc, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nềnvăn hoá xã hội, chuẩn mực xã hội và “ tổng hoà các quan hệ xã hội ” thành bảnchất con người. Cụ thể hơn, con người học được cách nhìn nhận hành vi, thái độ, lĩnh hội được các tiêu chuẩn đạo đức một cách trực tiếp từ đời sống, kiểm travà vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn, từ từ hình thành nguyên tắcđạo đức trong đời sống của mình. Như vậy, những phẩm chất nhân cách quantrọng như : niềm tin nghĩa vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm, tính nguyên tắc, tính trung thực, lòngnhân ái … được bộc lộ và được hình thành trong chính quy trình tiếp xúc. Trong tiếp xúc, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức cácquan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự so sánh so sánhmình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự nhìn nhận bản thân mình như thể mộtnhân cách để hình thành một thái độ giá trị – cảm hứng nhất định so với bản thân. Hay nói khác đi, qua tiếp xúc con người hình thành năng lượng tự ý thức. IV. Liên hệ thực tếMỗi thời đại, mỗi quốc gia đều có những chuẩn mực nhân cách của riêngmình và sự ảnh hưởng tác động của các yếu tố tương quan đến sự hình thành và phát triển củanhân cách cũng không giống nhau, nhưng thời đại nào, quốc gia nào cũng cónhững vĩ nhân, những nhân cách lớn. Nhân loại xưa tự hào vì có nhà bác họcĐácuyn với câu nói nổi tiếng : “ Bác học không có nghĩa là ngừng học ”. Nhândân Nước Ta tự hào vì có lãnh tụ Hồ Chí Minh – một nhân cách lớn. Chúng ta đang sống trong thiên nhiên và môi trường xã hội vô cùng năng động, trong một nềnkinh tế thị trường khuynh hướng XHCN, có rất nhiều điều kiện kèm theo thuận tiện để thúc đẩyquá trình hình thành và phát triển nhân cách. Bác Hồ đã từng dạy : “ Có tài màkhông có đức là đồ vô dụng. Có đức mà không có tài thì thao tác gì cũng khó. ” Vìthế một nhân cách triển khai xong phải có đủ “ tài ” và “ đức ”. Để đạt được điều ấy cần cósự tác động ảnh hưởng vào các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách một cách thích hợp. Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của các yếu tố sinh thể với nhân cách, ta cóthể có những giải pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những yếu tốkhông tốt thuộc về mặt bẩm sinh di truyền trong năng lực hoàn toàn có thể. Ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động giải trí xã hội, khám phá các kiếnthức về xã hội để xác lập được những nhu yếu chuẩn mực của thời đại mới, từ đócó sự rèn luyện bản thân theo hướng phân phối một cách tốt nhất những nhu yếu đó. Tích cực tiếp xúc với bạn hữu, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ rộnglớn, tích lũy nhiều kỹ năng và kiến thức lịch sử dân tộc – xã hội giúp nhân cách được phát triển toàndiện. Cần có sự năng động, hoạt động giải trí trên nhiều nghành nghề dịch vụ. Là một sinh viên, kiến thức và kỹ năng về trình độ là thiết yếu nhưng kỹ năng và kiến thức, kinh nghiệm tay nghề đời sốngcũng quan trọng không kém. Phải luôn luôn tự nhìn nhận lại bản thân nhìn nhận đúng sai những việc đã làm, vạch ra mục tiêu cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm khắc với chính mình, nhìnnhận, nhìn nhận đời sống để giảm bớt những hành vi rơi lệch. Quá trình tự giáodục phải được xác lập là tiếp tục liên tục triển khai ở mọi lúc, mọi nơi. Cuối cùng, bởi yếu tố thiên nhiên và môi trường xã hội ảnh hưởng tác động rất lớn tới sự hình thànhvà phát triển nhân cách, do đó bản thân ta phải là một tấm gương về nhân cáchtốt để hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng một cách tích cực tới những nhân cách mới hình thànhnhư : những đứa em, đứa cháu nhỏ của mình. 10K ẾT LUẬNNăm yếu tố : bẩm sinh di truyền, thực trạng sống, giáo dục, hoạt động giải trí và giaotiếp đều có ảnh hưởng tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng có vai tròkhông giống nhau. Theo quan điểm của tâm lý học macxit thì yếu tố bẩm sinh ditruyền giữ vai trò làm tiền đề ; yếu tố thiên nhiên và môi trường, đặc biệt quan trọng là môi trường tự nhiên xã hộicó vai trò quyết định hành động ; yếu tố hoạt động giải trí và tiếp xúc của cá thể có vai trò quyếtđịnh trực tiếp ; yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ yếu so với sự hình thành và pháttriển nhân cách. Có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quy trình lâu dài hơn vàphức tạp. Trong quy trình đó, giữa các yếu tố đã nêu tiếp tục ảnh hưởng tác động lẫnnhau và có sự đổi khác trong từng quy trình tiến độ phát triển của mỗi người. Nhân cáchkhông phải là một cái gì đó đã hoàn tất mà là quy trình luôn yên cầu sự trau dồithường xuyên. Nhân cách là một yếu tố vô cùng phức tạp và rất khó lý giải. Nhưng nó lạihiện diện quanh ta hàng ngày hàng giờ. Chính bản thân ta cũng là một nhâncách. Việc làm thế nào để có một nhân cách tốt tương thích với những yêu cầuchuẩn mực của xã hội là một yếu tố lớn. Nó đòi hòi ở mỗi cá nhân sự rèn luyện, phấn đấu liên tục, không stress. Một quốc gia chỉ hoàn toàn có thể phát triển bền vữngkhi quốc gia đó được kiến thiết xây dựng trên số đông là nhân cách tốt, đa số là nhữngcon người có đủ tài và đức. 11T ÀI LIỆU THAM KHẢO1. Tâm lý học đại cương – Tập thể tác giả, Đinh Thị Kim Thoa ( chủ biên ) NXB Đại học Quốc gia TP. Hà Nội, năm 2009.2. Tâm lý học – TS. Đinh Phương Duy – NXB Giáo dục đào tạo, năm 2009.3. Giáo trình Tâm lý học đại cương – Đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bảnCAND – 7/2006. 4. Giáo trình Tâm lý học đại cương – Tập thể tác giả. Nguyễn Xuân Thức ( chủ biên ) – NXB Đại học sư phạm, 2009.5. Tuyển tập Tâm lý học – Phạm Minh Hạc – NXB Giáo dục đào tạo, 2002.6. Hỏi và đáp môn Tâm lý đại cương – TS. Nguyễn Thị Huệ ( chủ biên ). ThS. Lê Minh Nguyệt – NXB Đại học Quốc gia Thành Phố Hà Nội, 2008.7. Các website : – http://tamlyhoc.net/- http://tamly.com.vn/12

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận