Phật giáo – Wikipedia tiếng Việt

Tượng Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ Sarnath thế kỷ thứ 3-4 sau Công nguyên

Phật giáo (chữ Hán: 佛教 – chữ Phạn: बुद्ध धर्म) hay đạo Phật là một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ thống triết học bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội, bản chất sự vật và sự việc; các phương pháp thực hành, tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử có thật là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (悉達多瞿曇, सिद्धार्थ गौतम, Siddhārtha Gautama) và các truyền thống, tín ngưỡng được hình thành trong quá trình truyền bá, phát triển Phật giáo sau thời của Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được gọi là Bụt hay Phật hoặc người giác ngộ, người tỉnh thức. Theo kinh điển của Phật giáo, cũng như các tài liệu khoa học khảo cổ chứng minh rằng, Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã sống và thuyết giảng ở vùng đông bắc bán đảo Ấn Độ xưa (nay thuộc Ấn Độ, Nepal, Bhutan) từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 4 TCN.

Sau khi Thích-ca Mâu-ni nhập niết-bàn (nibbāna) thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều sự khác biệt, mặc dù cùng có xuất phát từ tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy. Ngày nay, tồn tại 3 truyền thống Phật giáo chính trên thế giới.

Bạn đang đọc: Phật giáo – Wikipedia tiếng Việt">Phật giáo – Wikipedia tiếng Việt

Phật giáo Nam tông thì tăng trưởng mạnh ở Sri Lanka và Khu vực Đông Nam Á ( xứ sở của những nụ cười thân thiện, Miến Điện, Lào, Campuchia ). Phật giáo Bắc tông thì tăng trưởng mạnh ở Đông Bắc Á ( Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan ) và gồm có nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tông, … Còn Phật giáo Mật tông thì tăng trưởng ở Tây Tạng, Mông Cổ, Nepal và Bhutan. Mặc dù tăng trưởng đa phần ở châu Á, nhưng lúc bấy giờ Phật giáo được tìm thấy ở khắp quốc tế. Ước tính số người chính thức theo Phật giáo ( đã làm lễ Quy y Tam bảo ) vào khoảng chừng 350 triệu đến 750 triệu người, số người chưa chính thức theo Phật giáo nhưng có niềm tin vào Phật giáo thì còn đông hơn số lượng đó rất nhiều. Chẳng hạn như Trung Quốc với 1,4 tỷ dân thì phần nhiều dân số đều có niềm tin vào 1 số ít quan điểm trong triết lý Phật giáo, dù trên sách vở tùy thân thì họ không xác lập mình là Fan Hâm mộ Phật giáo .Phật giáo sơ khởi duy lý và vô thần, hướng con người đến nhận thức chân lý, hay còn gọi là tỉnh thức, giác ngộ [ 1 ] [ 2 ]. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác ( biết, nhận thức ), dha là người [ 3 ] – nghĩa là người hiểu biết. Đức Phật là một vị nhân vật lịch sử dân tộc có thật tên là Tất-đạt-đa Cồ-đàm ( 625 – 545 TCN ) và theo Phật giáo Nam tông thì ông đã dùng 45 năm cuộc sống ( còn theo Phật giáo Bắc tông là 49 năm cuộc sống ) để đi khắp miền bắc Ấn Độ để truyền bá triết lý. Mặc dù vậy, theo ý niệm nguyên thủy của Phật giáo, Phật là một con người đã giác ngộ nghĩa là đã đạt được sự nhận thức đúng đắn về bản ngã và quốc tế xung quanh nên đã được giải thoát. Ai cũng hoàn toàn có thể trở thành Phật nếu người đó tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn bản ngã và quốc tế xung quanh do đó được giải thoát. Khi đã vượt qua sự vô minh, con người giác ngộ trở thành Phật và được giải thoát [ 4 ] .

Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con đường đưa đến giác ngộ để được giải thoát, tính chính thống của các bài thuyết giảng và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập. Vì hướng đến việc nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới khách quan nên hệ thống triết lý Phật giáo chứa đựng nhiều quan điểm bản thể luận và nhận thức luận. Siêu hình học trong triết học Phật giáo đã phát triển đến một trình độ cao. Phương Tây dịch giác ngộ thành khai sáng (enlightenment) vì trong triết học phương Tây, khai sáng là tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn thế giới cũng giống như giác ngộ trong Phật giáo. Cũng như Nho giáo, Lão giáo và triết học phương Tây hiện đại, Phật giáo là một hệ thống triết học mang tính khai sáng nhằm hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ.

Lịch sử

Phía đông bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn) cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Khoảng 3000 năm TCN, người Dravidian bản địa xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn và sông Hằng. Sau đó, người Aryan du mục đã dần mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Ấn Độ và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm TCN. Nền văn hóa triết học chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ-đà (Vedas).

Văn hoá Vệ-đà nghiêng về sùng bái nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí, tâm linh về thế giới, vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến văn hóa Vệ-đà thành Đạo Bà-la-môn (Đạo Brāhmaṇa) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà-la-môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị. Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà-la-môn (hay sớm hơn từ văn hóa Vệ-đà). Đạo Bà-la-môn còn cho rằng tồn tại một bản chất chung của vạn vật, đó là Đại ngã (Brahman).

Tôn giáo gắn liền với nó là triết học tăng trưởng mạnh tại Ấn Độ với sự Open rất nhiều hướng triết lý và cách hành đạo khác nhau và đôi lúc phản bác nhau. Trong thời hạn trước khi Phật giáo Open, đã có rất nhiều phe phái tu luyện. Các xu thế triết học cũng phân hoá mạnh như thể những xu thế, chủ nghĩa khoái lạc, ngẫu nhiên, không tin mọi thứ, huyền bí pháp thuật, duy vật, duy tâm, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, trì niệm chú, đọc tụng kinh …
Đại học Nalanda một TT Phật giáo quan trọng ở Ấn Độ ( bị tàn phá năm 1197 )Phật giáo được Tất-đạt-đa Cồ-đàm, người sáng lập Phật giáo, thuyết giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng chừng thời hạn 45 năm theo Phật giáo Nam tông ( hoặc 49 năm theo Phật giáo Bắc tông ) khi Đức Phật còn tại thế ra đến nhiều nơi, nhiều dân tộc bản địa nên lịch sử vẻ vang tăng trưởng của Phật giáo khá phong phú về những bộ phái cũng như những nghi thức, nghi lễ hay giải pháp thực tập, tu học. Ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã tổ chức triển khai được một giáo hội với những giới luật ngặt nghèo. Tại Ấn Độ, Phật giáo hoàn toàn có thể đã mở màn suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ vào thế kỉ thứ 14 do sự đàn áp của những chính quyền sở tại Hồi giáo. Mãi cho đến thế kỉ thứ 21 thì trào lưu chấn hưng Phật giáo tại Ấn mới khởi đầu lại. Tuy nhiên, Phật giáo lại tăng trưởng mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á và Khu vực Đông Nam Á. Nhờ vào đặc thù khai sáng cùng sự uyển chuyển, linh động của triết lý, Phật giáo được nhiều người đảm nhiệm và hoàn toàn có thể thích nghi với nhiều thực trạng xã hội, nhiều những tầng lớp giai cấp, nhiều phong tục tập quán ở những thời kỳ, quốc gia khác nhau, và do đó thời nay Phật giáo vẫn liên tục sống sót và ngày càng tăng trưởng thoáng rộng trên toàn quốc tế ngay cả trong những nước có nền khoa học tiên tiến và phát triển như Hoa Kỳ, Canada, Úc và châu Âu. Triết lý Phật giáo tương thích với ý thức khai sáng của châu Âu nên nhiều nhà triết học ở đây quan tâm nghiên cứu và điều tra Phật giáo và truyền bá nó .

Ngay sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ đề (Bodhi) ở tại Bồ-đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN – có tài liệu cho đó là vào năm 590 TCN theo Phật giáo Nam Tông hay năm 595 TCN theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật đã quyết định thuyết giảng lại sự hiểu biết của mình. Bài kinh đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng đó là Kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta)[5] giáo hóa nhóm có năm vị Tỳ-kheo (Bhikkhu) trở thành A-la-hán (Arahant): Kiều-trần-như (Koṇḍañña) trưởng nhóm, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và Assaji tại vườn phóng sinh nai tên gọi Vườn Lộc Uyển (Mrigadava) gần kinh thành Ba-la-nại (Bārāṇasī). 100 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Đức Phật đã hình thành Tăng-già (hay Tăng đoàn, saṅgha) đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và truyền bá thêm ngày càng nhiều người muốn theo thực tập và tu học. Để làm việc được với một lượng người theo thực tập và tu học ngày càng đông, Đức Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người được gọi là giới luật. Giới luật này phần chính là việc Quy y Tam bảo (Nương tựa Ba ngôi báu cao quý) – tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Đức Phật, những lời dạy của Đức Phật (Giáo Pháp), và cộng đồng những người xuất gia thực hành theo lời dạy của Đức Phật (Tăng Đoàn).

Trong thời Đức Phật còn tại thế thì những người xuất gia theo Phật giáo được tập hợp trong tổ chức triển khai được gọi là Tăng Đoàn, trực tiếp được sự hướng dẫn của Đức Phật về giáo pháp và phương pháp thực hành thực tế, tu tập. Tăng Đoàn là tổ chức triển khai thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, thân thế, giai cấp xã hội và có tiềm năng tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Giới luật của Tăng Đoàn dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong những kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn. Nhờ vào tổ chức triển khai có tính bình đẳng và quy củ nên Tăng Đoàn tránh được nhiều chia rẽ. Ngoài những người xuất gia, Đức Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ. Giới cư sĩ cũng được Đức Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ Tăng Đoàn về nhiều mặt. Khi Đức Phật còn tại thế. Ông là một nhà triết học, một vị chân sư còn những tu sĩ và quần chúng nhân dân là học trò của ông. Chỉ sau khi ông nhập niết-bàn thì Phật giáo mới hình thành với mạng lưới hệ thống giáo lý là những lời dạy của Đức Phật, giáo hội được những đệ tử của Đức Phật xây dựng, giáo chúng là những người tin vào lời dạy của Đức Phật và tôn kính Đức Phật .

Sau khi Đức Phật niết-bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội. Ông tập họp 500 vị Tỳ-kheo tại thành Vương-xá (Rājagaha) để tổ chức đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất nhằm kết tập những lời dạy của Đức Phật. Tại kỳ kết tập này giáo luật Phật giáo được tôn giả Ưu-ba-li (Upāli) kết tập và được tăng đoàn chấp thuận. Tôn giả A-nan-đà (Ananda) kết tập giáo pháp và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A-nan-đa lần lượt kết tập các kinh Tăng nhất, Tăng thập, Ðại nhân duyên, Tăng Kỳ Ðà, Sa môn quả, Phạm Ðộng và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra tập họp các kinh bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Sau kỳ kết tập này Luật tạng và Kinh tạng của Phật giáo cơ bản hình thành.[6] Giáo hội giữ nguyên các hoạt động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển lần thứ hai.

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai diễn ra sau khi Đức Phật niết-bàn khoảng 100 năm do có sự mâu thuẫn về giới luật và tranh cãi về tính không hoàn hảo của một vị A-la-hán. Sự kiện diễn ra như sau, Trưởng lão Da-sá (Ya-za) trong lần tuần du đến thành Tỳ-xá-ly (Vaishali) đã nhận thấy các Tỳ-kheo ở đây thực hiện nhiều hành vi vi phạm giới luật. Trong đó nghiêm trọng nhất là việc nhận vàng bạc của thí chủ cúng dường. Ông nói như thế này với người dân và Tỳ-kheo ở Tỳ-xá-ly: “các ngươi không nên cúng thí tiền, ta từng đích thân theo Phật nghe pháp, nếu ai cầu thí không đúng với giáo pháp, cũng như những ai cúng thí không đúng với giáo pháp, cả hai đều đắc tội“[7]. Các vị Tỳ kheo ở đây từ chối cho rằng mình có tội, họ nói đó là những điều chỉnh thích hợp đối với văn hóa và phong tục nơi đây, mâu thuẫn không thể giải quyết và do vậy họ quyết định trục xuất Da-sá. Da-sá sau đó đi đến nhiều vùng đất khác nhau tập hợp các Trưởng lão và những người am hiểu phật pháp nhằm mục đích xem xét các hành vi trái với giới luật là có thể chấp nhận được hay không. Kỳ đại hội này đánh dấu sự phân phái chính thức đầu tiên của Phật giáo thành Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ[7][8]. Đại hội còn có 2 tên khác là Thất bách kết tậpTỳ-xá-ly kết tập vì cuộc kết tập diễn ra tại thành Tỳ-xá-ly với sự tham giá của 700 vị A-la-hán. Khi đại hội kết thúc, trưởng lão Revata (Ly-bà-đa) kết luận: “Những gì không do Phật chế thì không được tùy tiện chế định, những gì do Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải chăm chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy[6]”.

Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba diễn ra sau Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai đúng 118 năm dưới sự bảo trợ của vua Asoka (A-dục), nghĩa là sau Đức Phật niết-bàn khoảng 218 năm, tức là khoảng 325 năm TCN. Đại hội kéo dài khoảng 9 tháng dưới sự chủ tọa của Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu (Moggaliputta-Tissa). Địa điểm diễn ra đại hội là vườn Viên-lâm (Uyỳana), thành Hoa-thị (Pàtaliputta), thuộc miền Trung Ấn Độ. Số người tham gia đại hội là 1000 người.[9][10] Mục đích của đại hội là ngăn chặn việc các sư đem giáo luật ngoại đạo giảng cho tín đồ, qua đó ngăn chặn rạn nứt trong Tăng Đoàn. Thể thức kết tập cũng giống hai lần đại hội trước. Sau khi kết tập, Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu đã soạn sách Thuyết-sự (Kathàvatnu) để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời.[11][12] Một công việc quan trọng khác của Đại hội này là biên tập lại các bộ luận. Từ đó, kinh điển Phật giáo được hệ thống hóa đầy đủ thành tam tạng gồm tạng Luật, tạng Kinh và tạng Luận. Mục-kiền-liên-tử Ðế-tu giao cho đệ tử phổ biến tam tạng này sang 9 nước khác gồm: Lankadipa (Sri Lanka), Suvannabhumi (Mon / Myanmar, Thái Lan), Himavanta (ở Himalaya), Yona (Hy Lạp)…

Đại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo lần thứ tư là tên gọi chung cho hai đại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo tại Sri Lanka và Kashmir. Năm 25 TCN tại chùa Thūpārama ở kinh đô Anuradhapura của Sri Lanka phái Thượng tọa bộ tổ chức triển khai đại hội kết tập tầm cỡ. Cũng có thuyết cho rằng đại hội này diễn ra vào lúc 400 năm sau khi Gautama qua đời và được vua Vattagàmani bảo trợ. [ 13 ] Lại có thuyết nữa cho rằng Đại hội này diễn ra vào năm 232 TCN ( năm Phật lịch 313 ) thời vua Devanampiya Tissa ( trị vì : 307 TCN – 267 TCN, mất 267 TCN ). [ 14 ] Thành quả của cuộc kết tập này của phái Thượng tọa bộ là bộ tầm cỡ bằng tiếng Pali, được viết lên lá cọ và được truyền bá sang xứ của người Môn ở Myanma, xứ sở của những nụ cười thân thiện, Campuchia, Lào thời nay. Một đại hội khác được phái Thuyết nhất thiết hữu bộ tổ chức triển khai tại Kashmir diễn ra vào tầm 400 năm sau khi Cồ-đàm qua đời ( tức khoảng chừng năm 78 ) tại thành Kasmira nước Kushan dưới sự bảo lãnh của vua nước này là Kanishka. Chủ tọa đại hội là Vasumitra ( Thế Hữu ). Số đại biểu là 500 người. Mục đích của đại hội là hệ thống hóa lại những bộ luận của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ. Thành quả của cuộc kết tập của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là 3 bộ luận bằng chữ Phạn gồm 300 ngàn bài kệ và 9.6 triệu từ được khắc trên những lá đồng. [ 11 ]
Quang cảnh Đại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo lần thứ sáuĐại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo lần thứ năm được tổ chức triển khai vào năm 1871 ở Mandalay, Miến Điện dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Về dự đại hội có 2400 tu sĩ Phật giáo. Chủ trì đại hội là Thượng tọa Pong Yi Sayadaw. Các nhà sư nổi tiếng như Jāgarābhivamsa, Narindābhidhaja, Sumangalasāmi đã tham gia đại hội. Kết quả kết tập là hàng loạt Tam tạng được viết trên 729 phiến đá cẩm thạch, mỗi phiến đá cao hơn 1,5 m và rộng gần 1 m, khắc chữ đầy cả hai mặt. Luật tạng khắc trên 101 phiến đá, Kinh tạng trên 520 phiến, và Luận tạng trên 108 phiến. Phần chú giải của Tam tạng được khắc trên 1774 phiến đá khác. Các phiến đá này được vua cho tàng trữ ở tháp Mahalokamarakhin và tháp Candamunī .Đại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo lần thứ sáu diễn ra từ ngày Phật đản 17 tháng 5 năm 1954 đến ngày Phật đản năm 1956 ở TP. hà Nội Rangoon, Miến Điện. Đại hội do nhà nước Miến Điện bảo trợ. Các đại biểu đến từ Miến Điện và những nước có Thượng tọa bộ gồm xứ sở của những nụ cười thân thiện, Campuchia, Lào, Nước Ta, Sri Lanka, Ấn Độ và Nepal. Chủ tọa Đại hội là Nyungan Sayadaw. Người nêu nghi vấn về tầm cỡ là Mahasi Sayadaw. Người giải đáp nghi vấn là Mingun Sayadaw ( Bhadanta Vicittasāra Bhivamsa ). Cuộc phỏng vấn được chủ tọa và 2500 tu sĩ Phật giáo theo dõi, phỏng vấn và ghi chép. Kinh điển được kết tập, xem xét, chú giải bằng ba thứ tiếng Pāli, tiếng Myanma, và tiếng Anh. Các tầm cỡ của kỳ Đại hội lần thứ năm được sử dụng làm địa thế căn cứ và so sánh với những bản kinh cổ của Sri Lanka, Thailand, Campuchia và Hiệp hội Thánh điển Pāli ở Luân Đôn .

Giáo lý cốt lõi

[15]Tranh vẽ Yab-Yum, hình tượng cho từ bi và trí tuệ trong đạo Phật tại Tây TạngTừ bi và trí tuệ là hai trụ cột trong giáo lý Phật giáo. Toàn bộ giáo lý Phật giáo nhằm mục đích hướng con người đến việc sử dụng trí tuệ của mình nhận thức quốc tế đúng như nó thật là để từ đó sống từ bi. [ 16 ]

Toàn bộ giáo pháp của Phật giáo được chứa đựng trong Tam tạng (zh. 三藏, sa. tripiṭaka, pi. tipiṭaka, bo. sde snod gsum སྡེ་སྣོད་གསུམ་) gồm:

Tam tạng còn được truyền lại toàn vẹn nhất chính là Tam tạng tiếng Pali. Theo lịch sử vẻ vang, Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pali được viết lại trong lần kết tập thứ nhất ( năm 480 trước Công nguyên ), trong đó Ưu-bà-li nói về Luật và A-nan-đà trình diễn giáo pháp. Những lời thuật lại của hai vị đại đệ tử này đã trở thành cơ sở của hai tạng đó. Và tạng vi diệu pháp cũng hình thành ngay sau đó .

Tứ thánh đế

Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của triết lý Phật giáo là tứ thánh đế. Bốn chân lý lý giải thực chất của sự khổ trong luân hồi ( 輪回 ), nguyên do của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ. Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong thực tiễn ngọn lửa nào cháy lên cũng có nhân, có duyên của : chất đốt, không khí, v.v.. Khi tất cả chúng ta vô hiệu những điều kiện kèm theo đó thì ngọn lửa cũng tắt, tương tự như như vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau ( Khổ đế ), khổ đau cũng có nguyên do ( Tập đế ), khổ đau hoàn toàn có thể dập tắt ( Diệt đế ), và Bát chánh đạo – Trung đạo là con đường đưa đến khổ diệt ( Đạo đế ). Tứ diệu đế là sự nhận thức đúng đắn những loại khổ đau, nguyên do dẫn đến khổ đau, trạng thái không có khổ đau và con đường để thoát đau khổ. Con người chỉ thoát khỏi đau khổ nhờ nhận thức đúng về đau khổ. Thoát khỏi vô minh thì hết đau khổ. Đây là quan điểm triết học mang tính duy lý .

  1. Khổ đế (苦諦་), chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, lão, bệnh, tử; khổ tâm gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa nhận nó, cố gắng phân tích nó để nhận thức nó một cách sâu sắc.
  2. Tập đế (集諦་), chân lý về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.
  3. Diệt đế (滅諦), chân lý về diệt khổ: là trạng thái không có đau khổ, là một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt dục vọng và chấm dứt vô minh.
  4. Đạo đế (道諦), chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh (Bát chính đạo) và xoay quanh ba trụ cột chính là Trí tuệ – Đạo đức – Thiền định. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường bát chi thánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.

Bát chính nghĩa

  • Chánh kiến (正見): Hiểu biết chân chính: Hành giả bằng học tập, bằng kinh nghiệm thực hành có được kiến thức về đạo đức, đạo lý. Cơ sở kiến thức căn cứ theo lời Phật dạy, là những giáo lý Luật Nhân Quả, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Mười Hai Nhân Duyên, Tứ vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thiền Định, Không chấp công, ….
  • Chánh tư duy (正思唯): Suy nghĩ chân chính: Hành giả nhờ những kiến thức từ Chánh Kiến để suy nghĩ đúng đắn, nhằm đem lại lợi ích, an vui cho cộng đồng.

– Hành giả thực hành thực tế chánh tư duy để kiến thiết xây dựng tâm hồn, thành đạo đức hiền lương theo từng lần tác ý .- Khi khởi tâm bất thiện, hành giả quyết chí diệt trừ, biết hối hận ăn năn, biết canh phòng lần khác .- Khi tiếp xúc với đời sống, hành giả luôn chủ động tác ý thiện lành, tự nhắc chẳng có ta, để mà tham sân giận .- Hành giả thường tự răn tự nhắc, phải biết sống vị tha, luôn cung kính ái hòa, không khoe khoang kiêu mạn .- Hành giả thường khởi tâm tôn kính Mười phương Phật Pháp Tăng, như ngưỡng vọng cao sơn, còn mình như bụi rác .- Hành giả thường khỏi tâm từ bi ban rải khắp nơi .- Hành giả tự nhắc mình tránh khỏi những ô nhiễm thấp hèn, gắng giữ giới hạnh sạch trong theo gương những bậc Thánh .- Việc tu hành tân tiến địa thế căn cứ vào việc hành giả ngày càng tinh xảo, trấn áp tâm ý mình và phát hiện ra những ý niệm sai .

  • Chánh ngữ (正語་): Lời nói chân chính: hành giả thực hành nói những lời mang lại an vui hạnh phúc cho cộng đồng.

– Không chê bai bừa bãi, không nói điều dơ bẩn, không nói điều khen mình, không nói điều đua ganh, không nói điều giả dối, … Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp phải nói ra những lầm lỗi của người khác để họ biết sửa lỗi và tránh thiệt hại cho hội đồng .- Cần thực hành thực tế nói những lời hòa ái, khen ngợi người tốt cho người khác nghe, thường ngợi ca đạo lý Phật dạy, thường nói về nhân quả, về nhiều kiếp luân hồi, … Hành giả làm được thiện nghiệp hay ác nghiệp địa thế căn cứ vào từng lời nói đạo đức hay không đạo đức .

  • Chánh nghiệp (正業): Hành vi chân chính: hành giả thực hiện những việc làm cụ thể và đem lại niềm vui cho cộng đồng.

– Hành giả không triển khai, ngăn người khác thực thi những điều độc ác gây đau khổ chúng sinh, chỉ làm những việc lành và khuyến khích người khác làm những việc lành, cho chúng sinh an nhàn .Có khi là nhường người tốt tiến lên, có khi là gánh lấy những nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nhọc, có khi là nghiêm khắc ngăn kẻ xấu làm sai, có khi là trợ giúp những ai làm điều thiện .- Hành giả rất siêng năng lễ kính Phật, sám hối nghiệm nghìn xưa, việc bất thiện không làm nữa, việc thiện lành gắng vun bồi .- Các bậc Bồ tát lại có những Chánh nghiệp khác thường, thường gián tiếp giúp sức mà chúng sinh không biết .- Hành giả thực hành thực tế vô số việc làm đơn cử để tạo thành vô biên phước báo .

  • Chánh mạng (正命): Nghề nghiệp chân chính: hành giả làm nghề nghiệp giúp nuôi sống bản thân mình.

– Nhờ phước báo từ Chánh Nghiệp, mà hành giả được tự do lựa chọn nghề nghiệp sao cho phước lành sinh thêm mãi .- Nghề tốt phải gồm đủ 2 yếu tốt : tạo phước từng ngày và có thời hạn tu tập .- Riêng nghề tu sĩ là ” khất thực ” ( xin ăn ), nhưng không luồn cúi thấp hèn mà luôn đĩnh đạc uy nghi .

  • Chánh tinh tấn (正精進): Nỗ lực kiên trì tu tập chân chính: hành giả thực hành cách nhiệp tâm trong thiền định.

– Ở tiến trình này, hành giả gặp rất nhiều khó khăn vất vả, trở ngại trong quy trình tu tập. Dù còn nhiều chướng ngại, nhưng hành giả vững lòng thực hành thực tế thiền định hướng về tiềm năng Vô ngã .- Công phu thiền định được thực hành thực tế cẩn trọng, được sự nhắc nhở của những bậc Chân tu để hoàn toàn có thể tiến đạo .

  • Chánh niệm (正念): Chánh niệm tỉnh giác. Trải qua thời gian tu hành chân chính, hành giả dần đạt được trạng thái chánh niệm tỉnh giác.

Ở trạng thái này, hành giả trấn áp tâm, không u ám và sầm uất mê lầm, chạy theo ngoài thanh sắc. Tuy chỉ mới khởi đầu, chưa phải đã vào sâu trong quy trình tu tập, hành giả cần cẩn trọng tác ý, tránh kiêu căng kiêu mạn .Hành giả còn cần trải qua nhiều kiếp an trú vững chãi mới hết quá trình Chánh niệm .Giá trị tu hành của tiến trình này để hành giả diệt trừ được 5 triền cái theo trình tự : Tham ( vị này không còn tham lam, muốn tích trữ bất kể thứ gì ), Sân ( vị này không còn nổi nóng vì bất kể nguyên do gì ), Hôn trầm ( nếu cần phải tỉnh táo không ngủ, thì tỉnh rất thuận tiện, dù khung hình sẽ mệt ), Nghi ( có trí tuệ thông hiểu rất nhiều điều trong đời sống ), Trào cử ( thân người trong thiền định cứng chắc, hoàn toàn có thể ngồi thiền rất lâu bền hơn ) .Với đạo đức rất toàn vẹn và thiện nghiệp lớn lao, hành giả hoàn toàn có thể chứng đắc được Thánh quả Tu Đà Hoàn ( Sơ quả ) và Tư Đà Hàm ( Nhị quả ) trong tiến trình Chánh niệm .

  • Chánh định (正定་): Hành giả kiên trì thực hành tu tập để vượt qua 4 tầng thiền định.

Cơ sở 4 tầng thiền : sơ thiền ( ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ ), nhị thiền ( diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm ), tam thiền ( ly hỷ, trú xả ), tứ thiền ( xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh ) cùng với những giải pháp tương hỗ như tứ niệm xứ, quán niệm hơi thở, quán thân vô thường … được đề cập trong kinh tạng Pali .Với đạo đức rất toàn vẹn và thiện nghiệp lớn lao, hành giả hoàn toàn có thể chứng đắc được Thánh quả Tư Đà Hàm ( Tam quả ) .

Sau khi đã đạt Tứ thiền, hành giả quán chiếu đầy đủ về Vô Ngã, vị này sẽ chứng đạt Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên bố “Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại sinh tử này nữa“.

Nhân quả và luân hồi

Trong Phật giáo có hai khái niệm quan trọng là nhân quả và luân hồi .

  1. Nhân Quả:
    1. Phật giáo giải thích mọi sự việc đều là sự biểu hiện của luật nhân quả. Nghĩa là mọi sự việc đều là kết quả từ nguyên nhân trước đó. Sự việc đó chính nó lại là một nguyên nhân của kết quả sau này. Nhân có khi còn gọi là nghiệp, và một khi đã gieo nghiệp thì ắt sẽ gặt quả (để phân biệt tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có khái niệm “thuận duyên”, “nghịch duyên” hoặc “Thiện nghiệp”, “Ác nghiệp”). Từ nhân đến quả có yếu tố duyên. Duyên là điều kiện thuận lợi, là cơ hội cho phép quả xảy ra (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở, trì hoãn quả tới chậm hơn, đôi khi triệt tiêu quả (nghịch duyên). Các tương tác nhân quả phức tạp diễn ra song song hoặc nối tiếp nhau gọi là trùng trùng duyên khởi.
    2. Nhân quả tương tác theo luật tương ứng: nhân nào thì quả nấy; hạt táo không thể sinh ra quả bưởi, hạt xoài không thể sinh ra quả đào. Kinh Phật ghi rằng “Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt“. Các nguyên nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn sẽ tạo ra kết quả sau khi bù trừ xong. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng nguyên thủy lý giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân mới đối lập với nhân cũ. Luật Nhân quả có sự linh động và uyển chuyển, để có thể phát hiện ra những vấn đề của luật nhân quả đòi hỏi hành giả phải có sự học hỏi, thực hành và chiêm nghiệm. Giai đoạn 1: Luật Nhân Quả giải thích cơ bản bằng câu nói ” gieo nhân gì gặt quả nấy” Giai đoạn 2: Luật Nhân quả giải thích cho tình huống:”Một người xin tiền mình đi mua dao để sát hại người khác”. Nhân quả ở đây không phải là vì người này cho tiền mà được phúc, mà nếu người sử dụng đồng tiền làm điều ác thì người cho sẽ bị tội. Tới giai đoạn này, người thực hành nhân quả phải cẩn thận trong việc làm của bản thân. Giai đoạn 3: Luật nhân quả giải thích cho tình huống: “Tên trộm lẻn vào nhà người dân, lấy đi một số vàng”. Nếu đây là nhân quả mất tài sản của gia đình đó, thì tại sao lại bắt tên trộm khi tên trộm làm đúng nhân quả? Nhân quả đến giai đoạn này trên cơ sở, gia đình này đến thời điểm chịu quả báo mất tài sản, tên trộm đến lúc thực hiện hành vi ăn cắp, hai bên đủ điều kiện để thực hiện. Trong đó, tên trộm đã đủ cơ sở để hưởng quả báo từ những suy nghĩ ác về kế hoạch ăn trộm. Kẻ đó cũng đồng thời gieo một ác nghiệp cho tương lai của hắn. Càng thực hành nhân quả, hành giả càng có trí tuệ để sống đúng, sống lợi ích của cuộc đời, hỗ trợ tu hành và thực hành Bồ tát đạo. Nhân quả không chỉ tồn tại trong xã hội loài người mà tồn tại trong toàn vũ trụ, ứng nghiệm vào mọi đối tượng vật chất.
    3. Con người dù không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải được hoàn toàn nhân quả này thì mối quan hệ nhân quả vẫn là một quy luật tự nhiên khách quan. Có những người dù không nhận thức được, thậm chí có thể họ không tin vào nhân quả, nhưng quy luật này vẫn vận hành và chi phối vạn vật, bao gồm chính bản thân họ. Tuy nhiên khác với khoa học hiện đại, khi lý giải về cuộc sống của con người, Phật giáo cho rằng quan hệ nhân quả là xuyên suốt thời gian chứ không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn đến khái niệm luân hồi.
  2. Luân hồi:
    1. Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết một kiếp, tâm thức mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của một kiếp sống là khác nhau, có thể chuyển đổi giữa các loài, các thế giới (cõi súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la, cõi trời). Quan hệ nhân quả quyết định cách thức luân hồi, hay nói cách khác tùy nghiệp đã tạo mà sẽ luân hồi tương ứng để nhận quả.
    2. Chết là hết một kiếp, nhưng lại là khởi đầu của một kiếp khác, nối tiếp vô cùng tận. Dù có hết một kiếp sống thì vẫn sẽ tiếp tục luân hồi sang kiếp khác để nhận quả. Còn luân hồi là còn khổ. Phật giáo chỉ ra rằng luân hồi chỉ có thể bị phá vỡ nếu giác ngộ, nghĩa là có thể thoát khỏi luân hồi sinh tử nếu biết cách “đoạn diệt” các nguyên nhân dẫn dắt luân hồi, nghĩa là không còn quan hệ nhân quả. Phật giáo gọi đó là giải thoát và toàn bộ giáo pháp của Phật đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát, như Phật đã nói “Như mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải thoát”.

Siêu hình học

Trong đạo Phật những vấn đề siêu hình không là vấn đề hệ trọng đối với những ai đang cố thực hiện cuộc thực nghiệm tâm linh. Đối với các vị tỳ kheo hay đặt những thắc mắc siêu hình, đức Phật thường quở phạt là vì lẽ đó. Ông dạy rằng điều hệ trọng nhất là phải tự tinh tiến lên để được giải thoát giác ngộ, đừng phí thì giờ và tâm lực vào những vấn đề siêu hình “Này các tỳ kheo, các thầy đừng thắc mắc về vấn đề thế giới nầy là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù thế giới nầy là hữu hạn hay vô hạn, là hữu cùng hay vô cùng, thì điều mà chúng ta phải nhận là thực có ở giữa đời nầy, vẫn là những khổ đau sinh lão bệnh tử“. Đức Phật lựa chọn một ít những chân lý căn bản có lợi cho sự giải thoát diệt khổ để dạy cho tứ chúng đệ tử. Trong Kinh có chép câu chuyện của một người bị trúng tên độc không chịu cho người ta nhổ tên để rịt thuốc “Khoan, khoan nhổ mũi tên đã. Để tôi còn phải tìm hiểu kẻ nào đã bắn tôi, mặt mũi ra sao, tên gì, làng nào, có thù hằn gì với tôi không, rồi sau hãy nhổ.” Nếu mà tìm hiểu được từng ấy thứ thì thuốc độc đã ngấm vào thân thể rồi, còn cứu làm sao được. Đức Phật cho rằng các đệ tử phải thực hành phương pháp giải thoát diệt khổ, đừng mất thì giờ đi tìm hiểu những chuyện vu vơ.[17]

Những vị đệ tử chưa chứng ngộ thường vướng mắc về Niết Bàn và đặt những câu hỏi về Niết Bàn. Đức Phật có nhiều lần đã lạng lẽ trước những câu hỏi đó. Sự tĩnh mịch của ông cũng đã là một cách vấn đáp. Tìm hiểu về Niết Bàn là một việc làm mất thì giờ lại còn dễ đưa người tới những tưởng tượng hư vọng. Niết Bàn là một thực thể cần được thực chứng chứ không phải là đối tượng người tiêu dùng của những suy luận duy lý. Không cho những yếu tố siêu hình là quan trọng, đó là một điểm đặc biệt quan trọng của đạo Phật. Một vị tỳ kheo quyết tâm chứng đạo, không bắt buộc phải có lòng tin của một Fan Hâm mộ. Người ấy hoàn toàn có thể không bận tâm đến những yếu tố cực lạc, thiên đường, luân hồi, âm ti. Người ấy chỉ cần đặt yếu tố giải thoát diệt khổ. Bởi vì người ấy đã hoàn toàn có thể nhận chân được tính cách khổ, không, vô thường, vô ngã của vạn hữu ( khổ đế ) cùng nguyên do của những khổ đau ràng buộc ấy ( tập đế ) và cương quyết trừ diệt chúng bằng những giải pháp hài hòa và hợp lý ( đạo đế ) để đi đến sự thắng lợi khổ đau, sống trong tịnh lạc ( diệt đế ). Một khi thành công xuất sắc, người sẽ biết tổng thể, hiểu tổng thể, vì bấy giờ người đã sống trong chân lý. [ 17 ] Cuộc thực nghiệm tâm linh sẽ đưa đến chỗ chứng đạo, đồng cảm mọi chân lý mầu nhiệm bằng trí tuệ Bát nhã. [ 17 ] Có quan điểm cho rằng chân lý chỉ hoàn toàn có thể thấu triệt bằng thực nghiệm, vậy thì những cuộc suy luận về những yếu tố siêu hình đều chỉ là ” hý luận ” không thiết yếu vì thế chớ nên nghĩ rằng giáo lý đạo Phật chỉ nhằm mục đích mục tiêu giải đáp những vướng mắc siêu hình. [ 17 ]

Thế giới quan

Nhiều tôn giáo khác cho rằng Trái Đất là TT của thiên hà, là nơi được Thượng đế ưu tiên nhất. Nhưng Đạo Phật thì cho rằng Trái Đất chỉ là một trong muôn vàn những quốc tế cùng sống sót, mỗi quốc tế lại có những đặc thù khác nhau, quốc tế mà tất cả chúng ta đang sống chỉ giống như một hạt cát trong thiên hà. Phật Thích Ca nói rằng : ông chỉ là vị Phật truyền đạo trong cõi Ta Bà ( tên gọi Trái Đất trong Phật giáo ) mà thôi, chứ thực ra còn có vô số những cõi thế giới khác nữa. Cũng tương ứng như vậy, ngoài Phật Thích Ca thì còn có vô số những vị Phật khác đã, đang hoặc sẽ Open và truyền đạo ở những cõi thế giới khác nhau ( tiêu biểu vượt trội như Phật Nhiên Đăng, Phật Padumuttara, Phật Tỳ Bà Thi … từng Open cách đây rất lâu ở những cõi quốc tế khác, khi cõi Ta Bà ( tức Trái Đất lúc bấy giờ ) còn chưa hình thành ) .

Phật giáo có khái niệm Tiểu thiên thế giới (1 ngàn hành tinh), Trung thiên thế giới (1 triệu hành tinh), đại thiên thế giới (1 tỷ hành tinh), Tam thiên đại thiên thế giới (3 nghìn tỷ hành tinh). Đức Phật nói vũ trụ này lại có “vô số Tam thiên đại thiên thế giới”, tức là số lượng các thế giới khác nhau gần như là vô hạn. Phật Thích Ca từng nói: “Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly nước cũng có vô số những con trùng trong đó”. Đối chiếu theo quan điểm khoa học hiện đại, thì “Tam thiên đại thiên thế giới” chính là tương ứng với một thiên hà, còn những con trùng trong bát nước chính là vi khuẩn, và quả thực là trong vũ trụ có vô số thiên hà, cũng như trong 1 ly nước có vô số vi khuẩn.

Một vài tôn giáo khác coi loài người là sinh vật tối thượng. Còn Phật giáo quan niệm “chúng sinh là bình đẳng”, loài người (nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài sinh vật khác (súc sinh giới, a-tu-la giới, thiên giới), loài người cũng không phải là tối thượng (loài người kém hơn các “chư Thiên” về sức mạnh và trí tuệ). Song dù là loài người, “chư Thiên” hay súc sinh thì cũng đều là sinh vật, phải chịu quy luật Nhân quả (làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác), không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết, lúc chết thì sẽ luân hồi sang kiếp sống khác, kiếp sau như thế nào thì phải tùy vào việc làm nhiều thiện nghiệp hay ác nghiệp (ví dụ: một người mà làm nhiều điều thiện thì kiếp sau có thể luân hồi thành 1 vị “chư Thiên”, nhưng nếu mà làm nhiều điều ác thì kiếp sau lại trở thành súc sinh).

Phật giáo cũng nói về thần thánh và gọi đó là các “chư Thiên”, nhưng Đức Phật nói rằng các vị thần đó cũng chỉ là một dạng sinh vật sống trong 1 thế giới khác. Họ có sức mạnh và trí tuệ vượt trội con người, nhưng bản thân họ cũng có những giới hạn: họ không thoát khỏi được luật Nhân – Quả, không thoát khỏi được sinh tử luân hồi), cũng không phải là bất tử (dù tuổi thọ của họ rất dài lâu, nhưng rồi cũng phải đến lúc họ chết đi). Như vậy, Phật giáo coi các “chư Thiên” không phải là đấng tối cao toàn năng, mà chỉ là một dạng sống văn minh hơn loài người mà thôi. Đối chiếu theo quan điểm khoa học hiện đại, có thể coi các “chư Thiên” mà Phật giáo nói tới chính là những nền văn minh ngoài Trái Đất có trình độ cao hơn hẳn so với loài người.

Lịch trình tu học

Các chú tiểu tại Nhật Tăng đoàn tại Lào

Buddha (Phật) chỉ người đã thức tỉnh nhờ sự sáng suốt và nỗ lực của họ, mà không cần ai khác chỉ cho biết giáo pháp tu luyện (Sanskrit; Pali dhamma; “cách sống đúng”). “Trở thành Phật” tức là một người đã giác ngộ, tức đã tìm ra con đường trừ bỏ mọi khổ đau,[18] ở trong trạng thái “không học thêm nữa”.[19][20][21] Phật nghĩa là một người đã biết tất cả (toàn giác), đã nắm chân lý, đã đạt đến một trình độ khai sáng hoàn thiện nhất có thể tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức thế giới mà không cần ai chỉ bảo.

Kinh Phạm võng viết :

Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, sẽ đưa đến cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”. Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ tuệ tri vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ. Những pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết[22].

Phật có hai mức độ giác ngộ :

  • Độc Giác Phật (sa. pratyeka-buddha), là người giác ngộ, nhưng không có đủ khả năng giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ.
  • Toàn Giác Phật (sa. samyak-saṃbuddha) là bậc chính đẳng chính giác, không chỉ giác ngộ mà còn có thể giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ.

Phật giáo không xem Tất-đạt-đa Cồ-đàm là vị Phật duy nhất. Kinh Phật đã nói đến rất nhiều vị Phật khác từng Open trong quá khứ, tại những quốc tế khác nhau. Phật giáo không có một đấng tối cao phán xét hay có toàn quyền sinh sát. Mỗi người tự làm chủ số phận của mình bằng Nhân Quả do Nghiệp lực của mình tạo ra, không một ai ngoài bản thân hoàn toàn có thể phán xét, cứu vớt, xóa tội cho mình. Phật tính bình đẳng trong tổng thể chúng sinh, bất kể ai cũng có năng lực giải thoát niết bàn nếu tích góp đủ thiện nghiệp và nỗ lực tu luyện. Tăng-già ( 僧伽 ) của Phật giáo gồm có Tỳ Kheo ( 比丘 ), Tỳ Kheo Ni ( 比丘尼 ) và Cư sĩ .

Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến) tức là đạt đến chân lý, với một tâm thức thoát khỏi phiền não và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô minh, cũng được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành bát chính đạo. Khi chưa nhìn vạn vật như chúng đích thật (sự thật tuyệt đối hay còn gọi là chân đế) thì con người sẽ chấp trước, giành giật, tranh luận, tranh chấp trong các luận thuyết như người mù sờ voi vì họ chỉ nhìn một phía[23]. Người ta chìm đắm trong các giáo điều như người mê ngủ[24]. Người thức tỉnh là người đã vứt bỏ hết mọi giáo điều để tự nhận thức vạn vật như chúng thật là (sự thật tuyệt đối của vật chất và ý thức). Không những vậy, muốn đạt được chân lý con người còn phải vô ngã. Khi tâm được trong sáng là lúc trí tuệ hiện ra.[25] Người chấp ngã sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Muốn được giải thoát khỏi mọi đau khổ, an trú trong các thiện pháp, sống an lạc, không ưu phiền thì phải vô ngã.[26]

Người tu học thực hành thiền Tứ Niệm Xứ (thiền minh sát hay còn gọi là thiền tuệ, thiền Vipassana) để thấy rõ bản chất của sự vật, đồng thời cũng không ngừng học hỏi, lắng nghe những ý kiến trái chiều và thực hành giáo pháp. Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam học, cụ thể là tu học về giới (giới luật: giới người tại gia và giới của bậc xuất gia), định (thiền định) và tuệ (thiền tuệ, thiền minh sát). Trước hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỳ kheo). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là tứ niệm xứ, Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là tuệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi hoặc ngũ uẩn. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán. Khi tu học, người học Phật cần phải có sự hiểu biết trong Pháp học (toàn bộ tam tạng Pali) và Pháp Hành (Thiền Tứ Niệm Xứ). Người tu học đi theo Trung đạo để đạt đến giác ngộ nghĩa là xa lìa hai lối sống truy hoan và thực hành ép xác khổ hạnh[27]. Người giác ngộ sẽ thấy được sự sinh, sự diệt của tâm và vật chất, thấy được tam tướng vô thường – khổ não – vô ngã, thấy được chân lý tứ thánh đề bằng trí tuệ thiền tuệ để đạt tới giải thoát cuối cùng là Tứ thánh đạo – Tứ thánh quả – Niết bàn.

Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồ-đề phần .

Tông phái

Với thời hạn truyền đạo hơn 40 năm, số lượng bài giảng của Thích-ca mâu-ni nằm hàng loạt trong tam tạng Pali. Ngoài ra, do sự độc lạ về cơ bản của những đệ tử, ông đã trình diễn những bài giảng khác nhau nhằm mục đích tương hợp với năng lực tiếp thu của từng người. Sau khi ông qua đời, những thế hệ đệ tử trải qua hơn 2.500 năm truyền đạo, qua nhiều khu vực địa lý, môi trường tự nhiên văn hóa truyền thống đã dung hợp và bổ túc vào giáo lý cơ bản, hình thành nhiều sự dị biệt, dẫn đến sự sinh ra của những tông phái khác nhau. Tuy nhiên, sự độc lạ của tông phái đã dẫn đến sự rơi lệch rất nhiều so với giáo lý nguyên bản. Mặc dù vậy, bản thân giáo lý Phật giáo dù có tăng trưởng qua thời hạn, nhưng phật giáo nguyên thuỷ vẫn giữ toàn vẹn giáo lý nguyên thuỷ lúc đầu .Mặc dù đã có những độc lạ đã hình thành trong Tăng đoàn ngay từ thời Phật tại thế, những nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng sự phân loại thành những bộ phái Phật giáo rõ nét tiên phong là vào tầm 100 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn, trong Đại hội kết tập tầm cỡ Phật giáo lần thứ hai, khi Tăng đoàn phát sinh những sự sự không tương đồng về nhu yếu biến hóa 10 điều giới luật. Trải qua hơn 2.500 năm, những cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và phong phú hơn. Nhiều tông phái đã bị thất truyền, nhưng cũng có nhiều tông phái tăng trưởng ở quy mô lớn hơn khoanh vùng phạm vi của một vương quốc. Tại 1 số ít vương quốc cũng Open những tông phái Phật giáo địa phương đặc trưng của vương quốc đó .Dưới đây là một số ít tông phái Phật giáo điển hình nổi bật nhất :

Phật giáo Nam truyền

Phật giáo Bắc truyền

Tịnh độ tông

Là một tông phái lấy pháp môn niệm thương hiệu A Di Đà, để cầu được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ, tông này lấy Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và Tiểu Bản A Di Đà làm cơ bản .

Tuệ Viễn (334-416) là đệ nhất Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa, tại Lư Sơn ông dựng chùa Đông Lâm và trụ trỉ ròng rã 30 năm không hề xuống núi, nơi đây ông lập ra hội Niệm Phật gọi là Bạch Liên Xã, có 123 người, trong đó có 18 vị gọi là “Đông Lâm Thập Bát Hiền”.

Những vị Tổ Tịnh Độ Tông Nước Trung Hoa lần lượt được tôn vị như sau : 1 ) Tuệ Viễn, 2 ) Thiện Đạo, 3 ) Thừa Viễn, 4 ) Phát Chiếu, 5 ) Thiếu Khương, 6 ) Diên Thọ, 7 ) Tỉnh Thường, 8 ) Châu Hoằng, 9 ) Ngẩu Ích, 10 ) Hành Sách, 11 ) Tỉnh Am, 12 ) Triệt Ngộ, 13 ) Ấn Quang .

Thiền tông

Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ thứ 28 truyền thừa từ đệ nhất Tổ Ca Diếp, từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng dương chánh pháp, ông trở thành đệ nhất Tổ Thiền Tông Nước Trung Hoa .

Thiên Thai tông

Còn gọi là Pháp Hoa Tông .

Hoa Nghiêm Tông

Còn gọi là Hiền Thủ Tông

Pháp Tướng Tông

Tam Luận Tông

Phật giáo Mật truyền

Là một tông phái Phật giáo đặc biệt quan trọng, do ba vị ĐH giả của Mật giáo là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, và Bất Không đem Mật giáo từ Ấn Độ truyền sang Nước Trung Hoa gọi là Mật Tông, y vào giáo lý bí hiểm của Kinh Đại Nhật, Kinh Kim Cương Đính gọi là Mật Tông hay Chơn Ngôn Tông .Mật Tông có ” tam mật “, nêu về ý thú thực tiễn tu hành, khi tu tới Tam Mật Tương Ứng với nhau, tức là ” Tức thân thành Phật “, nghĩa là tay thì kiết ấn ” Thân mật “, miệng đọc chú ” Khẩu mật “, ý trụ Tam ma địa ” Ý mật ” .

Phật giáo trên quốc tế

Tỉ lệ Phật tử đã quy y tam bảo theo vương quốc ( số liệu thống kê thấp nhất ) Tỉ lệ Fan Hâm mộ Phật giáo, phối hợp với những tín ngưỡng hoặc tôn giáo truyền thống lịch sử địa phương khác nhau ( số liệu thống kê cao nhất )Phật giáo có số lượng Fan Hâm mộ vào tầm 488 triệu người trên khắp quốc tế, [ 28 ] 495 triệu, [ 29 ] hoặc 535 triệu [ 30 ] người trong thập niên 2010, chiếm 7 % tới 8 % dân số toàn quốc tế .

Trung Quốc là quốc gia có đông tín đồ Phật giáo nhất, khoảng 244 triệu Phật tử hay 18,2% dân số cả nước.[28] Đa phần họ theo hệ tư tưởng Đại thừa, làm cho hệ phái này trở thành bộ phận đông đảo nhất của Phật giáo. Phật giáo Đại thừa, cũng hiện diện ở các nước có văn hóa Đông Á khác, có hơn phân nửa số Phật tử trên toàn thế giới tu tập.[28]

Bộ phận lớn thứ hai trong các hệ phái Phật giáo là Thượng tọa bộ, chủ yếu thu hút các tín đồ tại Đông Nam Á.[28] Bộ phận thứ ba và cũng là nhỏ nhất của Phật giáo, Kim cương thừa, với tín đồ hầu hết ở Tây Tạng, vùng Himalaya, Mông Cổ và nhiều khu vực ở Nga,[28] nhưng cũng được phổ biến trên khắp thế giới.

Theo báo cáo giải trình nghiên cứu và phân tích nhân khẩu học của Peter Harvey ( 2013 ) : [ 30 ]

  • Phật giáo phương Đông (Đại thừa) có 360 triệu tín đồ;
  • Phật giáo phương Nam (Nam truyền) có 150 triệu tín đồ; và
  • Phật giáo phương Bắc (Kim cương thừa) có 18,2 triệu tín đồ.
  • Bảy triệu tín đồ Phật giáo đến từ các nước bên ngoài châu Á.

Các số lượng trên chỉ là ước tính số người chính thức theo Phật giáo ( đã làm lễ Quy y tam bảo ), còn số người chưa chính thức theo Phật giáo ( chưa làm lễ Quy y tam bảo ) nhưng có niềm tin vào Phật giáo thì còn đông hơn số lượng đó rất nhiều. Ví dụ như tại Nước Ta và Trung Quốc, số lượng người đã làm lễ quy y tam bảo chỉ chiếm vài Phần Trăm dân số, nhưng số người đi chùa lễ Phật, cúng Phật tại gia, tin vào giáo lý đạo Phật … thì chiếm tỷ suất rất lớn trong xã hội .

Nước Ta

Chùa Dâu ngôi chùa Phật giáo đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam vào những năm đầu công nguyênPhật giáo được gia nhập vào Nước Ta từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử ( ở Hưng Yên ngày này ) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu ( thuộc tỉnh TP Bắc Ninh ) là trụ sở của Q. Giao Chỉ sớm trở thành TT Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết thần thoại về Tứ Pháp và Man Nương Phật Mẫu Open cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La ( Ksudra ) trong khoảng chừng những năm 168 – 189 .Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Nước Ta từ rất sớm. Đến đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo tăng trưởng cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng tác động đến tổng thể mọi yếu tố trong đời sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào quy trình tiến độ suy thoái và khủng hoảng. Đến đầu thế kỷ 17, Quang Trung cố gắng nỗ lực chấn hưng Phật giáo, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều tác dụng. Đến đời nhà Nguyễn, Phật giáo Nước Ta lại tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ khởi đầu từ những đô thị khắp cả nước với những góp phần quan trọng của những nhà sư Khánh Hòa, Thiện Chiếu, …Tóm lại, lịch sử vẻ vang Phật giáo Nước Ta trải qua bốn tiến trình :

  • từ đầu Công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
  • thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;
  • từ đời Lê Sơ đến đời Tây Sơn là giai đoạn suy thoái;
  • từ đời Nguyễn đến nay là giai đoạn phục hưng.

Những năm đầu Công nguyên, Phật giáo Nam Tông gia nhập vào Nước Ta. Mãi đến thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo Mật tông và Phật giáo Bắc Tông có hai tông phái được truyền vào Nước Ta là Thiền tông, Tịnh độ tông .Phần lớn dân cư Nước Ta không chăm sóc đến sự phân biệt giữa những tông phái Phật giáo, chỉ cần là chùa thờ Phật thì những Fan Hâm mộ đều coi trọng như nhau. Các vị sư trong chùa tu hành theo tông phái nào cũng không quan trọng, miễn là những vị sư này giữ gìn được những giáo giới quan trọng nhất của Phật giáo ( không sát sinh, không trộm cắp, không phạm sắc giới, không uống rượu, không ăn thịt ). Họ cũng không có hiểu biết thâm thúy về giáo lý Phật giáo mà chỉ hiểu đơn thuần là thiện nghiệp thiện báo hoặc thậm chí còn hiểu sai lầm cúng dường cho chùa nhiều thì thiện báo. Có người đến chùa chỉ để cầu xin cho bản thân và coi Phật như thể thần linh hoàn toàn có thể giúp họ toại nguyện chứ không hiểu rằng những gì họ nhận được chính là tác dụng của những gì họ tạo ra. Còn những hoạt động và sinh hoạt như cúng bái, cầu siêu, cầu an, bói toán, thỉnh vong, đốt vàng mã … là những hoạt động giải trí được gia nhập vào Phật giáo từ Nho giáo, Đạo giáo và Shaman giáo .

Trung Quốc

Theo sử liệu cho thấy Phật giáo được trình làng đến Trung Quốc do những nhà buôn hay những nhà sư truyền giáo người Ấn qua những ngã đường thủy và đường đi bộ. Về đường thủy thì xuất phát từ những hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Sri Lanka, Nam Dương để vào hải cảng Quảng Đông. Về đường đi bộ, còn gọi là con đường tơ lụa ( Silk road ) nối tiếp Đông Tây, chuyển dời bằng lạc đà, xuất phát từ miền Đông Bắc Ấn, rồi băng qua những sa mạc ở Trung Á để tới Lạc Dương ( kinh đô của nhà Hán ) .Theo biên niên sử thì Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên từ Trung Á nhằm mục đích niên hiệu Nguyên Thọ đời vua Hán Ai Đế nhà Tây Hán, nhưng Phật giáo không truyền bá thoáng rộng cho đến năm 65 Công nguyên, dưới triều vua Hán Minh Đế ( niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 nhà Hậu Hán, 25-220 công nguyên ), thì Phật giáo mới khởi đầu cắm rễ và tăng trưởng ở Trung Quốc. Vì muốn thần dân tu học Phật pháp nên vua Minh Đế đã cử một phái đoàn gồm 18 người đến Ấn Độ để thỉnh cầu hai Thiền sư người Ấn là Ca Diếp Ma Đằng ( Kàsyapama’tanga ) và Trúc Pháp Lan ( Dharmaraksa ) đến Trung Quốc hoằng pháp. Hai vị Tăng người Ấn này đã mang đến Trung Quốc bộ Kinh Bốn Mươi Hai Chương và trú ngụ tại chùa Bạch Mã ( ngôi chùa tiên phong ở Trung Quốc do vua Minh Đế kiến thiết xây dựng, đến nay vẫn còn ) ở Lạc Dương để hoằng dương Phật Pháp .Tiếp theo sau hai nhà sư Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, những nhà truyền giáo khác đến Trung Quốc là An Thế Cao ( An Shih-Kao ), là người An Tức ( Parthian, thuộc Bắc Ấn ), Chi Lâu Ca Sấm ( Lokaksema ), Trúc Phật Sóc ( Sangha Buddha ) đến Trung Quốc vào năm 148 Công nguyên, mang theo nhiều tầm cỡ hệ phái Đại thừa để phổ cập nơi vùng đất mới này .Đầu thế kỷ 20 là thời gian chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã tạo ra một làn sóng mới về dân chủ tự do cho nhân dân Trung Quốc thoát khỏi ách thống trị của chính sách phong kiến. Năm 1912, Tổng hội Phật giáo Trung Quốc ( Chinese Buddhist Association ) sinh ra tại Thượng Hải, một năm sau đó một hội khác ra đời tại Bắc Kinh là Trung ương Phật giáo Công hội. Đến năm 1922, công cuộc chấn hưng Phật giáo Trung Quốc đã lên cao với sự chỉ huy trào lưu tích cực của Đại sư Thái Hư ( T’ai – Hsu, 1890 – 1947 ), người khai sáng Hội Phật giáo Trung Quốc ( Buddhist Society of China ) có hơn 5 triệu thành viên trên khắp quốc gia. Mở đầu ông cho xây dựng Phật học viện Pháp Tạng ( Fa t’sang Buddhist School ), ông nhấn mạnh vấn đề rằng chương trình dạy được phối hợp hài hòa giữa Phật học và khoa học để lôi cuốn giới người trẻ tuổi tri thức, hiệu quả là học viên theo học rất đông .Không những Đại sư Thái Hư chăm sóc chấn hưng nền Phật giáo trong nước mà sư còn có nhiều góp phần để chấn hưng Phật giáo quốc tế. Chẳng hạn, năm 1924, ông tổ chức triển khai Hội nghị Phật giáo quốc tế ( World Buddhist Conference ) tại Lô Sơn, Trung Quốc. Năm 1925, ông tổ chức triển khai Hội nghị Phật giáo Đông Á ( East Asian Buddhist Conference ) ở Tokyo, Nhật Bản. Và từ năm 1928, ông khởi đầu những chuyến đi hoằng pháp ở những nước ở phương Tây. Ông đã trở thành một trong những nhà truyền giáo người châu Á tiên phong đến diễn thuyết tại Pháp, Đức, Anh và Mỹ, riêng tại Pháp, vào 1931, ông đã cho thiết kế xây dựng một Học viện Phật giáo tại Paris để hướng dẫn quần chúng Tây phương học Phật .Nhìn chung với sự góp phần chấn hưng của những Đại sư Thái Sư và sự ủng hộ của chính phủ nước nhà Trung Quốc, Phật giáo Trung Quốc đã nhanh gọn phục hưng về mọi phương diện từ thiết kế trùng tu cơ sở cho đến văn hóa truyền thống nghệ thuật và thẩm mỹ, in ấn tầm cỡ. Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Quốc lúc ấy đã ảnh hưởng tác động và lan tỏa đến những nước láng giềng như Nhật Bản, Triều Tiên và Nước Ta .Vào đầu thế kỷ 20, Phật giáo Trung Quốc phải chịu trải qua một thời kỳ cải cách để hoàn toàn có thể thích hợp trào lưu mới của xã hội, những tưởng vận mệnh Phật giáo Trung Quốc đã thoát khỏi tai ách của thời cuộc, nhưng không bao lâu sau đó, Phật giáo Trung Quốc lại liên tục bị tàn phá trầm trọng qua cuộc chiến Trung-Nhật ( 1940 – 1945 ), rồi tiếp đó là cuộc Cách mạng văn hóa truyền thống ( 1966 – 1976 ), Phật giáo Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của những cuộc đàn áp vô căn cứ của chủ trương thay đổi lạ lùng này .Từ năm 1976 đến nay, tuy chính phủ nước nhà Trung Quốc có nhiều chủ trương cởi mở hơn để Phục hồi lại Phật giáo, nhưng nhìn chung Phật giáo Trung Quốc vẫn chưa lấy lại được sinh khí của mình như thuở nào. Tất cả phải đợi chờ đến một cuộc thay đổi khác trong một tương lai gần .Hiện nay, Phật giáo tại Trung Quốc gồm dòng là Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Nam Tông, tăng lữ xuất gia của ba hệ phái lớn này có 200 nghìn người. Hiện nay Trung Quốc có hơn 13.000 chùa Open, có 33 trường Phật giáo và gần 50 loại sách báo, tạp chí Phật giáo xuất bản .

Miến Điện ( Myanmar )

Truyền thuyết cho rằng Miến Điện (Myanma) đã tiếp cận với đạo Phật trong thời A-dục vương (zh. 阿育王, sa. aśoka, pi. asoka, thế kỉ thứ 3 trước CN). Theo một thuyết khác, Phật giáo đã đến Miến Điện trong thời đức Phật còn tại thế, do hai thương nhân từ Ấn Độ mang tới. Những vị này mang theo cả tóc Phật, ngày nay được giữ trong đền Shwe-Dagon tại Rangun (Yangon).

Kể từ thế kỉ thứ 5, Phật giáo phát triển rực rỡ với sự có mặt của Thượng tọa và Phát triển. Kể từ thế kỉ thứ 7, hai phái Nguyên Thủy và Phát triển song hành tại Miến Điện, sau đó Mật tông cũng bắt đầu có ảnh hưởng. Thế kỷ 11, nhà vua A-na-ra-tha tuyên bố chỉ chấp nhận Thượng tọa bộ và từ đó, phái Đại thừa biến mất tại đây. Tại Miến Điện, Bagan ở miền bắc trở thành trung tâm Phật giáo. Phật giáo Miến Điện liên hệ chặt chẽ với Phật giáo Sri Lanka, nhất là với Đại Tự. Thế kỉ thứ 15, vua Đạt-ma-tất-đề (pi. dhammaceti) lại xác định lần nữa rằng Phật giáo Miến Điện mang nặng quan điểm của Thượng tọa bộ. Sự có mặt của người Anh trong thế kỉ thứ 19 làm xáo trộn Phật giáo Miến Điện đáng kể. Mãi đến lúc giành lại độc lập năm 1947, Miến Điện mới trở lại cơ chế cũ. Năm 1956 tại Rangun có một cuộc kết tập kinh điển quan trọng do Đại hội Phật giáo thế giới tổ chức. Ngày nay, 90% dân Miến Điện là Phật tử, Phật giáo được xem là quốc giáo.

Sri Lanka

Người ta cho rằng Phật giáo đến Sri Lanka khoảng năm 250 trước Công nguyên, do Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa (pi. saṅghamitta), hai người con của A-dục vương (sa. aśoka, pi. asoka), truyền từ Ấn Độ. Nhà vua Sri Lanka hồi đó là Thiên Ái Đế Tu (pi. devānampiya tissa) trở thành Phật tử và thành lập Đại tự nổi tiếng, nơi đó ông trồng một nhánh cây Bồ-đề có nguồn từ nơi Phật thành đạo, Bồ-đề đạo tràng. Đại tự trở thành trung tâm của Thượng tọa bộ.

Theo thời gian, nhiều tông phái Phật giáo khác thành hình và gây nhiều tranh cãi, đến nỗi có khi nhà vua phải can thiệp. Đó là những tranh luận ban đầu của Tiểu thừa và mầm mống của Đại thừa, của cả Mật tông thời bấy giờ. Cuối cùng, Thượng tọa bộ thắng, trong đó Phật Âm – một Luận sư xuất sắc của Thượng tọa bộ – đóng vai trò quyết định. Tác phẩm của Phật Âm ngày nay vẫn còn ảnh hưởng lên Phật giáo Sri Lanka. Đến thế kỉ thứ 12, vua Ba-lạc-la Ma-bà-ha-y (pi. parakkambahu), họp hội nghị Phật giáo và ép tất cả các trường phái phải theo giáo lý của Thượng tọa bộ tại Đại tự.

Qua thế kỉ thứ 16, người Bồ Đào Nha vào Sri Lanka. Đến thế kỉ thứ 17, người Hà Lan lại ủng hộ việc Phục hồi Phật giáo tại Sri Lanka. Ngoài ra, Miến Điện và Đất nước xinh đẹp Thái Lan cũng có ảnh hưởng tác động đáng kể lên nền Phật giáo tại đây. Kể từ khi Sri Lanka giành lại độc lập năm 1948, Phật giáo luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc tín ngưỡng và nền văn hóa truyền thống của xứ này .

Indonesia

Borobudur, ngôi chùa Phật giáo lớn nhất quốc tế tọa lạc tại miền trung hòn đảo Java

Người ta cho rằng Phật giáo du nhập đến Indonesia khoảng thế kỉ thứ 3 sau Công nguyên. Cao tăng Pháp Hiển, vị tăng Trung Quốc đầu tiên đến Ấn Độ, cũng là người đến Nam Dương năm 418. Cuối thế kỉ thứ 5 thì Phật giáo bắt đầu phát triển tại Indonesia, đến thế kỉ thứ 7 thì Sumatra và Java trở thành hai trung tâm Phật giáo quan trọng. Tại đây, giáo lý Đại thừa được truyền bá rộng rãi, có một số tư tưởng Tiểu thừa, có lẽ của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được thừa nhận. Dưới thời vua Shai-len-dra, Phật giáo phát triển rực rỡ, đó là thời kì xây dựng tháp tại Borobudur, là Phật tích lớn nhất còn lưu tới ngày nay. Khoảng cuối thế kỉ thứ 8, Mật tông bắt đầu thịnh hành. Đại thừa và Mật tông tồn tại mãi đến thế kỉ thứ 15, trong suốt thời gian này, Phật giáo Nam Dương liên hệ nhiều với Ấn Độ và với viện Na-lan-đà (sa. nālandā). Với sự xâm nhập của Hồi giáo, Phật giáo bắt đầu tàn lụi tại Nam Dương, kể từ thế kỉ thứ 15. Ngày nay chỉ còn một số nhỏ tín đồ, nhất là trong giới Hoa kiều.

Campuchia

Người ta cho rằng Phật giáo du nhập vào Campuchia trong thế kỉ thứ 3 sau CN, theo văn hệ Phạn ngữ, trường phái Thuyết nhất thiết hữu bộ và đạt được đỉnh cao khoảng thế kỉ thứ 5, thứ 6. Năm 791 người ta tìm thấy gần đền Brahma (Angkor Wat) một văn bản chứng tỏ rằng Đại thừa đã có mặt nơi đây song song với việc thờ thần Shiva (sa. śiva). Sự hỗn hợp này có lẽ bắt nguồn từ việc thờ cúng Bồ Tát Quán Thế Âm, mà Thấp-bà được xem là một hóa thân. Mọi nhà vua của Campuchia cũng đều được xem là hóa thân của Quan Thế Âm. Sau một thời gian thì yếu tố thần Shiva hầu như bị mất đi, nhưng đến thế kỉ thứ 13, người ta lại tôn thờ thần Shiva và tăng giả Phật giáo bị bức hại. Theo các Cao tăng Trung Quốc thì trong thời gian này, Thượng tọa bộ được phát triển trong lúc Đại thừa bị lu mờ. Một số văn bản bằng văn hệ Pali ghi năm 1309 chứng minh rằng Thượng tọa bộ được hoàng gia công nhận và kể từ đó là giáo phái chính thống của Campuchia. Mãi đến cuối thế kỉ thứ 19, Phật giáo truyền từ Thái Lan mới bắt đầu có ảnh hưởng.

Vương Quốc của nụ cười

Người ta biết rất ít việc Phật giáo được truyền bá đến Thái Lan. Kết quả khảo cổ cho thấy Phật giáo đến Thái Lan khoảng thế kỉ thứ 6 từ Miến Điện. Ban đầu giáo lý Therevada tức Phật giáo nguyên thủy Nam tông có ảnh hưởng rộng rãi. Khoảng giữa thế kỉ thứ 8 và 13, Mahayana (hay phái Bắc Tông) được truyền bá rộng hơn. Giữa thế kỉ thứ 11 và 14, ảnh hưởng của Ấn Độ giáo bắt đầu phát triển. Trong thế kỉ 13, Hoàng gia Thái Lan chính thức công nhận Thượng tọa bộ (giáo lý của Phật giáo nguyên thủy Therevada)và mối liên hệ với Sri Lanka trong thời kì này càng làm cho bộ này phát triển thêm rộng rãi. Năm 1782, nhà vua triệu tập một đại hội nhằm kiểm điểm lại Tam tạng kinh điển. Trong thế kỉ thứ 19, nhà vua Ma-ha Mông-cút (mongkut) lên ngôi, bản thân ông cũng đã là một tăng sĩ, ông là người đặt nền tảng cho nền Phật giáo cận đại. Ông thành lập Pháp tông (dhammayut), cơ sở dựa vào Luật tạng và ngày nay có nhiều tín đồ nhất tại Thái Lan. Vua Chulalangkorn – trị vì từ 1868 đến 1910 – cho xuất bản các tạng kinh quan trọng của Phật giáo, có thể gọi là đầy đủ nhất từ xưa đến nay. Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo Phật giáo.

Triều Tiên

Trong thế kỉ thứ 4 sau CN, Phật giáo du nhập vào Triều Tiên và phát triển rực rỡ nhất là giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 9. Trong thời kì này, các trường phái quan trọng của Trung Quốc đều được thành lập tại Triều Tiên như Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông (Chân ngôn tông). Bộ kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng được truyền bá rộng rãi rất sớm tại Triều Tiên. Người ta cũng tìm thấy nhiều tác phẩm văn hóa mang đặc tính Phật giáo tại đây. Suốt thời nhà Lý (yi, 1392-1910), nền văn hóa Khổng giáo trở thành quốc đạo và tăng ni Phật giáo bị ép buộc phải vào núi tu hành. Sau năm 1945, Phật giáo được phục hưng và phát sinh một phong trào mới gọi là Viên Phật giáo (en. won-buddhism). Ngày nay, tại Hàn Quốc người ta ít phân biệt các tông phái đạo Phật và thực hành song song với nhau thiền quán, niệm Phật A-di-đà và tụng kinh. Phép niệm thần chú cũng được truyền bá rộng rãi, vốn có nguồn gốc từ Mật tông của thời trung cổ. Trong giới trí thức, Thiền tông được nhiều người theo trong lúc giới bình dân lấy niệm danh hiệu các đức Phật làm chủ yếu. Trộn lẫn với Phật giáo là hình thức thờ đa thần như thần núi, linh vật, thần tinh tú.

Mông Cổ

Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton [ 31 ], Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ 4 TCN bằng con đường tơ lụa ( Silk Road ) qua những nhà buôn người Ấn Độ. Từ đó Phật giáo dần dà tăng trưởng đến thế kỷ 13 với nhiều đợt truyền giáo của Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Trung Quốc. Tuy nhiên, Phật giáo Tây Tạng chiếm lợi thế và ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ. Ðỉnh cao của sự tác động ảnh hưởng này là Đạt-lại Lạt-ma thứ 4 là người Mông Cổ ( 1588 ). Trước khi Phật giáo được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo địa phương là Shaman giáo, một tôn giáo chịu ảnh hưởng tác động từ truyền thống lịch sử tâm linh của người Ba Tư .
Phật giáo Mông Cổ mở màn hưng thịnh từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 19 khi tôn giáo này trở thành quốc giáo của Mông Cổ. Đến đầu thế kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì cuộc chiến tranh, xung đột chính trị từ những cường quốc bên ngoài, sau Trung Quốc ( 1912 ), Nhật Bản đánh chiếm vào Manchuria vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng quân Liên Xô mở màn cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ đó trở đi Mông Cổ trở thành vương quốc xã hội chủ nghĩa, với chủ trương không khoan nhượng tôn giáo, có hàng chục ngàn tăng ni và cư sĩ Phật giáo Mông Cổ tri thức bị trục xuất hoặc bị tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800 tự viện bị hủy hoại trọn vẹn trên khắp Mông Cổ .Từ năm 1989 đến nay, khi Mông Cổ trở thành nước đa đảng thì những rào cản về hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng được tháo bỏ, những hoạt động giải trí của Phật giáo đã từng bước trở lại thông thường, có hơn 160 ngôi Tu viện Phật giáo được kiến thiết xây dựng hoặc Open trở lại và rất nhiều người xuất gia tu học và làm công tác làm việc truyền giáo. Hiện nay, 50 % dân số Mông Cổ theo Phật giáo Tây Tạng .

Lào

Hầu hết nhân dân Lào theo Phật giáo. Phật giáo trở thành quốc giáo của họ. Ở Lào, Phật giáo giữ vị trí quốc giáo từ nhiều thế kỷ nay. Phật giáo có tác động ảnh hưởng đến việc hình thành tính cách dân tộc bản địa, nhân sinh của người Lào .Theo nhiều nguồn sử liệu còn để lại cho thấy, vào khoảng chừng thế kỷ 12, những người Môn tiên phong di cư xuống vùng Tây Lào đã truyền bá Phật giáo cho những dân cư tại đây. Những người Môn này đã mang theo rất nhiều kinh Phật, tượng Phật và những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Sri Lanka đến truyền bá Phật pháp. Từ đó họ truyền đi những ngả và tăng trưởng rộng khắp đến những vùng phía Tây của Lào .Đến thế kỷ 13 khi tộc người Lào Thay chinh phục xong hàng loạt phần đất Bắc Lào to lớn họ đã tiếp thu Phật giáo hệ phái Thượng tọa Bộ hay Therevada – Phật giáo Nam tông và tăng trưởng rộng khắp cả vùng Bắc và Trung Lào. Thời gian này, Phật giáo Lào có quan hệ mật thiết với Phật giáo Srilanka. Trong khi đó, từ phía Nam, Phật giáo Lào cũng chịu tác động ảnh hưởng của Phật giáo Khmer vốn theo Thượng tọa Bộ – Therevada. Dưới thời của đế chế Angkor, thống trị từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, Phật giáo Đại thừa đã được truyền bá vào Lào. Thế kỷ 14 khi vua Phà Ngừm ( 1316 – 1373 ) thống nhất hàng loạt chủ quyền lãnh thổ nước Lào, ông đã tiếp thu Phật giáo Thượng tọa Bộ từ Campuchia và tăng trưởng trên khắp quốc gia Lào. [ 32 ]Hiện nay, Phật giáo tại Lào sống sót song song hai hệ phái là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Thượng tọa Bộ, trong đó hệ phái Phật giáo Thượng tọa Bộ – Therevada chiếm hầu hết. Theo số lượng thống kê, lúc bấy giờ ở Lào có hơn 20.000 tăng ni, khoảng chừng 6.300 cơ sở thờ tự, chiếm khoảng chừng 85 % dân số nước này. Phật giáo Thượng tọa Bộ ở Lào phân loại thành 2 phái nhỏ là Đại tông phái truyền thống lịch sử chiếm 94 % số chùa, 90 % số sư sãi. Tông phái này từ Vương Quốc của nụ cười truyền sang vào thế kỷ 14. Và Pháp tông phái vốn do nhà vua Mongkut ( Rama IV ) của Vương triều Chakri ( Xứ sở nụ cười Thái Lan ) lập ra khi nhà vua chưa lên ngôi. Phái này chủ trương cải cách Phật giáo, chủ trương bảo vệ giới luật trang nghiêm, do những cao tăng quản lý và điều hành. Sư tăng của phái nầy tuy hạn chế, nhưng phần nhiều là những quý tộc xuất gia, nhiều nhà trí thức, trước kia được Hoàng gia Lào ủng hộ .

Nhật Bản

Phật giáo khởi đầu từ Ấn Độ từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Một nhánh chính của Phật giáo, nhánh Mahayana hay gọi là Phật giáo Bắc tông đã gia nhập vào Nhật Bản. Phật giáo được gia nhập vào Nhật từ Trung Hoa và Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc thân hữu Triều Tiên Kudara vào thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên. Trong khi Phật giáo được giới quý tộc quản lý ủng hộ, lúc đầu nó lại không thông dụng trong giới thường dân vì những kim chỉ nan phức tạp của nó. Đến thời Nara, Phật giáo mới tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ trong dân chúng và toàn nước Nhật .Trong nhiều thế kỷ, Phật giáo là quốc giáo của nước này. Ảnh hưởng lớn đến chính trị, xã hội, văn hóa truyền thống của vương quốc này. Từ khi Phật giáo truyền đến nước Nhật, sự hợp nhất giữa Phật giáo và Thần đạo đã diễn ra trong một khoảng chừng thời hạn dài. Phật giáo khởi đầu thời kỳ suy vi tại Nhật vào thế kỉ 19, vào thời Minh Trị, chính quyền sở tại lúc bấy giờ đã ra sắc lệnh ” Thần Phật phân ly “, tách Thần Đạo ra khỏi Phật giáo, đồng thời nỗ lực chấn hưng tôn giáo địa phương. Đây là thời kì Thần Đạo tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ với sự bảo trợ đặc biệt quan trọng của chính quyền sở tại. Thần Đạo trở thành quốc giáo của Nhật Bản, gắn liền với những hoạt động giải trí của nhà nước. Phật giáo được Phục hồi lại sau Chiến tranh quốc tế thứ hai với việc nhiều tổ chức triển khai Phật giáo sinh ra làm sống dậy những sinh hoạt Phật sự trên khắp nước Nhật .Theo thống kê gần đây, Phật giáo Nhật Bản có 70.000 ngôi chùa, 250.000 tăng ni, 96 triệu Phật tử, chiếm 3/4 dân số. Việc nghiên cứu và điều tra và giảng dạy Phật giáo khá tăng trưởng. Có trên 20 trường ĐH, trung học và viện nghiên cứu và điều tra Phật giáo ở khắp quốc gia Nhật. Giáo lý Phật giáo được điều tra và nghiên cứu và tuy tụ, hiệu đính, chú giải có mạng lưới hệ thống bằng chiêu thức nghiên cứu và điều tra của phương Tây từ đầu thế kỷ XX mà đỉnh điểm là sự sinh ra của Đại chính tân tu đại tạng kinh. Phật giáo Nhật Bản có rất nhiều tông phái khác nhau, được chia thành mười ba tông phái chính .

Khác biệt so với những tôn giáo khác

Tiểu ni cô tại Thailand

1. Bình đẳng:

  1. Trong các tôn giáo độc thần luôn có một đấng tối thượng. Phật giáo thì chỉ coi một trình độ nhận thức được gọi là giác ngộ là tối thượng chứ không tồn tại một đấng tối thượng. Bậc Vô thượng bồ đề hay gọi đơn giản là Phật chính là một bậc mà mọi chúng sinh đều có thể đạt được nếu kiên trì tu tập, tĩnh tâm suy nghĩ, sử dụng trí tuệ của mình để cuối cùng đạt tới giác ngộ.
  2. Trong nhiều tôn giáo, tín đồ sùng bái các vị thần, các vị thần này có quyền lực siêu nhiên, con người không thể đạt tới được. Còn trong Phật giáo, danh hiệu Phật là để chỉ một người đã giác ngộ, đạt tới cảnh giới giải thoát, ra khỏi luân hồi, hoàn toàn trong sạch và hơn nữa phải là người có lòng từ bi thương yêu, cứu giúp tất cả chúng sinh không phân biệt dù hy sinh cả bản thân mình. Danh hiệu này chúng sinh có thể đạt tới, dù thời gian tu tập kéo dài rất lâu. Sự suy tôn trong đạo Phật là do tự cảm phục trước lòng từ bi, đức độ và công hạnh của người đã đạt đến bậc Vô thượng bồ đề, là sự tôn trọng dành cho một nhà hiền triết, là sự tự nguyện noi theo đức độ và giải thoát chứ không hề có sự ép buộc phải phục tùng, cầu lợi. Chính Phật cũng đã khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
  3. Các tôn giáo khác thường có giáo hội và người đứng đầu, lãnh đạo toàn bộ tín đồ (ví dụ như Giáo hoàng của đạo Công giáo, Khalip của Đạo Hồi). Phật giáo có giáo hội nhưng không đặt ra người đứng đầu, các tín đồ đều bình đẳng. Trong Phật giáo, người có thời gian, cấp độ tu hành cao sẽ được các tín đồ khác trọng vọng, nhưng họ không có quyền chỉ đạo các tín đồ khác. Trước khi nhập diệt, Phật Thích Ca đã để lại di ngôn là tăng đoàn sẽ không có người đứng đầu (để tránh tăng đoàn bị sa vào tranh chấp quyền lực, tài sản), các bài kinh và lời dạy của Phật là điều có thể giúp các tín đồ dựa vào đó để sử dụng trí tuệ của mình tự soi sáng cho mình: “Này A-Nan, thầy cho rằng các Tỳ-kheo không có nơi nương tựa, không có ai che chở sau khi Ta nhập diệt ư? Đừng nghĩ như vậy, những Kinh, Luật mà Ta đã giảng dạy từ khi thành Phật đến nay sẽ là chỗ nương tựa che chở cho các thầy đó… Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; hãy tinh tấn tu hành”. Điều này cũng giống như Kant đã nói “Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình! đó là câu phương châm của Khai sáng[33]”.

2. Quan niệm về thế giới:

  1. Trong khi đó, các tôn giáo độc thần cho rằng đấng tối cao của họ là vĩnh hằng, bất biến và sáng tạo ra vạn vật, cho rằng đấng tối cao đó không sinh ra từ đâu mà đã có khi vạn vật chưa tồn tại. Còn Phật giáo thì cho rằng mọi sự vật, hiện tượng (trừ cõi Niết Bàn) đều là vô thường, không thể tồn tại vĩnh hằng, có sinh thì phải có diệt. Duyên khởi thì sinh, duyên tận thì diệt. Ngay cả không gian, thời gian, các hành tinh và cả vũ trụ cũng vậy, cũng có khởi đầu, biến đổi và cuối cùng là kết thúc. Trong Kinh Khởi thế nhân bổn, Phật thuyết giảng rằng đã có vô số các thế giới giống như Trái Đất từng được hình thành, phát triển rồi bị hủy diệt trong quá khứ, và tương lai cũng sẽ có vô số các thế giới sinh ra rồi hủy diệt như vậy (ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng Mặt trời sẽ tàn lụi sau khoảng 5 tỷ năm nữa, Trái Đất cũng theo đó mà bị hủy diệt)
  2. Nhiều tôn giáo cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ. Đạo Phật thì cho rằng Trái Đất chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng tồn tại, mỗi thế giới lại có những đặc điểm khác nhau, Trái Đất chỉ giống như một hạt cát trong vũ trụ. Phật giáo có khái niệm Tiểu thiên thế giới (1 ngàn hành tinh), Trung thiên thế giới (1 triệu hành tinh), đại thiên thế giới (1 tỷ hành tinh), Tam thiên đại thiên thế giới (3 nghìn tỷ hành tinh). Đức Phật nói vũ trụ này lại có vô số Tam thiên đại thiên thế giới, tức là số lượng các thế giới khác nhau gần như là vô hạn. Phật Thích Ca từng nói: “Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly nước cũng có vô số những con trùng trong đó”. Quan điểm này hiện nay đã được khoa học hiện đại chứng minh là đúng (theo thuật ngữ của khoa học hiện đại thì “Tam thiên đại thiên thế giới” chính là tương ứng với một thiên hà, còn những con trùng trong bát nước chính là vi khuẩn).

3. Quan niệm về loài người và thần linh:

  1. Các tôn giáo khác coi loài người là sinh vật tối thượng. Còn trong Phật giáo, loài người (nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài vật khác (súc sinh giới, a-tu-la giới, thiên giới), có kiếp sống còn cao cấp hơn loài người và các kiếp sống có sức mạnh khác nhau. Song dù là người, a-tu-la, trời hay súc sinh thì cũng đều là sinh vật, phải chịu quy luật Nhân quả (làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác), không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết, lúc chết thì sẽ luân hồi sang kiếp sống khác, kiếp sau như thế nào thì phải tùy vào việc làm nhiều thiện nghiệp hay ác nghiệp (ví dụ: một người mà nhiều điều thiện thì kiếp sau có thể lên thiên giới, nhưng kiếp sau mà làm điều ác thì kiếp sau nữa lại trở thành súc sinh).
  2. Trong phần lớn các tôn giáo khác, các vị thần thánh được coi là có quyền lực siêu nhiên, loài người không thể nào đạt tới cấp độ năng lực của họ. Đức Phật cũng nói về thần thánh, nhưng ông nói rằng các vị thần cũng chỉ là một dạng sinh vật trong các thế giới. Kiếp trước của các vị thần cũng chỉ là người hoặc loài vật, nhưng vì họ tạo ra nhiều thiện nghiệp nên kiếp này họ được phước báo, được đầu thai làm thần linh. Họ có quyền năng siêu phàm nhưng không phải là toàn năng (họ không thoát khỏi được luật Nhân – Quả, không thoát khỏi được sinh tử luân hồi), họ cũng không phải là bất tử (dù tuổi thọ của họ rất dài lâu, có khi lâu hơn cả một chu kỳ thế giới, nhưng rồi cũng phải đến lúc họ chết đi). Đức Phật giảng như sau: một người nếu hành thiện tích đức, tu luyện thiền căn đủ mức thì kiếp sau họ sẽ được luân hồi vào các cõi Trời, trở thành một vị thần, nhưng khi phước báo hết thì thọ mạng của vị thần đó cũng hết, họ sẽ chết và lại phải tiếp tục đầu thai vào kiếp sau (Phật nói rằng trong một số tiền kiếp, ông từng là Thiên chủ Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi, từng trị vì rất lâu nhưng rồi cũng phải chết đi). Đối chiếu theo quan điểm hiện đại, có thể coi các vị thần mà Đức Phật nói tới chính là những nền văn minh ngoài Trái Đất có trình độ cao hơn hẳn so với loài người.

4. Tôn thờ:

  1. Phật giáo không ép buộc hay khuyến khích thờ cúng bất kỳ ai. Nên phân biệt rõ sự ép buộc thờ cúng để hưởng thụ với sự thành tâm cúng dàng, hỷ xả của một tín đồ. Một vị Phật hay một vị tăng chân chính không coi trọng bản thân mình, sẵn sàng hy sinh vì chúng sinh khiến chúng sinh cảm động. Việc chúng sinh dâng cúng là vì họ muốn tạo công đức, gieo một nhân lành, gieo một duyên tốt để từ đó diệt trừ tham lam, đi vào tu tập, xả bỏ vướng bận và giải thoát.
  2. Sự cúng dàng và bái lạy, hầu cận Phật là một sự ngưỡng mộ, noi theo đối với đấng Thế tôn đã giải thoát và từ bi vô lượng. Khi một người đạt đến quả vị Vô thượng bồ đề thì cả vũ trụ đều rúng động và suy tôn vì đức độ vĩ đại của vị Phật đó chứ vị Phật đó không còn mong muốn ai suy tôn, thờ cúng cho mình. Quả vị đó là một sự thật chứ không phải tự phong. Phật đã đạt tới và Phật nhận tất cả tấm lòng của chúng sinh hướng về chính đạo để hướng dẫn cách giải thoát cho chúng sinh. Hơn hết tất cả, quả vị Vô thượng bồ đề là bậc mà mọi chúng sinh đều có thể tự tu tập và đạt được theo sự chỉ bảo của Phật.
  3. Một tôn giáo thường được định nghĩa qua mối tương quan giữa con người với các điều siêu nhiên hoặc thế lực siêu nhiên. Hầu hết các tôn giáo tin vào những thế lực siêu nhiên này, và được hình tượng hóa bằng đấng tối cao, hoặc các vị thánh hay thần linh… sáng tạo ra con người, con người chịu sự chi phối của họ cùng với lý tưởng có thưởng – có phạt tùy theo công trạng và cách sống. Nếu xét theo tiêu chuẩn của định nghĩa đó thì đạo Phật không được xem là một tôn giáo vì thế giới quan đạo Phật không có một đấng tạo hóa tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác dù rằng đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo.[34]

Tóm lại, Phật giáo giống như con đường giải thoát dành cho tất cả chúng sinh, không phân biệt ai. Phật giáo nói lên một con đường khách quan để đi tới chân lý. Giáo lý của Phật giáo không phải do Phật sáng tạo ra mà là chân lý khách quan theo giác ngộ của Phật. Phật chỉ là người phát hiện, dấn thân và chứng đắc để rồi truyền dạy lại cho chúng sinh cách giải thoát với lòng từ bi vô lượng. Phật xem tất cả chúng sinh là bình đẳng và hoàn toàn có thể thành Phật.

Ảnh hưởng tới văn hóa truyền thống

Nước Ta

Những danh từ trình độ của Phật giáo đã biến thành văn hóa người Việt qua ngôn từ của người tầm trung Nước Ta thường sử dụng, đã được truyền bá thoáng đãng trong dân gian và trở nên phổ cập trong văn hóa truyền thống người Việt .

  • Bụt chính là phiên âm của từ Buddha trong tiếng Phạn, chính là chỉ Đức Phật. Trong truyện cổ tích Việt Nam thường thấy nhân vật Bụt xuất hiện để cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ ác.
  • Khi khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, người Việt thường mở đầu bằng câu “Con nam mô A Di Đà Phật”. A Di Đà Phật là vị Phật cai quản cõi Tây phương cực lạc, người Việt khấn như vậy để thể hiện mong muốn vong linh của tổ tiên được Phật A Di Đà tiếp dẫn, đưa tới tái sinh ở cõi Phật thanh tịnh.
  • Người Việt có lễ xá tội vong nhân, Vu Lan báo hiếu xuất phát từ một điển tích trong Phật giáo, đó là việc tôn giả Mục Kiền Liên (1 trong 2 đại đệ tử của Phật Thích Ca) đã báo hiếu bằng việc khẩn cầu công đức của chư Tăng các phương để cứu mẹ ra khỏi kiếp ngạ quỷ.
  • Người Việt có câu ca dao “Dẫu xây chín bậc phù đồ (bảo tháp), chẳng bằng làm phúc cứu cho một người” – hàm ý rằng cứu một mạng người tạo ra công đức còn hơn cả xây bảo tháp thờ Phật, câu nói thể hiện triết lý của đạo Phật là “phổ độ chúng sinh”, coi trọng việc hành động theo lời Phật dạy hơn là chỉ phô trương hình thức.
  • Con người mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót và thốt lên câu: Tội nghiệp quá!… Hai chữ tội nghiệp là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Cụm từ “tội nghiệp quá!” là câu nói của người bình dân hàm súc hai ý nghĩa: Một là phán định tội lỗi, và hai là tâm linh chia sẻ. Phán định tội lỗi, nghĩa là người này đã gây nghiệp tội ác quá nặng trong quá khứ cho nên giờ đây phải chịu quả báo khổ đau không thể trốn tránh. Tâm tình chia sẻ, nghĩa là thấy họ hoạn nạn đau khổ thì bộc lộ tâm tình thương hại để san sớt phần nào niềm đau nỗi khổ của họ.
  • Người bình dân muốn diễn tả số lượng người ta quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều thì liền dùng câu “Hằng hà sa số” để tỏ bày. Hằng hà sa số là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông Hằng. Sông Hằng (sông Gange) là chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng thế giới là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ “Hằng hà sa số” nhằm để nói lên số lượng quá nhiều không thể đếm được
  • Khi thấy một số người đi lang thang khắp nơi, sống rày đây mai đó, không chịu dừng chân một chỗ nào lâu dài, người bình dân thường gắn cho họ một ngôn từ đơn giản là kẻ sống Ta bà thế giới. Ta bà thế giới là ngôn từ chuyên môn của Phật giáo nhằm chỉ cho thế giới mà loài người đang sống, bao gồm cả sáu cõi luân hồi chúng sanh sống chung lẫn lộn với nhau, gồm cõi địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh, cõi loài người, các cõi Trời. 6 cõi nói trên có một danh từ gọi chung là “cõi Dục Giới”, bởi chúng sinh ở 6 cõi này bị chi phối mạnh mẽ bởi các Dục (các ham muốn của bản thân). Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Dục giới đa phần là ngắn ngủi, mỗi kiếp sống thường chỉ là tạm bợ rồi lại phải chết và luân hồi sang kiếp sống khác, hạnh phúc thì ít mà khổ đau thì nhiều. Ngôn từ “Ta Bà Thế giới” của Phật giáo đã được người Việt Nam tiếp nhận trở thành văn hóa người Việt, dùng để chỉ cõi trần của con người.

Trung Quốc

Ảnh hưởng rõ ràng nhất của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã phân tách thành những dòng lớn, mang sắc tố văn hóa truyền thống nước này. Phật giáo Trung Quốc hầu hết là Phật giáo Bắc tông Hán truyền. Ở những tỉnh như Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải thì có mạng lưới hệ thống Tạng truyền. Tại tỉnh Vân Nam có mạng lưới hệ thống Phật giáo Nam truyền. Nhiều điều tra và nghiên cứu đã chứng minh và khẳng định rằng Phật giáo rất tương thích cho sự tăng trưởng về kinh tế tài chính – xã hội và văn hóa truyền thống của quốc gia Trung Quốc. Với sách lược là phải Phục hồi hàng loạt văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử của Trung Quốc, trong đó Phật giáo cũng được Phục hồi và tăng trưởng, đã giúp nhu yếu về tín ngưỡng cũng như tu học của con người trong xã hội Trung Quốc ngày càng cao, và do vậy, Phật giáo đã ứng dụng những tiện ích hiện đại để phân phối nhu yếu đó một cách toàn vẹn [ 35 ] .

Nhận xét

Nhà bác học Vật lý Albert Einstein có nhắc qua về Phật giáo trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau [ 36 ] :

…một người được giác ngộ bởi tôn giáo, đối với tôi có vẻ như là người cố gắng đến khả năng cực đại của bản thân, giải thoát mình khỏi những xiềng xích của những ham muốn ích kỷ của mình và đi sâu, chìm đắm trong những suy nghĩ, cảm xúc và nguyện vọng, những cái mà người đó luôn giữ chặt, vì giá trị của siêu-cái tôi cá nhân (gọi tắt là X). Tôi thấy rằng, dường như cái quan trọng là sức mạnh của những thứ (nội dung) nằm trong X… chứ không cần quan tâm đến bất kỳ một nỗ lực nào được thực hiện để thống nhất những điều này với một đấng Thiên chúa, nếu không thì nó có thể không khả thi khi tính Phật và Spinoza là như loại hình tôn giáo (nhân cách). Theo đó, người mộ đạo theo cảm giác (có ý thức) rằng, họ không hề nghi ngờ gì về tầm quan trọng của các đối tượng nằm trong X này và về các mục tiêu, cái mà không cần và cũng không có đủ khả năng xây dựng nên dựa trên một nền tảng khoa học hợp lý… Theo cách hiểu này, tôn giáo là nỗ lực lâu đời của nhân loại để trở nên rõ ràng và được nhận thức hoàn toàn đầy đủ về những giá trị và mục tiêu, và không ngừng củng cố cũng như mở rộng ảnh hưởng của nó. Nếu mọi người quan niệm về tôn giáo và khoa học theo những định nghĩa này, thì một cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học dường như là không thể. Vì đối với khoa học chỉ có thể xác định nó “là gì”, chứ không phải nó “nên là gì”…

Friedrich Nietzsche chỉ trích Phật giáo làm thôi thúc những thứ mà ông gọi là thuyết hư vô ( nihilism ) [ 37 ]. Ông cho rằng, Phật giáo hoàn toàn có thể được miêu tả như một nỗ lực, trải qua sự kiềm chế từ hành vi, để thoát khỏi đau khổ và đi vào trạng thái không sống sót một cách tuyệt đối, cái mà ông phê phán và cho rằng đó là sự trốn chạy hèn nhát trước thực tại .Nhà bác học Vật lý Albert Einstein đã điều tra và nghiên cứu Phật giáo qua những sách báo của những học giả Phật học của người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur ( 1788 – 1860 ), tiến sỹ người Đức Paul Carus ( 1852 – 1919 ), viện sĩ hàn lâm người Nga Vasily Vasaliyey ( 1818 – 1900 ) … Einstein đã phát biểu về Phật giáo như sau [ 38 ] :

Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó… Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình theo xu hướng khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học… Tôi là một người không tôn giáo. Nhưng nếu có Tôn giáo thì Tôi phải là một Phật tử. Vì những gì Tôi hiểu biết bây giờ thì mấy ngàn năm qua Kinh Phật đã nói hết rồi.

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz’u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz’u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch’u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Conze, Edward:
Buddhism. Its Essence and Development, Oxford 1953.
Buddhist Thought in India, London 1962, (Đức ngữ: Buddhistisches Denken, Frankfurt am Main, 1988)
A Short History of Buddhism, London 1980.
  • Hirakawa, Akira: A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990.
  • The World of Buddhism, ed. by Richard Gombrich & Heinz Bechert. London 1991.

Xem thêm

Chú thích

Thư mục

  • What the Buddha Taught, by Wapola Rahula. Grove Press, Revised Edition, 1994.

Liên kết ngoài

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận