Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
Map indicating locations of People's Republic of China and Vietnam

Trung Quốc

Việt Nam

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (Quan hệ Việt-Trung, tiếng Trung: 中越關係) là mối quan hệ giữa 2 nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại. Một chính trị gia Việt Nam tóm gọn mối quan hệ Việt-Trung trong 6 chữ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.[1]

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2.200 năm sống sót từ Thế kỷ II trước Tây lịch đến nay hoàn toàn có thể chia ra 4 thời kỳ cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là ” thời kỳ Bắc thuộc “, dài khoảng chừng 1.000 năm, từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà ( năm 179 tr. TL ), khi mối liên hệ địa chính trị tiên phong giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập trải qua quan hệ Hán-Nam Việt, cho đến thời gian Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( năm 938 sau TL ). Thời kỳ thứ 2 gọi chung là ” thời kỳ Đại Việt “, dài tương tự, từ khi Ngô Quyền xưng vương ( 939 ) đến khi Pháp đặt nền bảo lãnh ở Việt Nam và nhà Thanh công nhận chủ quyền lãnh thổ của Pháp ở đây ( 1883 ). Thời kỳ thứ 3 quen gọi là ” thời kỳ Pháp thuộc “, lê dài khoảng chừng 6 thập niên, từ 1883 – 1945, khi Việt Nam công bố độc lập. Thời kỳ thứ 4 từ 1945 đến nay. Thời kỳ này gồm 3 quá trình : ( 1 ) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, ( 2 ) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, ( 3 ) từ đầu thập niên 90 đến nay. [ 2 ] [ 3 ]

Thời kỳ quân chủ[sửa|sửa mã nguồn]

Lịch sử Việt Nam trong tiến trình hai nghìn năm trước cận đại không hề lý giải đúng mực nếu không gắn với quan hệ về mặt chính trị với Trung Quốc .

Từ cuối Thế kỷ II TCN đến nửa đầu Thế kỷ X, Việt Nam chịu sự thống trị trực tiếp của Trung Quốc trong một nghìn năm cho đến khi giành được độc lập. 1.000 năm này trong lịch sử Việt Nam thường được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”.

Bạn đang đọc: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt">Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt

Từ sau khi thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc giành độc lập vào nửa đầu thế kỷ X đến trước khi rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, trong 1.000 năm, Việt Nam đã thiết lập quan hệ bang giao, vừa duy trì quan hệ thân thiện về chính trị vừa đồng thời đảm nhiệm văn hóa truyền thống Trung Quốc trong ” trật tự quốc tế kiểu Trung Quốc “, theo cách nói của người Trung Quốc. Đây là lúc Việt Nam không còn là quận huyện trong đế quốc Nước Trung Hoa nữa, và Nước Trung Hoa cũng phải đồng ý cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử dân tộc xung đột và thỏa hiệp, thể chế hóa những xung đột và thỏa hiệp ấy. [ 4 ] Việt Nam triển khai 1 chủ trương ngoại giao 2 mặt. 1 mặt trên hình thức Việt Nam vẫn công nhận trật tự quốc tế của Trung Quốc, cử những sứ đoàn ngoại giao sang Trung Quốc bang giao, mặt khác vẫn duy trì nền độc lập của mình. [ 5 ]Đây cũng là thời kỳ nổ ra rất nhiều cuộc xung đột đẫm máu giữa 2 nước, với phần đông những cuộc xâm lược từ Trung Quốc vào Việt Nam .Nhưng người Việt vẫn xưng Hoàng đế để ngang hàng với Hoàng đế Trung Quốc qua những thời kỳ

Thời kỳ Pháp thuộc[sửa|sửa mã nguồn]

Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm 3 kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh 1885, Trung Quốc từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành 1 bộ phận của quan hệ Pháp-Trung. Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình thế giới kiểu Âu, 1 kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa ước Westfalen (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa 2 mô hình Trung Hoa và Tây phương là trật tự thế giới kiểu Trung Hoa đòi hỏi phải có 1 trung tâm thiên hạ, đại diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “thiên tử”, xung quanh Trung Hoa là 1 hệ thống các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là 1 sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi trật tự thế giới kiểu Westfalen không công nhận 1 trung tâm quyền lực tối thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa. Các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.[6] Tuy nhiên, hành xử của các nước Tây phương mang tính 2 mặt. Hình thức ngoại giao là mô hình Westfalen, còn trên thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics).

Tại Việt Nam, Pháp dùng vũ lực chiếm Nam Kỳ và ép nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Tuất ( 1874 ) công nhận chủ quyền lãnh thổ vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ. Sau đó, bằng sức mạnh quân sự chiến lược, Pháp ký với nhà Nguyễn Hòa ước Giáp Thân ( 1884 ) đặt Đại Nam dưới sự bảo lãnh của Pháp. Nhà Thanh ký Hòa ước Thiên Tân ( 1885 ) với Pháp chấm hết cuộc chiến tranh Pháp-Thanh, rút quân Thanh khỏi Bắc Kỳ và công nhận nền bảo lãnh của Pháp với Việt Nam. Trên danh nghĩa nhà Nguyễn vẫn quản lý nước Đại Nam nhưng phải chịu sự chi phối của Khâm sứ đại diện thay mặt cho chính phủ nước nhà Pháp. Riêng so với Nước Trung Hoa, do nước này quá lớn và còn rất mạnh, không 1 đế quốc phương Tây nào đủ năng lực một mình tuyên chiến và xâm lược Trung Quốc, kể cả nước có nhiều thuộc địa nhất thời đó là Đế quốc Anh nên sau năm 1901, khi Trung Quốc thua trận trước liên quân 8 nước và ký Hoà ước Tân Sửu những nước phương Tây bắt Nước Trung Hoa phải tô nhượng cho họ những vùng đất nhỏ ở duyên hải gần đầu mối giao thương mua bán làm tô giới cùng với những quyền hạn về kinh tế tài chính, đồng thời thiết lập những ” vùng tác động ảnh hưởng ” ( là những khu vực ảnh hưởng tác động của những đế quốc phương Tây ở Trung Quốc, những vùng ấy trọn vẹn không phải là thuộc địa, Triều đình Nhà Thanh vẫn có quyền lực tối cao quản lý tối cao nhưng nằm trong sự trấn áp của những cường quốc Châu Âu và ở đó những cường quốc có nhiều quyền hạn về thuế quan, thương mại ) .Thời kỳ này có nhiều nhà cách mạng chống Pháp của Việt Nam, đặc biệt quan trọng trong trào lưu Cần Vương, đã sang Nước Trung Hoa nương náu hoặc cầu viện, như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật … Năm 1884 – 1885, cuộc chiến tranh Pháp-Thanh bùng nổ trên mặt trận miền Bắc Việt Nam .

Thời kỳ văn minh[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Việt Nam xảy ra đại chiến giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp, đồng thời ở Trung Quốc, xảy ra nội chiến giữa 2 bên do Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông đứng đầu, quan hệ thời này chia thành quan hệ giữa 4 bên ( Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trung Hoa Dân quốc và Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa ) .
Giai đoạn này hoàn toàn có thể chia làm những quy trình tiến độ ngắn hơn :

Giai đoạn 1949-1954

Ngày 18/1 / 1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [ 7 ] .Giai đoạn cuộc chiến tranh chống Pháp, kết thúc bằng thắng lợi Điện Biên Phủ. Giai đoạn này Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Việt Minh chống Pháp. Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Trung Quốc được nâng lên cấp đại sứ vào tháng 4 / 1951. [ 8 ]

Giai đoạn 1954-1972

Cuộc trao đổi này diễn ra vào ngày 13/4 / 1966, khi những sự không tương đồng về đường lối trong Phong trào Cộng sản Quốc tế đang tăng trưởng đến đỉnh điểm giữa 2 đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc. Khi đó Việt Nam phải thực hành thực tế 1 chủ trương tạo cân đối trong quan hệ với 2 nước Xã hội Chủ nghĩa khổng lồ là Liên Xô và Trung Quốc để tranh thủ được viện trợ của cả hai. Giai đoạn này dù không chính thức ủng hộ miền Bắc Việt Nam phát động cuộc chiến tranh tại miền Nam [ 9 ], Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống Mỹ. [ 10 ] Trung Quốc khuyên Việt Nam nên đánh lâu dài hơn, đánh du kích và không đánh lớn. Trung Quốc cũng cho Mỹ biết họ sẽ không trực tiếp tham chiến tại Việt Nam nếu Mỹ không đưa quân vượt biên giới Việt-Trung vào chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc [ 11 ]. Do Chia rẽ Trung-Xô nên Trung Quốc không đồng ý phối hợp với Liên Xô ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam cũng như không ủng hộ việc xây dựng Mặt trận quốc tế thống nhất ủng hộ Việt Nam [ 12 ] .Ở phía Nam, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa khá stress khi cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa phủ nhận công nhận Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa, và đồng thời tìm cách đồng điệu người Hoa ở đây với quy mô lớn. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc cũng không công nhận cơ quan chính phủ Việt Nam Cộng hòa, đồng thời phản đối việc quân đội Mỹ thực thi cuộc chiến tranh ở Việt Nam .

Giai đoạn 1972-1979

Khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Mỹ để ký kết Hiệp định Paris 1973, Trung Quốc không ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà rình rập đe dọa sẽ cắt viện trợ nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa hiệp với Mỹ [ 13 ]. Từ năm 1969 Trung Quốc đã giảm viện trợ cho Việt Nam 20 % so với năm 1968 do Việt Nam tự đàm phán với Mỹ để chấm hết cuộc chiến tranh ( không mời Trung Quốc ) [ 14 ]. Cuối thập kỷ 1960, Trung Quốc rút gần như là tổng thể quân đội về nước [ 15 ] .Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon sang thăm Trung Quốc. 2 nước ký Tuyên bố chung Thượng Hải, đặt nền móng cho liên minh kế hoạch chống lại Liên Xô. Việc Trung Quốc bắt tay với Mỹ làm rạn nứt quan hệ 2 nước, khiến Việt Nam xích lại gần Liên Xô. Khi Trung Quốc đàm phán với Mỹ để thông thường hóa quan hệ giữa 2 vương quốc yếu tố Việt Nam trở thành chủ đề bàn luận của 2 bên [ 16 ]. Mỹ nhu yếu Trung Quốc chấm hết ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xâm lược Việt Nam Cộng hòa [ 16 ]. Trung Quốc đề xuất Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sớm thỏa hiệp với Mỹ để họ rút quân về nước và trao trả tù binh cho Mỹ trong khi Mỹ muốn có 1 giải pháp có lợi cho họ và liên minh Việt Nam Cộng hòa [ 16 ] đồng thời giảm viện trợ cho nhà nước này [ 15 ]. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng Trung Quốc đã phản bội họ [ 16 ]. Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày càng xấu đi nhất là sau sự kiện Hải chiến Hoàng Sa 1974 mà Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm hòn đảo từ lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Điều này được coi như là giọt nước tràn ly mà đến nay nhiều người Việt xem là hành vi xâm lăng của Trung Quốc và đến giờ vẫn là điều khó phai trong quan hệ 2 nước .Sau khi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến công trấn áp hàng loạt miền Nam Việt Nam, thống nhất 2 miền vào năm 1975, quan hệ Việt-Trung ngày càng stress. Trung Quốc cắt giảm mạnh viện trợ cho Việt Nam với nguyên do họ đang gặp nhiều khó khăn vất vả [ 15 ]. Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Trung Quốc chấm hết viện trợ cho Việt Nam. 1 mặt do quan hệ Liên Xô – Trung Quốc vẫn ở trạng thái thù địch, mà Việt Nam lại ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết khiến Trung Quốc muốn có 1 liên minh khác tại Khu vực Đông Nam Á sửa chữa thay thế Việt Nam nên họ trợ giúp tổng lực chính quyền sở tại Khmer Đỏ tại Campuchia. Tuy nhiên tới giữa 1978, Trung Quốc vẫn mong ước lôi kéo Việt Nam khỏi quan hệ liên minh thân thiện với Liên Xô [ 15 ]. Nhờ có viện trợ của Trung Quốc nên Khmer Đỏ cảm thấy tự tin hơn và triển khai quấy phá biên giới phía Nam Việt Nam cũng như Lào và Vương Quốc của nụ cười. Khi quân đội Việt Nam lật đổ chính quyền sở tại Khmer Đỏ, Trung Quốc càng thù địch với Việt Nam hơn. Năm 1978, chính quyền sở tại Việt Nam tái tạo công thương nghiệp tại miền Nam Việt Nam khiến hội đồng người Hoa ở đây chịu thiệt hại nặng trong khi đó quan hệ Việt-Trung ngày càng xấu đi khiến người Hoa ồ ạt di tán khỏi Việt Nam [ 15 ]. Trung Quốc tố cáo Việt Nam đã xua đuổi người Hoa khỏi nước này. Quan hệ giữa 2 vương quốc cực kỳ căng thẳng mệt mỏi .
Một áp phích của Việt Nam năm 1979 cho thấy quan hệ căng thẳng mệt mỏi giữa hai nước vào thời gian này .

Chiến tranh biên giới Việt Trung xảy ra tháng 2/1979 là cực điểm của quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong thời gian đó, Việt Nam gọi Trung Quốc là “phản động”, “bành trướng”, “bá quyền”. Đồng thời Trung Quốc cũng gọi Việt Nam là “côn đồ”, “tiểu bá”. Việt Nam cũng thường chỉ trích Trung Quốc đã theo chiến lược “liên Mỹ đả Việt” và xem đó là quốc sách của Trung Quốc trong thời điểm đó, đặc biệt sau khi Việt Nam biết được những cuộc mật đàm giữa Chu Ân Lai và Henry Kissinger. Trong khi đó Trung Quốc muốn cải thiện quan hệ Mỹ-Trung để phá vỡ thế bị cô lập trong quan hệ quốc tế và cải cách kinh tế, mở cửa giao thương với toàn thế giới[17]. Tại thời điểm này Việt Nam bị rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Đông Nam Á lên án vì đã can thiệp quân sự vào Campuchia. Chỉ có Liên Xô và các đồng minh thân cận của nước này ủng hộ Việt Nam.

Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 xảy ra, kéo dài suốt hơn 10 năm, để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Phía Trung Quốc cho rằng cuộc chiến 1979 chủ yếu để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì “xâm lăng Campuchia”, nước khi đó là đồng minh của Trung Quốc.[18] Theo Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung Quốc đánh Việt Nam “Cũng một cách nữa là họ trả thù cho Pol Pot. Đồng thời lúc bấy giờ ông Đặng Tiểu Bình cũng muốn quan hệ với Mỹ cho nên đánh chúng tôi để cho Mỹ thấy rằng là giữa Trung Quốc và Việt Nam không phải là đồng minh, không phải là cùng nhau Cộng sản nữa. Trung Quốc muốn cho Mỹ tin để phát triển quan hệ với Trung Quốc. Vì Trung Quốc lúc bấy giờ muốn phát triển quan hệ với Mỹ. Đánh Việt Nam là một món quà tặng cho Mỹ.“[19] Cuộc chiến với Việt Nam cũng là cách để quân đội Trung Quốc tập luyện sau một thời gian dài không có chiến tranh cũng như thúc đẩy quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.

Năm 1988, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Nước Trung Hoa đưa quân chiếm đóng bãi đá Colin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, do 3 bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Nhân dân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ, đánh trả và cuộc chiến nổ ra vào ngày 14/3/1988. Phía Việt Nam mất 3 tàu vận tải đường bộ của thủy quân Việt Nam, 64 chiến sỹ thủy quân Việt Nam đã quyết tử. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc đã chiếm đóng bãi đá Gạc Ma và 2 nước cùng cho thủy quân ra đóng giữ 1 số ít bãi ngầm khác mà 2 bên cùng công bố chủ quyền lãnh thổ .

Bình thường hóa quan hệ[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1989, với việc rút quân của Việt Nam khỏi Campuchia, quan hệ Việt Trung có cơ sở để thông thường hóa. Hội nghị Thủ Đô ngày 3-4 / 9 / 1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung-Việt. Tại đây, phía Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Đỗ Mười, quản trị Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Phía Trung Quốc có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Cuộc gặp mặt này được thực thi theo gợi ý của Đặng Tiểu Bình. Hai bên ký kết Kỷ yếu Hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Nhưng người được cho là đóng vai trò liên lạc trong mật nghị là ông Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng Bộ quốc Phòng, đã có những buổi tiếp bí hiểm với ông Trương Đức Duy, Đại sứ toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam. Tất cả những cuộc gặp mặt bí hiểm này vẫn còn nằm trong vòng bí hiểm .Ngày 5/11 / 1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, quản trị Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7/11 / 1991, Hiệp định mậu dịch Trung – Việt và hiệp định trong thời điểm tạm thời về việc giải quyết và xử lý việc làm biên giới 2 nước đã được ký tại Nhà khách vương quốc Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh .
Cột mốc ở khu vực biên giới Việt Nam – Trung QuốcQuan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI tăng trưởng theo hướng Việt Nam ngày càng có quan hệ sâu rộng với Trung Quốc trong hầu hết những nghành nghề dịch vụ, đặc biệt quan trọng là kinh tế tài chính và chính trị. Báo chí Việt Nam những năm gần đây luôn luôn ca tụng tình hữu hảo 2 nước, mặc dầu 2 bên có tranh chấp tại khu vực biển Đông mà cả hai nước đều công bố chủ quyền lãnh thổ. Dưới thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký 2 Hiệp định Biên giới trên bộ và phân loại vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc. Theo báo chí truyền thông chính thống của Việt Nam, Việt Nam có quan hệ mật thiết ” môi hở răng lạnh ” với Trung Quốc. Hai nước đều do 2 Đảng Cộng sản chỉ huy .Giai đoạn sau này ghi lại bằng một số ít mốc sau :
Các yếu tố còn nổi cộm trong quan hệ giữa hai nước gồm có :

Ảnh hưởng văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Trung Quốc liên tục có những ảnh hưởng tác động về Văn hóa tới Việt Nam kể từ sau khi thông thường hóa quan hệ, được cho phép những mô hình văn hóa truyền thống của Trung Quốc được xuất bản thoáng đãng tại Việt Nam. Rất nhiều những loại phim Trung Quốc được dịch và trình chiếu tại những đài truyền hình Trung ương và địa phương .

Quan hệ kinh tế tài chính và thương mại[sửa|sửa mã nguồn]

Số liệu mậu dịch song phương Việt Nam – Trung Quốc (tỷ USD)[21]
Năm Tổng lượng nhập từ Trung Quốc Tổng lượng xuất sang Trung Quốc
2007 12,709 3,646
2008 15,973 4,850
2009 16,673 5,402
2010 20,203 7,742
2011 24,866 11,613

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên nhất trí tăng trưởng ” quan hệ đối tác hợp tác chiến lược tổng lực “. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược tổng lực với Nga, Trung Quốc và Ấn Độ .Từ khi thông thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế tài chính thương mại Trung Quốc – Việt Nam được Phục hồi và tăng trưởng nhanh gọn. Kim ngạch thương mại giữa 2 nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700 lần. Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam [ 22 ], vừa là nguồn nhập khẩu lớn nhất vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam [ 23 ] [ 24 ]. Lợi ích thương mại song phương mang lại cho 2 nước là điều thuận tiện nhìn thấy. Hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc của Việt Nam đa phần gồm dầu thô, than đá và 1 số ít nông sản nhiệt đới gió mùa, mẫu sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc đa phần có máy móc thiết bị, thép, loại sản phẩm hóa chất, thiết bị vận tải đường bộ, linh phụ kiện điện tử, điện thoại cảm ứng, nguyên phụ kiện dệt may, da giày, phân bón, vật tư nông nghiệp, và hàng tiêu dùng. Có thể thấy, những năm gần đây, cấu trúc hàng thương mại giữa 2 nước biến hóa không lớn, Việt Nam vẫn dựa vào xuất khẩu tài nguyên, nguyên vật liệu thô và nông sản là hầu hết trong đó có xuất khẩu bauxite sang Trung Quốc theo thỏa thuận hợp tác hợp tác kinh tế tài chính giữa hai vương quốc. [ 25 ] ; còn nhập khẩu từ Trung Quốc hầu hết là nguyên vật liệu nguồn vào cho sản xuất, hàng công nghiệp và hàng tiêu dùng do năng lực cạnh tranh đối đầu của hàng Việt Nam so với Trung Quốc còn yếu, nhiều loại sản phẩm Việt Nam chưa tự sản xuất được nên phải nhập khẩu từ Trung Quốc. [ 26 ] Nhưng cùng với thương mại song phương liên tục tăng trưởng, yếu tố mất cân đối trong thương mại giữa hai nước đã ngày càng thể hiện. Việt Nam rất là coi trọng yếu tố nhập siêu trong thương mại với Trung Quốc. [ 27 ] Việt Nam nỗ lực tăng xuất khẩu sang Trung Quốc để cân đối cán cân thương mại nhưng cơ cấu tổ chức hàng xuất khẩu không có sự đổi khác lớn vì hàng công nghiệp của Việt Nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh đối đầu trên thị trường Trung Quốc. Đến đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, một số ít loại sản phẩm nông nghiệp và dầu thô giảm ; Trung Quốc hiện vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam [ 28 ] [ 29 ] [ 30 ]. Nền kinh tế tài chính Việt Nam phụ thuộc vào rất lớn vào thương mại song phương giữa hai nước [ 31 ] .Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tham gia góp vốn đầu tư nhiều dự án Bất Động Sản lớn tại Việt Nam. Nhiều dự án Bất Động Sản lớn được những nhà thầu Trung Quốc thắng thầu và tiến hành [ 32 ]. Trong những dự án Bất Động Sản nhiệt điện, hạ tầng, vốn vay của Trung Quốc ngày càng tăng trong tổng lượng vốn vay của Việt Nam. [ 33 ] Sự tham gia của Trung Quốc trong 1 số ít dự án Bất Động Sản như trồng rừng ở biên giới, dự án Bất Động Sản khai thác bô xít ở Tây Nguyên gây ra dư luận lo lắng sự hiện hữu của họ tại những khu vực này hoàn toàn có thể tác động ảnh hưởng đến bảo mật an ninh – quốc phòng của Việt Nam [ 34 ] [ 35 ] .Vị trí địa lý nằm phía Nam Trung Quốc, thị trường hơn 1 tỷ dân, là một điều kiện kèm theo thuận tiện cho tăng trưởng kinh tế tài chính mà Việt Nam phải tận dụng nhưng đồng thời cũng là thử thách lớn khi Trung Quốc là công xưởng của quốc tế vì họ có năng lực sản xuất ra sản phẩm & hàng hóa với ngân sách thấp, phong phú về chủng loại và mẫu mã, có sức cạnh tranh đối đầu cao .

Quan hệ chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi bình thường hóa quan hệ, hai nước đã nỗ lực đẩy mạnh quan hệ chính trị. Hai bên tránh nhắc lại những bất đồng, xung đột trong quá khứ để hướng đến tương lai. Về mặt ngoại giao chính thức, Việt Nam luôn cam kết tuân theo “Phương châm 16 chữ vàng”, là láng giềng tốt của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc sẽ kiềm chế những xung đột, tranh chấp trên biển Đông, không để ảnh hưởng đến quan hệ giữa 2 nước. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng họp báo (10/4/2007 tại Bắc Kinh) và tuyên bố: “Quan hệ Trung-Việt chưa lúc nào tốt đẹp như lúc này“.

Kỷ niệm 64 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Trung ( 18/1 / 1950 – 18/1 / năm trước ) ngày 17/1 / năm trước, Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc đã tổ chức triển khai chiêu đãi trang trọng. Đại sứ Nguyễn Văn Thơ cho biết Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng sự ủng hộ quý báu và hiệu suất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc so với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc bản địa và thống nhất quốc gia của nhân dân Việt Nam trước kia cũng như trong công cuộc kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội thời nay. Đại sứ cho biết năm 2013, quan hệ Việt-Trung về toàn diện và tổng thể đã đạt được nhiều tăng trưởng mới cả chiều rộng lẫn chiều sâu. [ 36 ]Việt Nam liên tục học hỏi kinh nghiệm tay nghề của Trung Quốc trong hoạt động giải trí điều hành quản lý kinh tế tài chính – xã hội do Trung Quốc có nhiều điểm tương đương với Việt Nam, hơn thế nữa Trung Quốc cũng đang trong quy trình quy đổi kinh tế tài chính như Việt Nam .Tuy nhiên một số ít phương tiện đi lại truyền thông online của Trung Quốc tuyên truyền làm hầu hết người dân Trung Quốc luôn nhầm lẫn rằng Việt Nam là quân địch của nước họ. Báo Trung Quốc viết rằng Việt Nam chiếm đất, chiếm những quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Trung Quốc nhằm mục đích đoạt nguồn dầu khí và món ăn hải sản của Trung Quốc. [ 37 ] Còn tại Việt Nam, một số ít cá thể, tổ chức triển khai luôn nói đến những tranh chấp, xung đột giữa 2 nước trong quá khứ lẫn hiện tại để xu thế dư luận xem Trung Quốc là mối rình rập đe dọa bảo mật an ninh của Việt Nam từ đó chỉ trích chính quyền sở tại Việt Nam vì đã duy trì quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, thậm chí còn lên án chính quyền sở tại là tay sai của Trung Quốc. nhà nước Trung Quốc và Việt Nam luôn ý thức rằng phải kiềm chế những thành phần cực đoan ở mỗi nước, không để họ gây ảnh hưởng tác động xấu đến quan hệ Việt-Trung .
Ngô Sĩ Liên, người biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư đã than về việc một ông vua nước Nam Lý Phật Tử ( lên ngôi sau cái chết của Lý Nam Đế, người đã thiết kế xây dựng cuộc khởi nghĩa năm 541 chống lại sự chi phối của Trung Quốc ) thu phục nhà Tùy ( Trung Quốc ) như sau :

“Sự cường nhược của Nam Bắc đều có lúc. Nếu phương Bắc yếu thì ta mạnh, nếu phương Bắc mạnh thì ta yếu, ấy là đại thế thiên hạ.”.[38]

Vũ Hồng Lâm đánh giá và nhận định :

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài. Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22 thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chíp (micro- processor) gắn vào thân thể người đó:

  • không rời nhau được, nhưng lại
  • không đồng hóa được nhau, nhất là
  • không bao giờ cùng đẳng cấp,
  • và nhiều đặc điểm khác.

Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.[39]

Nhận định của Nguyễn Thị Mai Hoa :

Cũng như một số quốc gia trong khu vực, Việt Nam có người láng giềng phương Bắc to lớn là Trung Quốc. Quan hệ Việt – Trung đã trải qua những thăng trầm lịch sử, được bình thường hóa vào năm 1991 và hiện tại trong quan hệ giữa hai nước “điểm nhạy cảm” là biển Đông lại dậy sóng.Với tầm quan trọng của biển Đông, Trung Quốc luôn coi đây là “không gian sinh tồn”,đặt mục tiêu phải sở hữu bằng được các lợi ích của biển Đông, tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết lãnh hải biển Đông, biến biển Đông thành “ao sau” nhà mình, nhằm mở rộng cương vực sinh tồn, tạo thêm sức mạnh trong cán cân quyền lực ở châu Á – Thái Bình Dương. Các lấn chiếm của Trung Quốc trên biển Đông không những sẽ hạn chế khả năng, triển vọng kinh tế của Việt Nam, mà còn làm cho Việt Nam rất dễ bị sức ép của Trung Quốc về phương diện quân sự. Xung quanh những bất đồng về biển Đông, hai nước đã không ít lần có đụng độ vũ trang, va chạm trên biển, lúc căng thẳng, lúc chùng xuống, song mật độ thì có vẻ như ngày càng dày hơn dù hai nước tuyên bố kiềm chế và giải quyết thông qua đối thoại, thương lượng hòa bình. Trong điều kiện đó, Việt Nam cần nhiều bạn bè đồng minh hơn bao giờ hết.[40]

Tướng Quân đội Nhân dân Nguyễn Trọng Vĩnh cho là :

Trung Quốc “nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương – vị trí chiến lược trọng yếu của Việt Nam – qua kế hoạch khai thác bô-xít Tây nguyên, rồi thuê rừng đầu nguồn trong 50 năm, tự ý bày ra “đường lưỡi bò” để chiếm gần trọn biển Đông, cấm đánh cá, bắn giết, bắt, phạt tiền ngư dân Việt Nam, thuê dài hạn 1 đoạn bờ biển Đà Nẵng. Đó là chưa kể họ xây đập trên thượng nguồn sông Mêkông khiến tác hại đến “vựa lúa”, hoa màu và thủy sản ở Nam Bộ…. Thế là, trên khắp đất nước ta, từ “nóc nhà Đông Dương”, từ rừng núi tới đồng bằng, đến ven biển đã có hàng vạn người Trung Quốc rải ra, có là mối nguy tiềm ẩn không? Từ những tình hình trên, rõ ràng Việt Nam ta bị hại đủ đường, và bị o ép tứ phía. Vì đâu nên nỗi này? Nhân dân ta nghĩ gì?” [41]

Nhà thơ Bùi Minh Quốc cho rằng :

Lâu nay khi nói đến chống diễn biến hòa bình chúng ta thường chỉ chú ý nhìn về phía tây, phía các nước đế quốc thù địch cũ. Thế là chệch hướng rất tai hại, là mất cảnh giác rất nghiêm trọng, một sự mất cảnh giác chiến lược…Trước hết phải vạch ra cho cụ thể, dứt khoát: trong các thế lực thù địch hiện nay, thì thế lực nào là nguy hiểm nhất? Câu trả lời đã rõ như ban ngày: đó là thế lực bành trướng hiện đại trong giới cầm quyền Trung Quốc, chứ không phải những thế lực từ phương tây hay từ cộng đồng người Việt hải ngoại.” [41]

Nhận định nhân chuyến thăm 3 ngày, từ 25 tới 27/12/2014, của chỉ huy hạng sang Trung Quốc, Du Chính Thanh, quản trị Chính hiệp Trung Quốc, gặp gỡ những chỉ huy hạng sang của Việt Nam từ Tổng bí thư, tới quản trị Nước và Thủ tướng nhà nước. [ 42 ]

  • Về hệ thống chính sách và chiến lược đối nội và đối ngoại của Trung Quốc, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu thuộc Ban Dân vận Trung ương nói: “Những điều mà Trung Quốc hiện nay họ đang làm là một ẩn số, Trung Quốc đang là một ẩn số. Nhưng cái lộ rõ để cho người ta thấy thì nó thể hiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán, mà con đường, phương thức vẫn là Đế quốc Chủ nghĩa. Dùng bạo quyền để mở rộng biên giới, mở rộng vùng ảnh hưởng, mở rộng cái thể địa chính trị mới bằng con đường như thế.
  • Phó Giáo sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Vụ Phó Ban Biên giới Chính phủ nhận xét: “… nhưng tôi tin chắc rằng họ vẫn kiên định đường lối của họ trong quan hệ mang tính chất nước lớn áp đặt đối với Việt Nam.

Ông Lê Hồng Hiệp đánh giá và nhận định :

trong khi quan hệ của Hà Nội với Hoa Kỳ ngày càng cải thiện, đặc biệt là trên khía cạnh niềm tin chiến lược, thì quan hệ Việt – Trung vẫn đang căng thẳng, niềm tin giảm sút, chủ yếu do vấn đề tranh chấp Biển Đông. Tuy xu hướng là như vậy, nhưng thực tế diễn tiến các cặp quan hệ đó không mang tính tuyến tính, mà có sự thăng trầm theo thời gian, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc nên nhìn chung ở đây có sự tương tác qua lại giữa hai cặp quan hệ. Mỹ – Trung như hai cực trái dấu, Việt Nam nằm ở giữa. Dù Việt Nam muốn giữ cân bằng giữa hai bên, nhưng rõ ràng việc dịch lại gần một bên sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ với bên còn lại… duy trì sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc là một trong những thách thức lớn nhất về chính sách đối ngoại mà Việt Nam phải xử lý trong thời gian tới… chính sách đối ngoại Việt Nam hiện tại thực dụng và ít dựa vào ý thức hệ hơn so với trước Đổi Mới. Điều này thể hiện rõ nhất qua lập trường cứng rắn hơn của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông và trong quan hệ với Trung Quốc, quốc gia có chung ý thức hệ, cũng như việc Việt Nam xích lại gần hơn với Hoa Kỳ bất chấp khác biệt chính trị… Xử lý tranh chấp Biển Đông là một thách thức khác trong chính sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam. Phải thừa nhận rằng đây là một vấn đề vô cùng khó khăn vì Việt Nam phải đối đầu với một Trung Quốc mạnh hơn nhiều lần về mọi mặt, lại đang trong thế đi lên, đặc biệt lại có chiều hướng thách thức trật tự khu vực hiện tại và muốn diễn dịch luật pháp quốc tế theo hướng có lợi cho mình. Theo tôi cho đến lúc này thì chính sách của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông đang đi đúng hướng. Có thể có người chỉ trích chính sách của Việt Nam quá mềm mỏng với Trung Quốc, như trong vụ Cá Rồng Đỏ, nhưng như đã nói, Việt Nam có thể làm được gì hơn trước một Trung Quốc vừa mạnh vừa hung hăng như thế? Xung đột vũ trang sẽ là một lựa chọn không khả thi… Mục tiêu của Việt Nam là vừa bảo vệ lợi ích trên Biển Đông, vừa giữ được hòa bình, ổn định để phát triển, nên có lúc phải lùi một bước để tiến hai bước. Trong những bước tiến đó thời gian qua tôi cho rằng những điểm nhấn quan trọng là việc Việt Nam không ngừng tăng cường năng lực quân sự và chấp pháp biển, và gia tăng quan hệ quốc phòng, chiến lược với các cường quốc chủ chốt và là đối thủ cạnh tranh của Trung Quốc như Mỹ, Nhật, Ấn Độ. Tôi nói chuyện với nhiều chuyên gia nước ngoài thì họ đều đánh giá cao Việt Nam trên những khía cạnh này trong việc đối phó với vấn đề Biển Đông.[43]

Trung Quốc trong mắt công dân Việt Nam[sửa|sửa mã nguồn]

Qua tác dụng thăm dò của Trung tâm Nghiên cứu Pew có trụ sở tại Mỹ công bố hôm 14/7, tại Việt Nam, hơn 60 % những người được hỏi cho biết họ ‘ rất là lo lắng ’ về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc trong khi 56 % số người được khảo sát ở Philippines cũng cho đáp án tựa như .Dẫn lời từ Thanh Phong ( Công dân Việt Nam ) :

“Có cảm giác như là có ác cảm với người Trung Quốc luôn. Những năm gần đây, người Trung Quốc qua Việt Nam làm việc, họ có thái độ rất là kỳ cục. Cho nên, giờ người Việt cũng không thích người Trung Quốc mấy nữa. Hiện nay càng lúc càng đi xuống, xuống tới mức rất thấp. Hồi trước không đến nỗi người ta kỳ thị Trung Quốc, nhưng vài năm gần đây, các vấn đề từ thực phẩm đến nguy cơ bị xâm lược khiến người ta càng lúc càng kỳ thị người Trung Quốc nhiều hơn. Người ta vừa sợ, vừa kỳ thị.”[44]

Cơ quan ngoại giao[sửa|sửa mã nguồn]

– Tại Việt Nam :

– Tại Trung Quốc:

  • Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua. Nhà xuất bản Sự Thật (Bộ Chính trị)., xuất bản năm 1979

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận