Tư duy biện chứng là trình độ cao của tư duy lý luận. Câu này nói mối quan
hệ qua lại của TH và KH, TH mang lại cho KH tư duy lý luận để KH phát triển
rực rỡ, vậy dân tộc nào có tư duy lý luận phát triển cao, rực rỡ thì dân tộc đó có
nền KH phát triển mạnh chẳng hạn như Anh, Pháp có nền KH phát triển rực rỡ
do tư duy lý luận của họ phát triển rực rỡ. Khi KH đạt đc thành tựu mới thì TH
phải thay đổi hình thức của mình, ví dụ như KH đạt đc thành tựu như thuyết tế
bào, định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng thì CNDV phải thay đổi hình
thức từ siêu hình sang biện chứng. Tư duy biện chứng là tư duy bị chi phối bởi
các quy luật biện chứng, các nguyên lý và cặp phạm trù biện chứng và tư duy
nó biểu hiện ra thành một số yêu cầu theo những nguyên tắc khách quan trong
xem xét, toàn diện trong xem xét, xem xét trong sự vận động phát triển, xem xét
để nắm bắt được sự thay đổi giữa lượng và chất, giữa cái cũ và cái mới, giữa
các mặt đối lập, v.v.Phần bình luận nói về mối liên hệ giữa TH và KH. TH thay
đổi thì KH thay đổi và ngược lại vì TH là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận KH còn KH là nền tảng KH, cơ sở KH cho các phạm trù của TH.
Tư duy lý luận : là hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát
cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng
ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất,
tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức.
=> TDLL : là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ là khái niệm, phạm
trù, phán đoán, suy luận hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản
chất, quy luật của hiện thực khách quan; từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người ngày càng có kết quả cao hơn.
TDLL có hai mặt gắn liều với nhau là nội dung tư duy và phương pháp tư duy.
Bình luận câu nói của Engels:
Một trong những điểm khác nhau căn bản giữa con người và con vật không
phải ở nhận thức mà ở năng lực tư duy. Bởi lẽ – như Ph.Ăngghen nói – con vật
cũng có nhận thức, cho dù nhận thức ấy không có gì là tối cao cả, nhưng con
vật không có năng lực tư duy. Về thực chất, tư duy là giai đoạn, là trình độ cao
của quá trình nhận thức hiện thực khách quan của con người. Đó là quá trình ý
thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực khách quan một cách gián tiếp
thông qua các khái niệm, phán đoán, suy luận lôgíc. Nhờ có tư duy mà con
người có thể nhận thức được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, qua đó mà cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình.
Sự hình thành và phát triển tư duy của loài người là một quá trình lâu dài,
phức tạp. Trong nhiều triệu năm của xã hội cộng sản nguyên thủy, tư duy của
con người từng bước hình thành, phát triển. “Con người bản năng, người man
rợ” chưa tự tách mình ra khỏi giới tự nhiên, chỉ “người có ý thức” mới tự tách
mình “khỏi giới tự nhiên”. Đây cũng chính là lúc tư duy con người mới thực sự
hình thành và từng bước phát triển.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, khi mà con người còn hoàn toàn sống dựa
vào tự nhiên, hiểu biết của họ về giới tự nhiên còn hết sức ít ỏi…, thì tư duy của
họ chỉ có thể hình thành được một hệ thống kinh nghiệm về một số lĩnh vực nào
đó có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày của họ mà thôi. Người
10
nguyên thủy chưa có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa những sự vật, hiện
tượng riêng lẻ để xây dựng nên hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học.
Điều đó chỉ được diễn ra khi mà lực lượng sản xuất (trước hết là công cụ lao
động) đã có những cải tiến nhất định, năng suất lao động xã hội không ngừng
tăng lên, sản phẩm xã hội đã có dư thừa, phân công lao động xuất hiện. Xã hội
hình thành lớp người chuyên lao động trí óc, v.v.. Lúc này tư duy loài người đạt
đến một trình độ cao hơn về chất so với xã hội cộng sản nguyên thủy: tư duy lý
luận, tư duy khoa học ra đời.
Trình bày khái quát triết học Trung Quốc (/Ấn Độ; /Hy Lạp) cổ đại; qua đó,
chứng minh rằng nó là sản phẩm tinh thần của đời sống hiện thực xã hội đó.
•
Khái quát triết học Trung hoa cổ trung đại:
a/ Hoàn cảnh ra đời:
– Điều kiện tự nhiên
+ Trung hoa cổ đại là đất nước rộng lớn
+ Có 2 miền với điều kiện tự nhiên khác nhau thậm chí là đối lập. Miền Bắc
xa biển có lưu vực sông Hoàng Hà, khí hậu lạnh đất đai khô cằn, cây cỏ thưa
thớt, sản vật hiếm hoi. Miền Nam có lưu vực sông Dương Tử khí hậu ấm áp,
cây cỏ tươi xanh và sản vật phong phú.
– Điều kiện lịch sử
Lịch sử Trung hoa chia làm 2 thời kỳ lớn:
+ Thời kỳ từ thế kỷ IX trước công nguyên trở về trước thời kỳ này có các
triều đại nhà hạ, nhà thương và nhà tây chu những tư tưởng triết học đã xuất
hiện tuy chưa đạt đến mức hệ thống. Bên cạnh thế giới quan thần thoại, tôn giáo
và chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện những quan niệm có tính chất duy vật mộc
mạc và tư tưởng vô thần sơ khai.
+ Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ III trước công nguyên
Thời kỳ này gọi là “Xuân thu – Chiến quốc”
Thời kỳ này sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường
phái triết học khá hoàn chỉnh.
b/ Đặc điểm
– Nhấn mạnh tinh thần nhân văn coi trọng các loại tư tưởng liên quan đến
con người như vấn đề nhân sinh, lịch sử …triết học tự nhiên mờ nhạt
– Đề cao chính trị đạo đức, coi việc thực hành đạo đức là thực tiễn căn bản
nhất của mỗi đời người chiếm vị trí thứ nhất trong sinh hoạt XH
– Nhấn mạnh sự hòa hợp giữa tự nhiên và XH: thiên nhân hợp nhất, tâm vật
duy hợp.
– Phương thức tư duy trực quan dựa vào trực giác và cảm nhận
c/ Một số triết học tiêu biểu
– Thuyết âm – dương và ngũ hành
Âm dương và ngũ hành là 2 phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học trung
hoa. Thuyết âm dương và ngũ hành có 2 nguyên lý cơ bản sau:
11
Âm dương thống nhất thành thái cực
Âm dương đối lập, tác động qua lại lẫn nhau sinh ra vạn vật, trong âm có
dương, trong dương có âm, âm thịnh dần thì dương suy dần và ngược lại. Khi
dương cực thịnh đã có mầm mống của âm xuất hiện và ngược lại.
– Nho giáo
Nho giáo do Khổng tử (551 – 479 TCN) sáng lập dưới thời Xuân Thu, người
kế tục xuất sắc tư tưởng của Khổng tử ở dưới thời chiến quốc là Mạnh Tử (327
– 298 TCN). Tác phẩm quan trọng nhất để nghiên cứu Nho giáo nói chung và tư
tưởng của Mạnh Tử nói riêng là sách “ luận ngữ” và “mạnh ngữ”
– Đạo gia: Do lão tử sáng lập, lão tử sống ở thời xuân thu chiến quốc. Ông
đã tiếp nhận tư tưởng của Dương Chu về âm dương và ngũ hành và phép biện
chứng của kinh dịch để sáng lập nên đạo gia.
– Mặc gia do Mặc tử (479 – 381 TCN) sáng lập, Mặc tử cùng thời với Khổng
tử. Tư liệu tư tưởng là bộ “Mặc tử” gồm 54 chương đả kích nho gia nhiều mặt
muốn tranh chấp địa vị với nho gia trên trường chính trị.
– Pháp gia: Đại biểu cao nhất của Pháp gia là Hàn Phi
(280 -233 TCN)
tư liệu tư tưởng của Pháp gia là bộ “ Hàn Phi tử” gồm 53 thiên.
• Khái quát triết học Ấn độ cổ trung đại
a/ Hoàn cảnh ra đời
– Điều kiện tự nhiên
Là 1 lục địa rất lớn ở phía Nam Châu Á. Có những yếu tố địa lý trái ngược
nhau, vừa có núi cao lại có biển rộng, 2 con sông Hằng và sông Ấn chảy về 2
hướng khác nhau.
– Điều kiện kinh tế XH
Tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “Công xã nông
thôn”. Trong XH có sự phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi nghề nghiệp và
tôn giáo.
– Điều kiện văn hóa
Khoa học tự nhiên y học phát triển rất sớm, nét nổi bật của văn hóa ấn độ
trung đại là mang đậm dấu ấn về tín ngưỡng, tâm linh và tôn giáo.
b/ Đặc điểm triết học.
– Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tôn giáo, giữa triết học và tôn giáo
khó phân biệt.
– Các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước, các tư tưởng triết học giai đoạn trước được các giai đoạn sau kế thừa và
phát triển,
– Khi bàn đến vấn đề bản thể luận 1 số học phái đem đối lập “không” và “
có”, quy luật cái “có” về cái “không”.
c/ Một số trường phái triết học Ấn độ cổ trung đại
– Trường phái Samkhuya
– Trường phái Mimansa
– Trường phái Vêdanta
– Trường phái Yoga
– Trường phái Nyayata – Vaisesika
– Trường phái Jaina
12
– Trường phái Lokayata
– Trường phái Phật Giáo (Buddha)
• Khái quát về triết học Hy lạp cổ đại
a/ Hoàn cảnh ra đời
Hy lạp cổ đại là nơi thuận lợi về đường biển, kinh tế thương mại phát triển.
Tuy nhiên những cuộc xâm lăng bên ngoài phần nào làm suy yếu nền kinh tế
thủ công nghiệp.
Hy lạp cổ đại là 1 XH chiếm hữu nô lệ, với những mâu thuẫn gay gắt giữa chủ
nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
Một số ngành khoa học cụ thể đã bắt đầu hình thành, đòi hỏi sự khái quát về
triết học, những tư duy triết học thời kì này chưa phát triển cao, tri thức triết
học và tri thức khoa học cụ thể hòa quyện vào nhau.
b/ Đặc điểm
– Gắn bó hữu cơ với KHTN hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà
KHTN
– Sự ra đời rất sớm của CNDV mộc mac thô sơ và phép biện chứng tự phát
– Đấu tranh gay gắt giữa CNDV và CNDT biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa
đường lối triết học của Đêmôcrít đại diện cho tầng lớp chủ nô dân chủ và đường
lối triết học Platon đại diện cho tầng lớp chủ nô quý tộc.
c/ Các nhà triết học tiêu biểu
Heracrit (520 -460 TCN) là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy lạp cổ đại. ông là
người sáng lập ra phép biện chứng.
Đêmôcrít (460 – 370 TCN) là đại diện xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật cổ
đại
Platon (427 -347 TCN) là nhà triết học duy tâm khách quan.
Arixtot (384 – 322 TCN) là nhà triết học cổ đại trung hòa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm
• Chứng minh rằng nó là sản phẩm tinh thần của đời sống hiện thực xã hội đó
•
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Triết học Ấn
Độ là sự phản ánh xã hội Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi trọng và đề cao tôn
giáo, một xã hội rất mê triết lý với những đặc điểm sau:
•
– Do chịu ảnh hưởng bởi tinhsadsfSA thần Vêđa mà Triết học Ấn độ Cổ Đại
không thể phần chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
phép biện chứng và phép siêu hình, mà chủ yếu chia thành hệ thống chính
thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể
luôn có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép
biện chứng và phép siêu hình với nhau, song xu hướng chung là biến đổi từ
vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Các
trường phái triết học thường kế tục mà không gạt bỏ trường phái triết học
trước đó
•
– Do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn Độ cổ
đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nộ dung giáo lý của các
tôn giáo lớn. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng hướng nội đi sâu
tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn
13
cá nhân con người. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ – Trung đại mang nặng tính
chất duy tâm chủ quan và thần bí.
•
– Triết học Ấn Độ Cổ – Trung Đại đã đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề.
Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, các trường phái xoay quanh vấn đề “tính
không”, đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái “không” thể hiện
một trình độ tư duy trừu tượng cao. Song, vấn đề quan tâm nhiều nhất lại là
vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn
gốc nỗi khổ của con người) dưới góc độ tôn giáo với xu hướng “hướng nội”
nhằn tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra
khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khắc nghiệt.
•
– Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống
nhất ở chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng
nhất thể của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải thoát;
một số nguyên lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn
Độ chia thành nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy vật,
mỗi trường phái là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều
vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
•
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9 trường
phái:
•
• Sáu trường phái “chính thống” là:
•
+Vedanta: xuất hiện vào thế kỷ II TCN đưa ra các kiến giải siêu hình và duy
tâm về nguyên nhân hình thành thế giới (vũ trụ và vạn vật)
•
+ Samkhya: xuất hiện vào những năm 350-250 TCN. Lý luận cơ bản của
phái này là học thuyết duy vật về bản nguyên của thế giới
•
+ Yoga: xuất hiện vào thế kỷ thứ II TCN. Tư tưởng triết học cốt lõi của phái
này là sự thừa nhận nguyên lý hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể và thông
qua các phương pháp yoga mà mỗi cá thể có thể tập luyện để khai thác được
sức mạnh của vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm chủ mình, tiến tới làm chủ
môi trường, và sau cùng, vươn tới sự giải thoát.
•
+ Mimansa: xuất hiện vào thế kỷ thứ II TCN. Mimansa đưa ra các ý kiến
nhằm biện hộ, củng cố và tuyên truyền cho các nghi thức được đề cập đến
trong Vêđa nói chung, trong giáo lý đạo Bàlamôn-Hinđu nói riêng
•
+ Vaisesika: xuất hiện vào thế kỷ II TCN. Nội dung tư tưởng của phái này và
phái Nyaya có nhiều điểm giống nhau. Tư tưởng chủ đạo của phái này tập
trung trong nguyên tử luận, logic học và nhận thức luận.
•
+ Nyaya: xuất hiện vào thế kỷ III TCN Lý luận cơ bản của phái này bao gồm
3 bộ phận là nguyên tử luận, logic học và nhận thức luận
•
• Ba trường phái “không chính thống” là:
•
+ Lokayata: trường phái triết học vô thần, duy vật, chủ trương khoái lạc duy
nhất ở Ấn Độ
14
•
+ Jaina: xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN. Tư tưởng triết học cơ bản của
phái này là thuyết về sự tương đối, cố dung hòa quan niệm về thực thể bất
biến với quan niệm vô thường.
•
+ Buddha (Phật giáo): xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ V TCN. Kinh điển
của Phạt giáo chia thành Tam tạng (Kinh, Luật, Luận). Tam tạng lại được
chia làm 2 loại là Đại thừa và Tiểu thừa. Tư tưởng triết học cơ bản của Phật
giáo nguyên thủy chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật
thích ca- triết lý về cái khổ và con đường diệt khổ.
•
Những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều kiện tự nhiên,
kinh tế – xã hội của Ấn Độ cổ đại quy định. Do các điều kiện tự nhiên, về con
người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh, nền triết
học Ấn Độ đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản
chất rất Ấn Độ, rất phương Đông. Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như
các nền triết học khác đều dựa trên những cơ sở nhất định, nó là sản phẩm
tinh thần của đời sống hiện thực xã hội:
•
– Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường phái và
suy cho cùng nó phản ánh nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tôn giáo là
trung tâm điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn Độ chủ yếu đi theo
hướng tuần tự thay đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được đặt
ra từ thời cổ xưa, về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
•
– Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm; sự
phát triển đi theo vòng tròn, tuần hoàn. Điều này do công xã nông thôn biệt
lập, khép kín ở Ấn Độ quy định. Khác với triết học Trung Quốc, tư duy trong
triết học Ấn Độ không trọng cái cụ thể, hữu hạn; họ muốn vượt cái này để đi
đến cái tuyệt đối. Sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc
hữu hóa ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, chi phối và ảnh hưởng tới toàn
bộ các mặt lịch sử của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát của văn hóa và
triết học. Trên cơ sở “phương thức sản xuất châu Á”, xã hội Ấn Độ được kết
cấuvới ba nhóm cơ bản: nhóm (thực chất là quan hệ gia đình, dòng họ), cộng
đồng tự trị làng – xã và bang (tiểu quốc) với chế độ đẳng cấp ngặt nghèo. Xét
trong điều kiện tồn tại xã hội như vậy thì triết học của Ấn Độ gắn chặt với
vấn đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố khách quan
•
– Quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ đã đã làm cho kết cấu xã hội – giai cấp thêm
phức tạp. Theo kinh điển Bàlamôn và Bộ luật Manu của Ấn Độ, trong xã hội
có bốn đặc cấp lớn: Tăng lữ; các đạo sỹ (Brahman); quý tộc; vương công,
tướng sĩ, võ sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường dân
(Vaisya); nô lệ và tiện dân (Ksudra). Ngoài ra còn có hạng “cùng đinh” được
coi là ngoài lề xã hội (Paria).Sự phân biệt về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi,
tôn giáo, nghề nghiệp tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội nhưng
bị kiềm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước – tôn giáo.
•
– Điều kiện địa lý của môi trường của Ấn Độ rất đa dạng, phức tạp như núi
non hiểm trở, sa mạc khô cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán liên
miên; thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho dân cư và các bộ
15
tộc ở Ấn Độ bị phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác động, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống, tâm tư, tình cảm của người dân Ấn Độ; điều đó
đã buộc họ phải tìm đến, cầu xin các lực lượng siêu nhiên, bên ngoài là
Thượng đế cứu giúp. Các vấn đề tôn giáo, tâm linh nảy sinh, tồn tại và phát
triển trên mảnh đất hiện thực này.
•
– Triết học Ấn Độ không chỉ nảy sinh từ những cơ sở nêu trên mà còn gắn
với các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và văn hóa của Ấn Độ. Các biến
động lớn các điều kiện về tự nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính
trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh làm xuất hiện các trường phái trong hai hệ
thống triết học nêu trên.
Chứng minh rằng, triết học phương Tây thời trung đại chỉ là công cụ tinh
thần của nhà thờ Thiên chúa giáo dùng để củng cố vai trò thống trị của mình
trước những thế lực khác trong đời sống xã hội.
Thời kỳ trung đại ở Phương Tây lúc đầu là cơ đốc giáo, sau là Thiên chúa giáo
là hệ tư tưởng thống trị, những giáo lý tôn giáo trở thành nguyên lý về chính trị,
kinh thánh có vai trò như luật lệ trong mọi cuộc xét sử, tín điều nhà thờ là điểm
xuất phát của mọi tư duy, thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học
và chính trị.
Nhà thờ thiên chúa giáo là thế lực phong kiến quan trọng, là một thế lực hùng
mạnh không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, tinh thần. Nhà thờ có quyền sở
hiệu đối với nhiều ruộng đất, là đại diện cho phát luật và chính trị, là công cụ
thống trị quần chúng về mặt tinh thần. Toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội đều
đặt dưới sự thống trị của nhà thơ thiên chúa giáo. Sự cắt cứ phong kiến làm nảy
sinh nhu cầu phải có một sự thống nhất trong hoạt động. Thiên chúa giáo là công
cụ tinh thần thiêng liêng giúp thực hiện sự thống nhất đó. Hơn nữa, Thiên chúa
giáo còn mang lại niềm tin duy nhất cho đông đảo nông dân bị tước hết mọi
quyền lợi, và đặc biệt tối tăm về trí tuệ. Thiên chúa giáo đã thực sự trở thành tôn
giáo cần thiết cho xã hội phương Tây trong thời kỳ này.
Triết học Tây Âu thời kỳ trung đại bị chi phối mạnh bởi tư tưởng thần học và
tôn giáo của thiên chúa giáo. Triết học thời kỳ này mang đậm tính tôn giáo, hầu
hết các nhà triết học là và chứng minh cho những tín điều tôn giáo của nhà thờ.
Triết học phương Tây thời kỳ trung đại là triết học-thần học. Trong điều kiện tôn
giáo thống trị mọi mặt đời sống tinh thần của xã hội thì kho học và triết học
không thể không bị phụ thuộc vào thần học. Lúc này, tín điều của Nhà thờ trở
thành cơ sở cho mọi hành vi hoạt động của con người, thế giới quan thần học bao
trùm lên đời sống hoạt động của họ. Triết học trở thành công cụ để chứng minh
cho giáo lý của Nhà thờ. Nó phải “ luận chứng” cho niềm tin cao hơn lý trí, nó
giúp khẳng định vai trò sáng chế và kiến tạo trật tự xã hội của phong kiến, làm
cho quần chúng tin vào sự bất bình đẳng và sự bóc lột trong xã hội là do sự định
đoạt sẵn của Đấng bề trên.
16
Như vậy,Triết học phương Tây thời trung đại chỉ là công cụ tinh thần của nhà
thờ Thiên chúa giáo dùng để củng cố vai trò thống trị của mình trước những thế
lực khác trong đời sống xã hội.
Chứng minh rằng, triết học phương Tây thời phục hưng – cận đại thật sự là
công cụ tinh thần của giai cấp tư sản và các tầng lớp tiến bộ trong xã hội đấu
tranh với các thế lực cũ nhằm tạo dựng nên một thời đại mới.
Thế kỷ XV – XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là
thời kỳ có sự khôi phục lại nền văn hóa cổ đại. Về mặt hình thái kinh tế – xã hội
đó là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần học
và tôn giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp tư
sản mới hình thành và là giai cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên
để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất. Sự phát triển của khoa học, về
khách quan đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm tôn giáo.
Sự phát triển khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra
những kết luận có tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể. Thời kỳ này
đã có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô,
Galilê, Nicôlai Kuzan, Tômát Morơ, v.v..
Trong các nhà tư tưởng đó thì Côpécních (1475 – 1543), người Ba Lan, có
ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của triết học và khoa học thời kỳ phục hưng
sau này. Thuyết mặt trời là trung tâm do ông xây dựng đã giáng một đòn rất nặng
vào tôn giáo và nhà thờ, bác bỏ quan điểm của kinh thánh đạo Cơ đốc về Thượng
đế sáng tạo ra thế giới trong vài ngày. Thuyết này đã đánh đổ thuyết “trái đất là
trung tâm” của Ptôlêmê (người Hy Lạp, thế kỷ II) cho rằng, trái đất là bất động và
ở trung tâm vũ trụ, còn vũ trụ xoay xung quanh trái đất. Côpécních đã chứng
minh rằng, mặt trời ở trung tâm vũ trụ, các hành tinh (kể cả trái đất) di chuyển
xung quanh mặt trời. Thuyết nhật tâm đã đả kích vào chính nền tảng của thế giới
quan tôn giáo và đánh dấu sự giải phóng khoa học tự nhiên khỏi thần học và tôn
giáo. Phát minh của Côpécních là “một cuộc cách mạng trên trời”, báo trước một
cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội.
Brunô (1548 – 1600), nhà triết học Italia, người kế tục và phát triển học
thuyết của Côpécních. Khi tán thành quan niệm của Côpécních “mặt trời là trung
tâm”, Brunô đã bổ sung thêm rằng, có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một
bầu không khí cùng xoay với trái đất và mặt trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Ông
đã chứng minh về tính thống nhất vật chất của thế giới (vũ trụ). Theo ông có vô
vàn thế giới giống thái dương hệ của chúng ta. Với học thuyết đó, Brunô đã bác
bỏ một quan điểm cơ bản của tôn giáo về sựtồn tại của thế giới bên kia, thế giới
thần linh. Ông còn cho rằng, thế giới vật chất vận động không ngừng. Triết học
của Brunô cũng như các nhà triết học tiến bộ khác thời kỳ phục hưng đã bị nhà
17
thờ lên án; bản thân Brunô đã bị toà án tôn giáo kết án tử hình và thiêu sống tại
La Mã. Điều đó phản ánh lịch sử vào thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo diễn ra gay gắt. Tuy nhiên cũng cần
thấy rằng, triết học của hầu hết các nhà tư tưởng thời kỳ này còn lẫn lộn các yếu
tố duy vật với duy tâm và có tính chất phiếm thần luận (chẳng hạn, Brunô cho
rằng Thượng đế và tự nhiên chỉ là một). Cùng với Côpécních và Brunô, các nhà
triết học và khoa học khác như Galilê,Kuzan, Tômát Morơ… cũng đã có những
đóng góp quan trọng cho sự phục hưng nền văn hóa cổ đại.
2. Triết học Tây Âu cận đại thế kỷ XVII – XVIII
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách mạng
tư sản bắt đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, ý, áo, v.v. và đây cũng là thời kỳ
phát triển rực rỡcủa triết học Tây Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới
làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của
những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn giáng mạnh nhất vào chế độ
phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ XVII) và cách
mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Theo lời Mác, đó là những cuộc cách
mạng có quy mô toàn châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối với
trật tự phong kiến cũ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoahọc
kỹ thuật do nhu cầu của sự phát triển sản xuất; thế kỷ XVII – XVIII cơ học phát
triển, thế kỷ XVIII – XIX, vật lý học, hóa học, sinh học, kinh tế học ra đời. Tất cả
cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi tiếng.
Phranxi Bêcơn (1561 – 1626) là nhà triết học Anh, sống vào thời kỳ tích lũy
tiền tư bản. Về lập trường chính trị, ông là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và
tầng lớp quý tộc mới, là tầng lớp quan tâm đến sự phát triển của công nghiệp và
thương nghiệp. Bêcơn đặt cho triết học của mình nhiệm vụ tìm kiếm con đường
nhận thức sâu sắc giới tự nhiên. Ông đặc biệt đề cao vai trò của tri thức. Ông nói:
Tri thức là sức mạnh mà thiếu nó, con người không thể chiếm lĩnh được của cải
của giới tự nhiên. Ông phê phán phương pháp triết học của các nhà tư tưởng
trung cổ chỉ biết ngồi rút ra sự thông thái của mình từ chính bản thân mình, muốn
thay thế việc nghiên cứu giới tự nhiên và những quy luật của nó bằng những luận
điểm trừu tượng, bằng việc rút ra kết quả riêng từ những kết luận chung chung,
không tính đến sự tồn tại thực tế của chúng. Ông gọi phương pháp ấy của họ là
phương pháp “con nhện”. Bêcơn cũng phê phán phương pháp nghiên cứu của các
nhà kinh nghiệm chủnghĩa. Ông ví họ như những con kiến tha mồi, không biết
chế biến, không hiểu gì cả. Triết học của Bêcơn đã đặt nền móng cho sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc thế kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu.
Tômát Hốpxơ (1588 – 1679) là nhà triết học duy vật Anh nổi tiếng, người kế
tục và hệ thống hóa triết học của Bêcơn. Ông là người sáng tạo ra hệ thống đầu
tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học. Chủ nghĩa duy vật
trong triết học của ông có một hình thức phù hợp với đặc trưng và yêu cầu của
khoa học tự nhiên thời đó.
18
Nhìn chung quan niệm của Hốpxơ về con người như một cơ thể sống cũng
mang tính siêu hình rõ rệt. Dưới con mắt của ông, trái tim con người chỉ như lò
xo, dây thần kinh là những sợi chỉ, còn khớp xương là các bánh xe làm cho cơ thể
chuyển động.
Rơnê Đêcáctơ (1596 – 1654) là nhà triết học và khoa học nổi tiếng người
Pháp. Ông đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đánh giá là một trong
những người sáng lập nên khoa học và triết học của một thời đại mới chống lại
tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinh viện, xây dựng nên một tư duy mới có thể giúp
cho việc nghiên cứu khoa học.
Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đêcáctơ đứng trên lập trường
nhịnguyên luận (thuyết về hai nguồn gốc). Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất
và tinhthần tồn tại độc lập với nhau. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần,
giữa tồn tại và tư duy, song cuối cùng đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, vì ông thừa
nhận rằng hai thực thể vật chất và tinh thần tuy độc lập nhưng đều phụ thuộc vào
thực thể thứ ba, do thực thể thứ ba quyết định, đó là Thượng đế. Đêcáctơ đã đấu
tranh chống lại triết học kinh viện thời trung cổ, phủ nhận uy quyền của nhà thờ
và tôn giáo. Ông muốn sáng tạo một phương pháp khoa học mới nhằm đề cao sức
mạnh lý tưởng của con người, đem lý tính khoa học thay thế cho niềm tin tôn
giáo mù quáng. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học.
Nghi ngờ có thể giúp con người tránh được những ý kiến thiên lệch, xác định
được chân lý. Đêcáctơ nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không
thể nghi ngờrằng anh đang nghi ngờ. Và ông đã đi đến một kết luận nổi tiếng:
“Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại”.
Điểm tiến bộ của luận điểm trên là phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những
cái gì mà người ta mê tín. Trong luận điểm đó cũng thể hiện chủ nghĩa duy lý, vì
ông nhấn mạnh sự suy nghĩ, tư duy. Ông cho rằng không phải cảm giác, mà tư
duy mới chứng minh được sự tồn tại của chủ thể. Và tư duy rõ ràng, mạch lạc là
tiêu chuẩn của chân lý.Nhưng luận điểm “Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại” cũng bộc
lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Đêcáctơ, vì ông đã lấy tư tưởng, lấy sự suy
nghĩ của chủ thể làm khởi điểm của sự tồn tại.
Xpinôda (1632 – 1677) nhà triết học Hà Lan nổi tiếng, nhà duy vật và vô
thần, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ tư sản. Trong lĩnh vực triết học, nói
chung Xpinôda cố gắng khắc phục những sai lầm của triết học Tây Âu thời trung
cổ. Khi chống lại quan điểm nhị nguyên của Đêcáctơ coiquảng tính và tư duy là
hai thực thể hoàn toàn độc lập, Xpinôda là nhà nhất nguyên luận, khẳng định rằng
quảng tính và tư duy là hai thuộc tính của một thực thể.
Ông đã có quan niệm duy vật về thế giới. Thế giới, theo Xpinôda, có vô vàn
cáchthức vận động và đứng im. Có những cách thức thì gắn với thế giới các sự
vật riêng lẻcó quảng tính (khoảng cách); có những cách thức thì gắn với thế giới
các sự vật riêng lẻcó thuộc tính tư duy (thế giới con người).
19
Về tôn giáo, Xpinôda quan niệm rằng, sự sợ hãi là nguyên nhân của mê tín
tôn giáo. Tư tưởng chống giáo quyền của ông thể hiện ở chỗ coi vai trò chính trị
của nh àthờ là ở sự liên minh của nó với chính quyền chuyên chế.
Những tư tưởng duy vật – vô thần của Xpinôda có ảnh hưởng sâu sắc đến
các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII sau này.
Giôn Lốccơ (1632 – 1704) nhà triết học duy vật Anh Lốccơ mở đầu nhận
thức luận của mình bằng việc phê phán học thuyết thừa nhận tồn tại các tư tưởng
bẩm sinh của Đêcáctơ và môn phái theo học thuyết trên.
Theo ông, toàn bộ các tri thức, chân lý đều là kết quả nhận thức của con
người chứ không phải là bẩm sinh.
Từ việc phê phán học thuyết thừa nhận các tư tưởng bẩm sinh, Lốccơ đưa ra
nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch); “Linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể
nóinhư một tờ giấy trắng, không có một ký hiệu hay ý niệm nào cả”
Theo tinh thần duy vật của nguyên lý tabula rasa, Lốccơ khẳng định: “Mọi
tri thứcđều dựa trên kinh nghiệm, và suy cho cùng đều xuất phát từ đó”2
Gioocgiơ Béccli (1684 – 1753) nhà triết học duy tâm, vị linh mục người
Anh. Triết học của ông chứa đầy tư tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan điểm của các nhà duy danh luận thời
trung cổ để khẳng định rằng, khái niệm về vật chất không tồn tại khách quan, mà
chỉ tồn tại những vật cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn
toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần túy mà thôi. Ông đưa ra một
mệnh đề triết học nổi tiếng “vật thể trong thếgiới quanh ta là sự phức hợp của
cảm giác”. Nói tóm lại, theo Béccli, mọi vật chỉ tồn tại trong chừng mực mà
người ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa làđược cảm biết.
Triết học của Béccli (như Lênin nhận xét trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và
chủnghĩa kinh nghiệm phê phán) là mẫu mực và là một trong những nguồn gốc
của các lý thuyết triết học tư sản duy tâm chủ quan cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX.
Đavít Hium (1711 – 1766) nhà triết học, nhà lịch sử, nhà kinh tế học người
Anh. Ông là người sáng lập những nguyên tắc cơ bản của thuyết không thể biết ở
châu Âu thời cận đại. Lý luận nhận thức của Hium xây dựng trên cơ sở kết quả
cải biến chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béccli theo tinh thần của thuyết không
thể biết và hiện tượng luận (một học thuyết triết học cho rằng con người, chỉ nhận
biết được hiện tượng bề ngoài của sự vật, mà không thể xâm nhập được vào bản
chất của chúng, tách rời hiện tượng và bản chất). Trung tâm trong lý luận nhận
thức của Hium là học thuyết về tính nhân quả. Ông đã giải quyết vấn đề mối liên
hệ nhân quả theo lập trường thuyết không thể biết. Ông cho rằng sự tồn tại của
các mối liên hệ này là không thể chứng minh được, bởi vì, cái mà người ta cho là
kết quả thì lại không thể chứa đựng trong cái nguyên nhân, về mặt lôgíc không
thể rút kết quả từ nguyên nhân, kết quả không giống nguyên nhân. Nói cáchkhác,
theo Hium, tính nhân quả không phải là một quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói
quen tâm lý.
20
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Khoa học