Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.25 KB, 12 trang )
MỞ ĐẦU.
Trong tâm lý học hiện đại, việc nghiên cứu con người với tư cách là một thành
viên của xã hội, một chủ thể của các mối quan hệ giao tiếp, các nhà tâm lý học
thường đề cập đến khái niệm nhân cách. Sau đây tôi xin làm rõ một phần về nhân
cách đó là khái niệm nhân cách và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách từ đó nêu ra những liên hệ thực tiễn để hoàn thiện hơn nhân
cách của mỗi người.
NỘI DUNG.
1.
Khái niệm nhân cách.
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội nhất định, là chủ
thể của các mối quan hệ giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Vậy, nhân
cách của con người là gì?
Nhân cách của một người là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân được
biểu hiện ở bản sắc và mang theo những giá trị xã hội của người ấy.
Như vậy, nhân cách là những thuộc tính tâm lý bởi nó là hiện tượng tâm lý tương
đối ổn định, có tính quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.
Những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động lẫn nhau làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Trong hệ thống
những thuộc tính đó có cái chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con
người nhưng cái chung này đã trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người cả
về nội dung và hình thức mà không giống với tổ hợp khác của bất cứ một người
nào khác. Những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách được thể hiện ra ở những
vịc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy
và được xã hội đánh giá nên nó mang giá trị xã hội.
Nhân cách có cấu trúc bao gồm bốn thuộc tính: xu hướng, năng lực, tính cách, khí
chất.
Chúng ta đều biết rằng con người sinh ra vốn chưa có nhân cách. Nhân cách là cấu
tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao
tiếp, học tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi… Vậy chúng ta nên hiểu thế nào
là sự phát triển nhân cách? Sự phát triển nhân cách phụ thuộc vào những nhân tố
nào? Vai trò của từng nhân tố đó ra sao?
Sự phát triển nhân cách là sự biến đổi có quy luật cả lượng và chất về thể chất, về
tâm lý, về mặt xã hội của cá nhân. Sự phát triển về thể chất thể hiện ở sự tăng
trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp
các vận động. Sự phát triển về mặt tâm lý thể hiện ở những biến đổi cơ bản trong
quá trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của
nhân cách. Sự phát triển về mặt xã hội thể hiện ở sự thay đổi trong cách ứng xử với
người xung quanh, trong sự tham gia tích cực vào đời sống xã hội.
2.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách.
a.
Bẩm sinh- di truyền.
a.1. Khái niệm, vai trò.
Bẩm sinh- di truyền là toàn bộ các yếu tố về giải phẫu- sinh lý của bộ não( nói
riêng), các bộ phận trong cơ thể( nói chung) có sẵn từ khi con người sinh ra hoặc
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bẩm sinh di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển
nhân cách, nó làm cho quá trình hình thành nhân cách nhanh chóng hay chậm
chạp, thuận lợi hay khó khăn. Nhân tố này không quyết định chiều hướng và nội
dung của sự phát triển nhân cách. Ví dụ nếu như một đứa trẻ khi sinh ra có năng
khiếu bẩm sinh về âm nhạc thì sau đó việc đào tạo âm nhạc cho đứa trẻ này sẽ dễ
dàng hơn và khả năng thành công của nó trong lĩnh vực âm nhạc cũng cao hơn so
với những đứa trẻ không có năng khiếu bẩm sinh đó.
Tuy nhiên, nếu không có sự tác động của những yếu tố khác như giáo dục, môi
trường và hoạt động tích cực của cá nhân thì nhân tố bẩm sinh đó cũng sẽ không
thể phát triển. Ví dụ tai âm nhạc của Môza, mắt hội họa của Raphaen sẽ không tự
phát triển những khả năng tiềm tàng của nó một khi thiếu môi trường, nhu cầu và
sự rèn luyện.
Tóm lại, bẩm sinh di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát
triển tâm lý nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các
hiện tượng tâm lý- những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong đó có hệ
thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách.
a.2. Liên hệ thực tế.
Chính vì vậy, các nhà giáo dục cần quan tâm đúng mức đến sức sống vốn có trong
bản chất tự nhiên của con người; cần sớm xác định tính chất và phương hướng của
những sức sống đó dưới dạng những tư chất để chăm sóc, khai thác, phát huy kịp
thời nhằm phát triển tài năng của trẻ.
Chúng ta không nên tuyệt đối hoá hoặc đánh giá quá cao nhân tố sinh học trong sự
phát triển nhân cách để có thái độ đúng đắn trước những thuyết định mệnh do di
truyền, thuyết sinh học hoá giáo dục hoặc những chính sách giáo dục không đúng
như bắt nguồn từ thuyết chủng tộc trong giáo dục, thuyết hai hệ thống nhà trường
cho trẻ bình dân và trẻ ưu tú…, đồng thời cũng tránh việc quá xem nhẹ ảnh hưởng
của nhân tố sinh học trong công tác giáo dục nhằm phát triển toàn diện nhân cách
của trẻ.
b. Môi trường sống.
b.1. Khái niệm, vai trò của môi trường sống đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách.
Môi trường là hệ thống phức tạp, đa dạng các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện
tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho sinh hoạt và phát triển của con người,
có hai loại môi truờng, đó là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ cho học
tập, lao động, rèn luyện sức khoẻ, vui chơi, nghỉ ngơi của con người. Những điều
kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính nghề
nghiệp…qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở mức độ nhất định. Vì
vậy tuy không đóng vai trò chủ đạo nhưng nó cũng góp phần hình thành nên nhân
cách của con người. Ví dụ những người sinh ra ở vùng biển thường có xu hướng
nghề nghiệp là trở thành ngư dân hoặc những công việc khác có liên quan đến
biển.
Môi trường xã hội bao gồm môi trường chính trị, môi trường kinh tế, sản xuất,
môi trường sinh hoạt xã hội và môi trường văn hoá.
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, môi trường xã hội có
tầm quan trọng đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính
người cũng không thể phát triển được, vì nhân cách là một sản phẩm của xã hội.
Như trường hợp của những đứa trẻ được bầy sói nuôi từ bé, khi được con người
tìm thấy chúng đi bằng tứ chi, không uống nước mà liếm và thịt thì không cầm lên
tay mà ăn ngay dưới sàn nhà, chúng không nói được mà chỉ hú lên như loài sói. Tất
cả những biểu hiện nhân cách con người đều không xuất hiện ở những đứa trẻ này.
Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong
môi trường xã hội loài người. Môi trường đó góp phần tạo nên mục đích, động cơ,
phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, mà nhờ đó cá nhân
chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội loài người để hình thành và phát triển
nhân cách của mình. Tuy nhiên tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tuỳ thuộc vào lập trường, quan điểm,
thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tuỳ thuộc vào xu hướng và
năng lực, vào mức độ của cá nhân tham gia cải biến môi trường. Như vậy cần chú
Xem thêm: enkulu22
ý đến hai mặt trong tác động qua lại giữa nhân cách và môi trường: thứ nhât, tính
chất tác động của hoàn cảnh đã phản ánh vào nhân cách; Thứ hai, sự tham gia của
nhân cách tác động đến hoàn cảnh nhằm làm cho hoàn cảnh đó phục vụ cho lợi ích
của mình.
b.2. Liên hệ thực tiễn.
Trong quá trình giáo dục nhân cách cho con người, cần gắn chặt từng bước việc
giáo dục, học tập với thực tiễn cải tạo xã hội. Còn trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách, cần đánh giá đúng mức vai trò của môi trường. Cho đến nay
vẫn còn tồn tại “Thuyết định mệnh do hoàn cảnh”, thuyết này tuyệt đối hoá vai trò
của hoàn cảnh, hạ thấp vai trò của giáo dục, biện hộ cho việc duy trì đặc quyền
giáo dục đối với các tầng lớp xã hội có hoàn cảnh thuận lợi. Ngược lại, thuyết
“Giáo dục vạn năng” lai phủ nhận tính quy định của môi trường xã hội đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách, thậm chí có ảo tưởng dùng những biện pháp có
tính chất cải lương chỉ thông qua hoạt động giáo dục thay thế cho những cải biến
cách mạng về kinh tế, chính trị, xã hội…
c. Giáo dục.
c.1. Khái niệm, vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo dục là sự tác động có mục đích, kế hoạch, biện pháp và hệ thống lên đời sống
tinh thần của con người để hình thành ở họ những phẩm chất mà nhà giáo dục
mong muốn.
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, vai trò chủ đạo của giáo dục được thể
hiện:
– Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách và dẫn
dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó.
– Giáo dục có thể mang lại những cái mà yếu tố bẩm sinh- di truyền hay môi
trường tự nhiên không thể đem lại được. Ví dụ, một đứa trẻ sinh ra không bị
khuyết tật gì thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn
nhất định đứa trẻ sẽ biết nói nhưng muốn biết đọc sách báo thì nhất thiết đứa trẻ
phải học chữ.
– Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người. Ví dụ,
bằng những phương pháp giáo đặc biệt cho trẻ em và người lớn bị khuyết tật( câm,
mù, điếc…) có thể phục hồi được những chức năng đã mất hoặc có thể phát triển
tài năng và trí tuệ một cách bình thường. Như trường hợp của thầy giáo Nguyễn
Ngọc Kí dù bị cụt cả hai tay nhưng do có sự giáo dục, rèn luyện tập viết bằng chân
nên vẫn có thể viết chữ như bao người có tay lành lặn khác, hay trường hợp của
Helen Keller dù bị câm, mù và điếc nhưng do được sự chăm sóc, giáo dục của cô
Ani Sullivan cô đã đọc được một lượng sách nhiều hơn những người bình thường,
hơn nữa, cô còn học được cách đánh máy chữ và viết được bảy cuốn sách, cô cũng
là người câm, mù và điếc đầu tiên trên thế giới được học đại học và tốt nghiệp loại
ưu.
– Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự phát của
môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn
của xã hội. chẳng hạn như công tác giáo dực đối với trẻ em hư hoặc cải tạo lao
động đối với người phạm pháp.
– Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh
hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục của
chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đây là tính chất tiên tiến của
giáo dục.
Tuy nhiên giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo khuynh
hướng đó. Còn các nhân mỗi người có phát triển theo hướng đó hay không, phát
triển đến mức độ nào thì còn phải tùy thuộc vào thái độ, hành động tích cực của
mỗi cá nhân mà giáo dục không quyết định trực tiếp được.
c.2. Liên hệ thực tiễn.
Như vậy, giáo dục môt mặt cung cấp cho con người những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,
mặt khác hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu
cầu của sự phát triển xã hội. Sản phẩm văn hóa của loài người có thể biến thành tài
sản tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động dạy học. Chính bởi giáo dục có vai trò
chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, cho nên trong quá trình dạy
học và giáo dục chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
– Dạy học, giáo dục sẽ tạo nên sự phát triển nhân cách khi trong quá trình đó những
sức mạnh của bản thân trẻ được thúc đẩy, khi nhu cầu, động cơ, hứng thú của trẻ
được chú ý, khi dạy học và giáo dục phù hợp với những quy luật bên trong của sự
phát triển cá nhân. Ví dụ với một đứa trẻ có năng khiếu về hội họa nên quan tâm
giáo dục về hội họa cho đứa trẻ đó.
– Những yêu cầu của nhà trường, của nhà giáo dục, của môi trường giáo dục xung
quanh đề ra cho trẻ phải không ngừng tăng dần mức độ phức tạp và khó khăn. Có
như vậy sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của trẻ.
– Giáo dục và dạy học một mặt phải dựa trên sự phát triển đã đạt được của học
sinh, nhưng mặt khác phải đi trước sự phát triển, kéo sự phát triển tiến lên.
– Giáo dục và dạy học phải luôn chú ý đến việc kích thích được hoạt động của học
sinh, mặt khác, trong quá trình giáo dục và dạy học phải tổ chức đúng đắn, hợp lý
các hoạt động học tập, lao động sản xuất, hoạt động xã hội – chính trị, thể thao,
vui chơi, giải trí … Chính thông qua hoạt động và giao tiếp ấy mà trẻ ngày càng
phát triển về tâm lý, ngày càng nhận thức thế giới mốt cách sâu sắc hơn.
– Một điều đặc biệt quan trọng là cần phải đánh giá đúng vai trò của giáo dục trong
mối quan hệ với các yếu tố khác, tránh quá đề cao hoặc là có nhận thức không
đúng đắn về vai trò của giáo dục trong sự phát triển nhân cách con người.
d. Hoạt động.
d.1. Khái niệm, vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách.
Hoạt động là sự tác động qua lại giữa con người với thế giới khách quan, hướng tới
nhằm biến đổi nó và thỏa mãn nhu cầu của con người.
Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến con người
sẽ không có hiệu quả nếu như bản thân mỗi người không tiếp nhận, không hưởng
ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát
triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động
quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động lực bên
trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa mãn những
nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội, vật chất hay tinh thần của đời sống riêng hay
đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách.
Tâm lý học hiện đại coi hoạt động là quá trình sáng tạo của con người( với tư cách
là chủ thể) và là quá trình con người lĩnh hội toàn bộ những cái có trong thực tại
xung quanh cần cho cuộc sống của chủ thể. Hai quá trình này trong hoạt động diễn
ra đồng thời và thống nhất với nhau, chuyển hóa lẫn nhau, gọi là quá trình đối
tượng hóa và quá trình chủ thể hóa.
Quá trình đối tượng hóa( khách thể hóa) là quá trình chủ thể của hoạt động chuyển
những cái của mình thành sản phẩm của hoạt động. Một ví dụ về quá trình đối
tượng hóa là việc các nhà văn sử dụng những hiểu biết, những kinh nghiệm sống
được tích cóp của mình để viết nên những tác phẩm văn học mang đậm dấu ấn tâm
lý cá nhân của bản thân nhà văn đó.
Quá trình chủ thể hóa là quá trình biến những cái từ bên ngoài hiện thực khách
quan thành những cái của chủ thể. Thông qua quá trình chủ thể hóa, con người lĩnh
hội kinh nghiệm xã hội- lịch sử của bản thân để hình thành nhân cách như việc
những sinh viên trường Đại học Luật tiếp nhận những tri thức về khoa học pháp lý
được thầy cô truyền giảng và thông qua những tình huống thực tiễn để hình thành
nên những hiểu biết về pháp luật và những công việc của người luật sư tương lai
phải làm, từ đó hình thành năng lực bản thân và thái độ tình cảm đối với nghề
nghiệp tương lai.
Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Việc
đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá, giúp con người thấm nhuần những
Xem thêm: enkulu22
chuẩn mực xã hội, trở thành lương tâm của con người.
d.2. Liên hệ thực tiễn.
Mỗi người cần “tự thân vận động”, tích cực trau dồi kiến thức, tăng cường tiếp
nhận thông tin từ xã hội, môi trường để làm phong phú thêm hiểu biết của mình và
tích cực tác động trở lại nhằm làm biến đổi xã hội theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Có như vậy, nhân cách mỗi người mới có thể được hình thành và phát triển.
e.
Giao tiếp.
e.1. Khái niệm, vai trò của giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách.
Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý sống động,
những nhân cách hoàn chỉnh. Ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể và chủ thể.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là
một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Nhờ giao
tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội,
chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp năng lực của
mình vào kho tàng chung của nhân loại. Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận
thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản
thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự
đánh giá bản thân mình như là một nhân cách.
Như vậy giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người- người, là một
nhân tố cơ bản cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Vai trò của giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách đã được ông cha
ta đúc rút trong câu thành ngữ: “ Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”,
hay câu ngạn ngữ phương Tây: “Hãy nói cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nói
cho anh biết anh là người như thế nào”.
e.2. Liên hệ thực tiễn.
Trong thực tiễn cuộc sống mỗi người cần phải “chọn bạn mà chơi”, xây
dựng nên những mối quan hệ xã hội trong sáng, lành mạnh để nhân cách của bản
thân được phát triển theo chiều hướng đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
KẾT LUẬN.
Qua những phân tích trên đây có thể thấy rằng nhân cách con người không phải tự
nhiên mà sinh ra mà nó có một quá trình hình thành và phát triển trong đời sống
con người, chịu ảnh hưởng của các yếu tố: bẩm sinh- di truyền, môi trường sống,
giáo dục, hoạt động, giao tiếp. Hiểu được điều này chúng ta sẽ có thể đề ra những
biện pháp nhằm hoàn thiện nhân cách của mỗi người phù hợp với chuẩn mực xã
hội, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Tâm lý học đại cương. Trường Đại học Luật hà Nội. NXB
CAND. 2006.
2.
Giáo trình Tâm lý học đại cương. Nguyễn Quang Uẩn( chủ biên).
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 2005.
3.
Tâm lý học đại cương( Hướng dẫn trả lời lý thuyết, giải bài tập tình
huống và trắc nghiệm). TS Bùi Kim Chi, ThS Phan Công Luận. NXB Chính
trị- hành chính.
MỤC LỤC
Chúng ta đều biết rằng con người sinh ra vốn chưa có nhân cách. Nhân cách là cấutạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quy trình sống, giaotiếp, học tập, lao động, hoạt động giải trí xã hội, đi dạo … Vậy tất cả chúng ta nên hiểu thế nàolà sự phát triển nhân cách ? Sự phát triển nhân cách phụ thuộc vào vào những nhân tốnào ? Vai trò của từng tác nhân đó thế nào ? Sự phát triển nhân cách là sự đổi khác có quy luật cả lượng và chất về sức khỏe thể chất, vềtâm lý, về mặt xã hội của cá nhân. Sự phát triển về sức khỏe thể chất biểu lộ ở sự tăngtrưởng về độ cao, khối lượng, cơ bắp, sự triển khai xong các giác quan, sự phối hợpcác hoạt động. Sự phát triển về mặt tâm lý bộc lộ ở những đổi khác cơ bản trongquá trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới củanhân cách. Sự phát triển về mặt xã hội bộc lộ ở sự đổi khác trong cách ứng xử vớingười xung quanh, trong sự tham gia tích cực vào đời sống xã hội. 2. Các tác nhân ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách. a. Bẩm sinh – di truyền. a. 1. Khái niệm, vai trò. Bẩm sinh – di truyền là hàng loạt các yếu tố về giải phẫu – sinh lý của bộ não ( nóiriêng ), các bộ phận trong khung hình ( nói chung ) có sẵn từ khi con người sinh ra hoặctruyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bẩm sinh di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triểnnhân cách, nó làm cho quy trình hình thành nhân cách nhanh gọn hay chậmchạp, thuận tiện hay khó khăn vất vả. Nhân tố này không quyết định hành động khunh hướng và nộidung của sự phát triển nhân cách. Ví dụ nếu như một đứa trẻ khi sinh ra có năngkhiếu bẩm sinh về âm nhạc thì sau đó việc đào tạo và giảng dạy âm nhạc cho đứa trẻ này sẽ dễdàng hơn và năng lực thành công xuất sắc của nó trong nghành nghề dịch vụ âm nhạc cũng cao hơn sovới những đứa trẻ không có năng khiếu sở trường bẩm sinh đó. Tuy nhiên, nếu không có sự tác động ảnh hưởng của những yếu tố khác như giáo dục, môitrường và hoạt động giải trí tích cực của cá nhân thì tác nhân bẩm sinh đó cũng sẽ khôngthể phát triển. Ví dụ tai âm nhạc của Môza, mắt hội họa của Raphaen sẽ không tựphát triển những năng lực tiềm tàng của nó một khi thiếu môi trường tự nhiên, nhu yếu vàsự rèn luyện. Tóm lại, bẩm sinh di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và pháttriển tâm lý nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của cáchiện tượng tâm lý – những đặc thù giải phẫu và sinh lý của khung hình, trong đó có hệthần kinh. Từ đó hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền đốivới sự hình thành và phát triển nhân cách. a. 2. Liên hệ thực tiễn. Chính thế cho nên, các nhà giáo dục cần chăm sóc đúng mức đến sức sống vốn có trongbản chất tự nhiên của con người ; cần sớm xác lập đặc thù và phương hướng củanhững sức sống đó dưới dạng những tư chất để chăm nom, khai thác, phát huy kịpthời nhằm mục đích phát triển kĩ năng của trẻ. Chúng ta không nên tuyệt đối hoá hoặc nhìn nhận quá cao nhân tố sinh học trong sựphát triển nhân cách để có thái độ đúng đắn trước những thuyết định mệnh do ditruyền, thuyết sinh học hoá giáo dục hoặc những chủ trương giáo dục không đúngnhư bắt nguồn từ thuyết chủng tộc trong giáo dục, thuyết hai mạng lưới hệ thống nhà trườngcho trẻ tầm trung và trẻ xuất sắc ưu tú …, đồng thời cũng tránh việc quá xem nhẹ ảnh hưởngcủa tác nhân sinh học trong công tác làm việc giáo dục nhằm mục đích phát triển tổng lực nhân cáchcủa trẻ. b. Môi trường sống. b. 1. Khái niệm, vai trò của môi trường tự nhiên sống so với sự hình thành và phát triểnnhân cách. Môi trường là mạng lưới hệ thống phức tạp, phong phú các thực trạng bên ngoài, các điều kiệntự nhiên và xã hội xung quanh thiết yếu cho hoạt động và sinh hoạt và phát triển của con người, có hai loại môi truờng, đó là thiên nhiên và môi trường tự nhiên và môi trường tự nhiên xã hội. Môi trường tự nhiên gồm có các điều kiện kèm theo tự nhiên – sinh thái xanh ship hàng cho họctập, lao động, rèn luyện sức khoẻ, đi dạo, nghỉ ngơi của con người. Những điềukiện ấy lao lý đặc thù của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính nghềnghiệp … qua đó pháp luật các giá trị vật chất và ý thức ở mức độ nhất định. Vìvậy tuy không đóng vai trò chủ yếu nhưng nó cũng góp thêm phần hình thành nên nhâncách của con người. Ví dụ những người sinh ra ở vùng biển thường có xu hướngnghề nghiệp là trở thành ngư dân hoặc những việc làm khác có tương quan đếnbiển. Môi trường xã hội gồm có thiên nhiên và môi trường chính trị, môi trường tự nhiên kinh tế tài chính, sản xuất, môi trường tự nhiên hoạt động và sinh hoạt xã hội và môi trường tự nhiên văn hoá. Trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, thiên nhiên và môi trường xã hội cótầm quan trọng đặc biệt quan trọng vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tínhngười cũng không hề phát triển được, vì nhân cách là một loại sản phẩm của xã hội. Như trường hợp của những đứa trẻ được bầy sói nuôi từ bé, khi được con ngườitìm thấy chúng đi bằng tứ chi, không uống nước mà liếm và thịt thì không cầm lêntay mà ăn ngay dưới sàn nhà, chúng không nói được mà chỉ hú lên như loài sói. Tấtcả những biểu lộ nhân cách con người đều không Open ở những đứa trẻ này. Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ hoàn toàn có thể được triển khai trongmôi trường xã hội loài người. Môi trường đó góp thêm phần tạo nên mục tiêu, động cơ, phương tiện đi lại và điều kiện kèm theo cho hoạt động giải trí giao lưu của cá nhân, mà nhờ đó cá nhânchiếm lĩnh được các kinh nghiệm tay nghề xã hội loài người để hình thành và phát triểnnhân cách của mình. Tuy nhiên đặc thù và mức độ ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường đốivới sự hình thành và phát triển nhân cách còn tuỳ thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân so với các ảnh hưởng đó, cũng như tuỳ thuộc vào xu thế vànăng lực, vào mức độ của cá nhân tham gia cải biến môi trường tự nhiên. Như vậy cần chúý đến hai mặt trong tác động ảnh hưởng qua lại giữa nhân cách và môi trường tự nhiên : thứ nhât, tínhchất ảnh hưởng tác động của thực trạng đã phản ánh vào nhân cách ; Thứ hai, sự tham gia củanhân cách ảnh hưởng tác động đến thực trạng nhằm mục đích làm cho thực trạng đó Giao hàng cho lợi íchcủa mình. b. 2. Liên hệ thực tiễn. Trong quy trình giáo dục nhân cách cho con người, cần gắn chặt từng bước việcgiáo dục, học tập với thực tiễn tái tạo xã hội. Còn trong quy trình hình thành vàphát triển nhân cách, cần nhìn nhận đúng mức vai trò của môi trường tự nhiên. Cho đến nayvẫn còn sống sót “ Thuyết định mệnh do thực trạng ”, thuyết này tuyệt đối hoá vai tròcủa thực trạng, hạ thấp vai trò của giáo dục, biện hộ cho việc duy trì đặc quyềngiáo dục so với các những tầng lớp xã hội có thực trạng thuận tiện. trái lại, thuyết “ Giáo dục đào tạo vạn năng ” lai phủ nhận tính pháp luật của môi trường tự nhiên xã hội so với sựhình thành và phát triển nhân cách, thậm chí còn có ảo tưởng dùng những giải pháp cótính chất cải lương chỉ trải qua hoạt động giải trí giáo dục thay thế sửa chữa cho những cải biếncách mạng về kinh tế tài chính, chính trị, xã hội … c. Giáo dục đào tạo. c. 1. Khái niệm, vai trò của giáo dục so với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục đào tạo là sự tác động ảnh hưởng có mục tiêu, kế hoạch, giải pháp và mạng lưới hệ thống lên đời sốngtinh thần của con người để hình thành ở họ những phẩm chất mà nhà giáo dụcmong muốn. Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, vai trò chủ yếu của giáo dục được thểhiện : – Giáo dục đào tạo vạch ra khunh hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách và dẫndắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo khunh hướng đó. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể mang lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hay môitrường tự nhiên không hề đem lại được. Ví dụ, một đứa trẻ sinh ra không bịkhuyết tật gì thì theo sự tăng trưởng và phát triển của khung hình, đến một giai đoạnnhất định đứa trẻ sẽ biết nói nhưng muốn biết đọc sách báo thì nhất thiết đứa trẻphải học chữ. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể bù đắp những thiếu vắng do bệnh tật đem lại cho con người. Ví dụ, bằng những giải pháp giáo đặc biệt quan trọng cho trẻ nhỏ và người lớn bị khuyết tật ( câm, mù, điếc … ) hoàn toàn có thể hồi sinh được những tính năng đã mất hoặc hoàn toàn có thể phát triểntài năng và trí tuệ một cách thông thường. Như trường hợp của thầy giáo NguyễnNgọc Kí dù bị cụt cả hai tay nhưng do có sự giáo dục, rèn luyện tập viết bằng chânnên vẫn hoàn toàn có thể viết chữ như bao người có tay lành lặn khác, hay trường hợp củaHelen Keller dù bị câm, mù và điếc nhưng do được sự chăm nom, giáo dục của côAni Sullivan cô đã đọc được một lượng sách nhiều hơn những người thông thường, hơn thế nữa, cô còn học được cách đánh máy chữ và viết được bảy cuốn sách, cô cũnglà người câm, mù và điếc tiên phong trên quốc tế được học ĐH và tốt nghiệp loạiưu. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động ảnh hưởng tự phát củamôi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo khunh hướng mong muốncủa xã hội. ví dụ điển hình như công tác làm việc giáo dực so với trẻ nhỏ hư hoặc tái tạo laođộng so với người phạm pháp. – Giáo dục đào tạo hoàn toàn có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động ảnh hưởng tự phát của xã hội chỉ ảnhhưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chẳng hạn, tiềm năng giáo dục củachúng ta là thiết kế xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đây là đặc thù tiên tiến và phát triển củagiáo dục. Tuy nhiên giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển nhâncách của con người và thôi thúc quy trình hình thành và phát triển theo khuynhhướng đó. Còn các nhân mỗi người có phát triển theo hướng đó hay không, pháttriển đến mức độ nào thì còn phải tùy thuộc vào thái độ, hành vi tích cực củamỗi cá nhân mà giáo dục không quyết định hành động trực tiếp được. c. 2. Liên hệ thực tiễn. Như vậy, giáo dục môt mặt cung ứng cho con người những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, mặt khác hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lý thiết yếu theo yêucầu của sự phát triển xã hội. Sản phẩm văn hóa truyền thống của loài người hoàn toàn có thể biến thành tàisản ý thức của nhân cách nhờ hoạt động giải trí dạy học. Chính bởi giáo dục có vai tròchủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách, vì vậy trong quy trình dạyhọc và giáo dục tất cả chúng ta cần chú ý quan tâm một số ít điểm sau : – Dạy học, giáo dục sẽ tạo nên sự phát triển nhân cách khi trong quy trình đó nhữngsức mạnh của bản thân trẻ được thôi thúc, khi nhu yếu, động cơ, hứng thú của trẻđược chú ý quan tâm, khi dạy học và giáo dục tương thích với những quy luật bên trong của sựphát triển cá nhân. Ví dụ với một đứa trẻ có năng khiếu sở trường về hội họa nên quan tâmgiáo dục về hội họa cho đứa trẻ đó. – Những nhu yếu của nhà trường, của nhà giáo dục, của thiên nhiên và môi trường giáo dục xungquanh đề ra cho trẻ phải không ngừng tăng dần mức độ phức tạp và khó khăn vất vả. Cónhư vậy sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của trẻ. – Giáo dục đào tạo và dạy học một mặt phải dựa trên sự phát triển đã đạt được của họcsinh, nhưng mặt khác phải đi trước sự phát triển, kéo sự phát triển tiến lên. – Giáo dục đào tạo và dạy học phải luôn chú ý quan tâm đến việc kích thích được hoạt động giải trí của họcsinh, mặt khác, trong quy trình giáo dục và dạy học phải tổ chức triển khai đúng đắn, hợp lýcác hoạt động giải trí học tập, lao động sản xuất, hoạt động giải trí xã hội – chính trị, thể thao, đi dạo, vui chơi … Chính trải qua hoạt động giải trí và tiếp xúc ấy mà trẻ ngày càngphát triển về tâm lý, ngày càng nhận thức quốc tế mốt cách thâm thúy hơn. – Một điều đặc biệt quan trọng quan trọng là cần phải nhìn nhận đúng vai trò của giáo dục trongmối quan hệ với các yếu tố khác, tránh quá tôn vinh hoặc là có nhận thức khôngđúng đắn về vai trò của giáo dục trong sự phát triển nhân cách con người. d. Hoạt động. d. 1. Khái niệm, vai trò của hoạt động giải trí so với sự hình thành và phát triển nhâncách. Hoạt động là sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa con người với quốc tế khách quan, hướng tớinhằm biến hóa nó và thỏa mãn nhu cầu nhu yếu của con người. Con đường tác động ảnh hưởng có mục tiêu, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến con ngườisẽ không có hiệu suất cao nếu như bản thân mỗi người không tiếp đón, không hưởngứng những tác động ảnh hưởng đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động giải trí nhằm mục đích pháttriển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động giải trí mới là tác nhân tác độngquyết định trực tiếp so với sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Điều này trọn vẹn tương thích với quy luật về sự tự thân hoạt động, về động lực bêntrong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm mục đích để thỏa mãn nhu cầu nhữngnhu cầu tự nhiên hay nhu yếu xã hội, vật chất hay ý thức của đời sống riêng hayđời sống xã hội là những biểu lộ phong phú và đa dạng về tính tích cực của nhân cách. Tâm lý học văn minh coi hoạt động giải trí là quy trình phát minh sáng tạo của con người ( với tư cáchlà chủ thể ) và là quy trình con người lĩnh hội hàng loạt những cái có trong thực tạixung quanh cần cho đời sống của chủ thể. Hai quy trình này trong hoạt động giải trí diễnra đồng thời và thống nhất với nhau, chuyển hóa lẫn nhau, gọi là quy trình đốitượng hóa và quy trình chủ thể hóa. Quá trình đối tượng người tiêu dùng hóa ( khách thể hóa ) là quy trình chủ thể của hoạt động giải trí chuyểnnhững cái của mình thành mẫu sản phẩm của hoạt động giải trí. Một ví dụ về quy trình đốitượng hóa là việc các nhà văn sử dụng những hiểu biết, những kinh nghiệm tay nghề sốngđược tích cóp của mình để viết nên những tác phẩm văn học mang đậm dấu ấn tâmlý cá nhân của bản thân nhà văn đó. Quá trình chủ thể hóa là quy trình biến những cái từ bên ngoài hiện thực kháchquan thành những cái của chủ thể. Thông qua quy trình chủ thể hóa, con người lĩnhhội kinh nghiệm tay nghề xã hội – lịch sử dân tộc của bản thân để hình thành nhân cách như việcnhững sinh viên trường Đại học Luật tiếp đón những tri thức về khoa học pháp lýđược thầy cô truyền giảng và trải qua những trường hợp thực tiễn để hình thànhnên những hiểu biết về pháp lý và những việc làm của người luật sư tương laiphải làm, từ đó hình thành năng lượng bản thân và thái độ tình cảm so với nghềnghiệp tương lai. Việc nhìn nhận hoạt động giải trí là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Việcđánh giá sẽ chuyển dần thành tự nhìn nhận, giúp con người thấm nhuần nhữngchuẩn mực xã hội, trở thành lương tâm của con người. d. 2. Liên hệ thực tiễn. Mỗi người cần “ tự thân hoạt động ”, tích cực trau dồi kỹ năng và kiến thức, tăng cường tiếpnhận thông tin từ xã hội, thiên nhiên và môi trường để làm đa dạng và phong phú thêm hiểu biết của mình vàtích cực ảnh hưởng tác động trở lại nhằm mục đích làm đổi khác xã hội theo khunh hướng tốt đẹp hơn. Có như vậy, nhân cách mỗi người mới hoàn toàn có thể được hình thành và phát triển. e. Giao tiếp. e. 1. Khái niệm, vai trò của tiếp xúc so với sự hình thành và phát triểnnhân cách. Khác với hoạt động giải trí, đối tượng người dùng của tiếp xúc là những chỉnh thể tâm lý sôi động, những nhân cách hoàn hảo. Ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể và chủ thể. Giao tiếp là điều kiện kèm theo sống sót của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu tiếp xúc làmột trong những nhu yếu xã hội cơ bản, Open sớm nhất ở con người. Nhờ giaotiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa truyền thống xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời trải qua tiếp xúc, con người góp phần năng lượng củamình vào kho tàng chung của quả đât. Trong tiếp xúc, con người không chỉ nhậnthức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bảnthân mình, tự so sánh so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tựđánh giá bản thân mình như thể một nhân cách. Như vậy tiếp xúc là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là mộtnhân tố cơ bản cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Vai trò của tiếp xúc so với sự hình thành và phát triển nhân cách đã được ông chata đúc rút trong câu thành ngữ : “ Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ”, hay câu ngạn ngữ phương Tây : “ Hãy nói cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nóicho anh biết anh là người như thế nào ”. e. 2. Liên hệ thực tiễn. Trong thực tiễn đời sống mỗi người cần phải “ chọn bạn mà chơi ”, xâydựng nên những mối quan hệ xã hội trong sáng, lành mạnh để nhân cách của bảnthân được phát triển theo khunh hướng đúng đắn, tương thích với chuẩn mực xã hội. KẾT LUẬN.Qua những nghiên cứu và phân tích trên đây hoàn toàn có thể thấy rằng nhân cách con người không phải tựnhiên mà sinh ra mà nó có một quy trình hình thành và phát triển trong đời sốngcon người, chịu ảnh hưởng của các yếu tố : bẩm sinh – di truyền, môi trường tự nhiên sống, giáo dục, hoạt động giải trí, tiếp xúc. Hiểu được điều này tất cả chúng ta sẽ hoàn toàn có thể đề ra nhữngbiện pháp nhằm mục đích hoàn thành xong nhân cách của mỗi người tương thích với chuẩn mực xãhội, góp thêm phần kiến thiết xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo trình Tâm lý học đại cương. Trường Đại học Luật hà Nội. NXBCAND. 2006.2. Giáo trình Tâm lý học đại cương. Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên ). NXB Đại học Sư phạm TP.HN. 2005.3. Tâm lý học đại cương ( Hướng dẫn vấn đáp triết lý, giải bài tập tìnhhuống và trắc nghiệm ). tiến sỹ Bùi Kim Chi, ThS Phan Công Luận. NXB Chínhtrị – hành chính. MỤC LỤC
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Khoa học