Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Để có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn, nhà tư bản dùng nhiều biện pháp khác nhau. Có 2 phương pháp cơ bản để sản xuất giá trị thặng dư: tuyệt đối và tương đối.

Giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do lê dài thời hạn lao động vượt quá thời hạn lao động tất yếu, trong khi hiệu suất lao động, giá trị lao động và thời hạn lao động tất yếu không đổi khác .

Thí dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:

m ’ = 40/40 x 100 %
Nếu lê dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi điều khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m ’ cũng tăng lên thành :
m ’ = 60/40 x 100 %
Nhà tư bản nào cũng muốn lê dài ngày lao động của người công nhân, nhưng việc lê dài đó không hề vượt quá số lượng giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ còn phải có thời hạn ăn, ngủ, nghỉ ngơi, vui chơi để hồi sinh sức khỏe thể chất. Việc lê dài thời hạn lao động còn bị sự phản kháng của giai cấp công nhân đấu tranh đòi giảm giờ làm .
Giai cấp tư sản muốn lê dài ngày lao động, còn giai cấp công nhân lại muốn rút ngắn thời hạn lao động. Do đó, độ dài ngày lao động được xác lập tùy thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai giai cấp nói trên, điểm dừng của độ dài ấy là điểm mà ở đó quyền lợi kinh tế tài chính của nhà tư bản và của người lao động được thực thi theo một thỏa hiệp trong thời điểm tạm thời .
Khi độ dài ngày lao động không hề lê dài thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường mức độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực ra cũng tựa như như lê dài ngày lao động, tức là ngân sách nhiều sức lao động hơn trong một khoảng chừng thời hạn nhất định. Vì vậy, lê dài thời hạn lao động và tăng cường mức độ lao động là giải pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối .

Giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời hạn lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời hạn lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện kèm theo độ dài ngày lao động vẫn như cũ .
Giả dụ ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời hạn lao động tất yếu rút xuống còn 4 giờ. Do đó, thời hạn lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư ( m ’ ) tăng từ 100 % lên 150 % .
Giá trị sức lao động được quyết định hành động bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu hoạt động và sinh hoạt và dịch vụ thiết yếu cho người công nhân. Do đó, cần phải tăng hiệu suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng .

Giá trị thặng dư siêu ngạch

Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ; xí nghiệp nào tăng năng suất trước thì thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do vận dụng công nghệ tiên tiến mới sớm hơn các nhà máy sản xuất khác làm cho giá trị riêng biệt của sản phẩm & hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi số đông các nhà máy sản xuất đều thay đổi kỹ thuật và công nghệ tiên tiến một cách phổ cập thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa .
Trong từng xí nghiệp sản xuất, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng kỳ lạ trong thời điểm tạm thời, nhưng trong khoanh vùng phạm vi xã hội thì nó lại tiếp tục sống sót. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng hiệu suất lao động, chỉ khác ở chỗ là một bên là tăng hiệu suất lao đông xã hội và một bên là tăng hiệu suất lao động riêng biệt .
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực can đảm và mạnh mẽ thôi thúc các nhà tư bản thay đổi công nghệ tiên tiến để tăng hiệu suất lao động riêng biệt, vượt mặt đối thủ cạnh tranh của mình trong cạnh tranh đối đầu .
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai loại đó đều là một bộ phận giá trị mới do công nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là lao động không được trả công .
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm lợi thế, tuy nhiên trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm lợi thế hơn. Ngày nay, để sản xuất giá trị thặng dư ( m ) nhà tư bản vẫn sử dụng phối hợp cả hai phương pháp nói trên .

Ý nghĩa

– Hai phương pháp này có ý nghĩa so với việc sản xuất ra của cải vật chất, đơn cử :
+ Trong điều kiện kèm theo cơ sở vật chất còn nghèo nàn lỗi thời, việc lê dài thời hạn lao động và tăng cường mức độ lao động có ý nghĩa xử lý được khó khăn vất vả về đời sống hoặc triển khai xong tiềm năng kế hoạch đề ra .
+ Cải tiến kĩ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng hiệu suất lao động, ngày càng tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu bền .

Việc chạy đua giành giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, điều đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Nếu gạt bỏ đặc thù tư bản chủ nghĩa, thì hai phương pháp này có ý nghĩa tích cực trong việc đem lại của cải vật chất cho xã hội, góp thêm phần ngày càng tăng phúc lợi xã hội, tái sản xuất lan rộng ra ở nước ta .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận