Sao lưu động là những sao được thêm vào. Hình thành bên cạnh những sao án ngữ cố định trên lá số tử vi. Mỗi nhóm sao lưu động có ý nghĩa, vai trò và chức năng riêng. Thế nên, việc xác định vị trí, ảnh hưởng của những sao này có ý nghĩa quan trọng khi luận đoán vận hạn
Ngoài việc xác lập gốc đại hạn khi mở màn khởi hạn, lưu đại hạn và lưu niên hạn. Người xem cũng cần chú ý quan tâm đến những sao lưu động tử vi khi nhận định và đánh giá vận hạn. Tùy vào thời hạn, mức độ hạn mà sao lưu sẽ vận trên những cung số theo từng năm. Có 9 sao lưu tác động ảnh hưởng đến vận hạn. Gồm Thái Tuế, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Hư, Thiên Khốc, Lộc Tồn, Kình Dương, Thiên Mã và Đà La .
Ở mỗi cung cũng có những sao tương ứng như trên. Nhưng những sao này lại thuộc vào nhóm sao cố định hoặc sao tĩnh. Cần áp dụng những phương pháp đặt biệt để tìm ra sao động. Bởi sao động cũng có tính chất như sao tĩnh.
Bạn đang đọc: TÍNH CHẤT CỦA CÁC SAO LƯU ĐỘNG TRONG TỬ VI - PHONG THỦY THANH HÓA">TÍNH CHẤT CỦA CÁC SAO LƯU ĐỘNG TRONG TỬ VI – PHONG THỦY THANH HÓA
– Lưu Thái Tuế : cũng còn gọi là Lưu Niên Thái Tuế Tinh Quân. Tiểu hạn năm nào thì Lưu Thái tuế tại cung có tên của năm đó theo thứ tự của 12 chi. Ví dụ : Tiểu hạn năm Bính Tuất thì lưu Thái tuế tại cung Tuất, lưu Thái tuế tại cung nào thì kích động cung đó cho nên vì thế phải quan tâm đến cung đó. Mọi vấn đề trong năm hay hoặc dở, xem hạn đều có tương quan mật thiết đến cung có Lưu Thái Tuế. Ví dụ Lưu Thái Tuế tại Tuất là cung Quan lộc, vậy trong năm Tuất những sự hay dở xảy ra đều có liên hệ đến cong danh sự nghiệp hay việc làm làm ăn. Lưu Thái Tuế gặp nhiều sao sáng sủa đẹp tươi thì hạn tốt đẹp suôn sẻ, nếu gặp nhiều sao xấu mờ ám thì hạn xấu .
– Lưu Tang Môn Bạch Hổ : Lưu Thái Tuế tại cung nào thì cách cung Thái Tuế 1 cung theo chiều thuận thì an Lưu Tang Môn. Lưu Thái Tuế tại cung Tuất thì Lưu Tang Môn tại cung Tí và Lưu Bạch Hổ tại cung xung chiếu với Lưu Tang Môn tức tại Ngọ. Cung nào có Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ gặp nhiều sát tinh hay bại tinh thì trong hạn sẽ gặp nhiều sự chẳng lành như ốm đau, tang tóc. Nguy hiểm nhất là Lưu Tang môn gặp Tang Môn cố định và thắt chặt hay Lưu Tang Môn gặp Tang Môn đồng cung. Gặp trường hợp này nếu gốc Đại Vận xấu và không gặp sao giải lại mà gặp thêm nhiều sao xấu, Bảng 1 và 2 cũng xấu, tiểu hạn cũng xấu nếu không gặp sao giải thì tất ốm nặng hoàn toàn có thể đi đến chổ mạng vong .
– Lưu Thiên Khốc Thiên Hư : Cũng giống như an Thiên khốc, Thiên hư của lá số. Từ cung Ngọ tính là cung Tí, đếm nghịch đến năm niên vận dừng ở cung nào an Thiên khốc ở đó ; đếm thuận đến niên vận dừng ở cung nào an Thiên hư ở đó. Ví dụ : năm 2006 – năm niên vận là Bính Tuất. Từ cung Ngọ khởi là Tí đếm nghịch đến Tuất dừng ở cung Thân an Thiên khốc, đếm thuận đến Tuất dừng ở cung Thìn an Thiên hư. Lưu Tang Hổ Khốc Hư cho biết những việc phải lo ngại, phiền não, ốm đau, buồn thương xảy ra tại những cung mà có những sao lưu này quy tụ. Cũng như Lưu Tang Môn Bạch Hổ, nguy khốn nhất là lưu Thiên Khốc gặp Thiên Khốc đồng cung, lưu Thiên Hư gặp Thiên Hư đồng cung thì khó tránh được bệnh nan y hay tai ương giật mình nếu không gặp nhiều sao tốt đẹp cứu giải .
Bộ sao Tang Mã Khốc Hư có vai trò rất quan trọng trong việc luận đoán sự sống chết nữa. Đôi khi bản thân lo buồn thì do thân nhân thường có nạn, khi thân nhân lo buồn thì chính bản thân cũng do gặp nạn .
– Lưu Lộc Tồn Kình Dương Đà La : Lưu Lộc Tồn an theo Can của Niên Vận. Năm nay Bính Tuất thì Lộc Tồn an tại Tỵ, Lưu Kình Dương an tại Ngọ và Lưu Đà La an tại Thìn. Nếu Lưu Lộc Tồn gặp nhiều quí tinh, quyền tinh sáng sủa đẹp tươi hội hợp nhất là gặp Lộc Tồn và Thiên Mã cốđịnh thì mọi sự trong hạn đều thịnh vượng hanh thông nhưng nếu gặp nhiều sát tinh và bại tinh như Không Kiếp Song Hao thì gặp nhiều bất mãn, phiền muộn, hao tán tài lộc. Nếu Lưu Kình Dương và Lưu Đà La gặp Kình Dương và Đà La cố định và thắt chặt đồng cung thì khó tránh được những tainạn kinh khủng. Đáng ngại nhất là Lưu Kình Dương hay Lưu Đà La gặp nhiều sát tinh hay bại tinh cũng gặp tai ương trong hạn nếu không gặp cát tinh cứu giải .
– Lưu Thiên Mã : dựa vào Chi của Niên Vận mà an Lưu Thiên Mã. Năm nay Bính Tuất thì an Lưu Thiên Mã tại cung Thân. Lưu Thiên mã chỉ sự vận động và di chuyển, hoạt động giải trí. Lưu Thiên Mã tại cung nào thì trong hạn có sự biến hóa hoặc có sự chuyển dời liên hệ đến cung đó .
Ví dụ : Tiểu vận năm Bính Tuất lưu Thiên Mã tại cung Thân là cung Phu Thê. Vậy trong năm Tuất có sự chuyển dời, thuyên chuyển hay đổi khác nghề nghiệp có tương quan đến vợ hay chồng. Ngoài ra, nếu Thiên mã gặp Triệt, Thiên hình, Đại Tiểu vận xấu thì dễ xảy ra tai nạn đáng tiếc, chia tay có tương quan đến cung có lưu Thiên mã rơi vào. Nếu Đại Tiểu vận tốt, Thiên mã không gặp Tuần Triệt thì có chuyện vận động và di chuyển, du lịch vui tươi. Lưu Thiên Mã : Thiên Mã Lưu Niên là con sao thường đem lại sự đổi khác quan trọng và ứng nghiệm can đảm và mạnh mẽ hơn cả con Thiên Mã cố định và thắt chặt. Bởi vì đã là ngựa thì cần có sự vận động và di chuyển mới thật sự đúng với tác dụng của nó chứ nếu nhốt trong chuồng hay dậm chân một chổ thì không đáng gọi là ngựa .
Vì đời sống mỗi người luôn biến hóa vì vậy nếu lấy Thiên Mã cố định và thắt chặt chỉ antrên 4 góc của lá số để luận đoán thì sẽ bị số lượng giới hạn và không có uyển chuyển được. Tuy Lưu Thiên Mã cũng được an ở 4 góc trên lá số nhưng nó luôn đổi khác vị trí hàng năm nên được dùngđể luận đoán cho tính cách đổi khác tương thích hơn. Bởi vậy khi gặp Tiểu hạn có Thiên Mã cố định và thắt chặt đừng vội cho ngay là có sự biến hóa về nhà cửa, xe cộ hoặc sự vận động và di chuyển về mình hoặc cho thân nhân vì Thiên Mã cố định và thắt chặt không tác động ảnh hưởng gì nhiều đến hạn .
Ví dụ : Cung Thiên di có Thiên Mã cố định và thắt chặt gặp Đà La + Thiên Hình thì ra đường hay bị tai nạn thương tâm xe cộ thì không lý cứ 12 năm chu kỳ luân hồi lại gặp tai nạn thương tâm xe cộ hay sao ? Trong nhiều lá số có trường hợp như trên chỉ khi nào Đại Tiểu Hạn trùng phùng mới thấy ứng nghiệm, còn ngoài những chẳng hề nhìn thấy tai nạn thương tâm nhưng hể khi nào nhìn thấy Lưu Thiên Mã gặp ngay cung đó thì y hệt như là có chuyện gì đó xãy ra dù Đại Vận có lệch sang cung khác. Điều này cũng không có gì lạ vì sự biến hóa của con người giống như chiếc xe dù bất luận là xe gì nếu mà không chạy thì làm thế nào mà xảyra tai nạn thương tâm được. Bởi vậy khi xem vận niên nên quan tâm đến Lưu Thiên Mã nhưng đôi lúc có Lưu Thiên Mã nhập hạn cũng đừng vội cho rằng có sự liên hệ đến đổi khác ngay vì còn tùy thuộc vào Đại Vận cũng như Mệnh Thân nữa .
Ví dụ : Khi thấy Lưu Thiên Mã nằm ở cung Quan Lộc thì nghỉ thế nào cũng có sự đổi khác về nghề nghiệp, sự nghiệp vị thế nhưng nhìn lại Đại Vận này toàn là những yếu tố cố định và thắt chặt vững chắc, thêm vào đó Mệnh Thân của đương số không nằm trong yếu tố hay môi trường tự nhiên bị biến hóa thì phải suy luận sang việc khác. Chẳng hạn như khi Đại Vận có Thiên Phủ + Lộc Tồn hội Khoa Quyền Lộc Long Phượng, Thai Tọa mà không vướng vào Thiên Đồng, Thiên Mã cố định và thắt chặt, Thiên Không, Địa Không thì chẳng có gì biến hóa như thế thì Lưu Thiễn Mã sẽ ứng với chuyện khác. Thường thường ứng vào xe cộ dùng vào nghề nghiệp của mình, nhưng lớn hay nhỏ, đẹp hay xấu còn tùy thuộc vào Khôi Việt, Đào Hồng Hỉ. Thực ra Thiên Mã không những chủ về đổi khác nhưng còn tượng trưng cho cả chân tay hoặc phương tiện đi lại chuyển dời như xe cộ, tàu bè, xe hỏa, máy bay nữa. Có trường hợp được luận đoán cho một người nhập hạn ở cung Thiên Di có Lưu Thiên Mã hội Đà la + Thiên hình nhưng đương số không bị tai nạn đáng tiếc xe cộ cho mình nhưng lại gây tai nạn thương tâm xe cộ cho người khác và phải bồi thường thiệt hại. Bởi vì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đócó những phi tinh khác nên mới hoàn toàn có thể đi đến Tóm lại như vậy. Ngoài ra, Đại Vận của đương số quá tốt đẹp, có sao cứu giải đồng thời cung Mệnh và cung Tật Ách cũng khá vững vàng, nhưng năm đó Lưu Niên Đại Vận nhập Tiểu Vận hội cùng Hóa Lộc tại Mệnh khiến cho đương số phải bồi thường cho người đi đường. Cũng trong trường hợp này, nếu đương số gặp Đại Vận xấu thì mình bị thương tích và tốn tiền chạy chữa thuốc men dù cung Mệnh, cung Tật Ách có tốt đi chăng nữa .
Đặc biệt trong trường hợp Lưu Thiên Mã gặp Tuyệt hay Tuần đồng cung thì con Thiên Mã này lâm vào đường cùng, bị vây hãm như nhốt trong chuồng xung quanh có hàng rào bảo phủ. Điều này ám chỉ khởi đầu mọi việc bế tắc, thất bại nhưng không có nghĩa là bế tắc hoặc thất bại mãi .
Vìcon ngựa chiến có cách này nó rất không dễ chịu, cố vượt qua chướng ngại vật để nhảy ra ngoài. Do đó, có lúc nó sẽ nhảy 1 cái ” Chóc ” vượt hàng rào sang cung ở góc sau đó mà nếu con ngựa nằm đó hợp với bản mệnh thì lần tới làm lại lần nữa sẽ thành công xuất sắc như xin đi xuất ngoại, đi du học, đi xanếu lần đầu thất bại thì lần tới sẽ được. Ngoài ra trong Tử Vi có bài Phú như sau : Kim nhân ngộ Khảm mệnh tu thươngMộc mệnh lạc Ly hữu họa ươngThủy ngộ Cấn cung ưng kiển trệHỏa lai Đoài thương hỏa nan toànThổ khắc Đông Nam phùng Chấn TốnTu phòng nùng huyết cập kinh hoàngTúng nhiên cát diệu tương phùng chiếuVị miễn quan tai náo nhất tràngNghĩa là :
– Người mạng Kim mà hạn đi đến cung Tí là cung Khảm thuộc hành Thủy thì bị thương hại vì bản mệnh Kim sinh suất cho cung Tí là Đại Hải Thủy, như thế ắt mệnh sẽ bi suy tàn .
– Người bản mệnh Mộc hạn đi đến cung Ngọ là quẻ Ly hành Dương Hỏa. Mệnh Mộc sinh cho cung Ngọ là Lô Trung Hỏa, tất được sáng nhưng rồi lại tàn ra tro bụi, nên không tránh khỏi tai ương hoạn nạn nguy khổn đến bản thân .
– Người mệnh Thủy mà hạn đến cung Dần thuộc quẻ Cấn có hành Thổ thì mệnh Thủy bị Thổ khắc khiến ngưng trệ, bế tắc như sông rạch bị chận ngưng.
– Người mệnh Hỏa hạn đến cung Dậu quẻ Đoài thuộc Kim tức mệnh Hỏa khắc cung Kim nghĩa là mệnh không có chỏ nương thân vì mình khắc chổ đứng của mình. Vả lại Hỏa khắc Kim thì rồi Hỏa bị sa lầy vì nếu Kim bị khắc sẽ sinh ra Thủy mà khắc ngược lại Hỏa. Trong ngũ hành kìm hãm chỉ có hành Kim là đặc biệt quan trọng .
– Người mạng Thổ hạn hạn đi đến cung Mão có quẻ Chấn thuộc hành Mộc, Tốn cũng hàng Mộc khắc với mệnh Thổ là chổ đứng khắc với mệnh mình và nặng nhất là cung Chấn vì Chấn tượng cho Lôi Đình, sấm sét nên những vấn đề xãy ra thường giật mình và mãnh liệt cho người mệnh Thổ khi có lưu hạn ở đây .
Tất cả trường hợp trên phải đề phòng bệnh tật tai ương và rất cần gặp Tuần Triệt án ngữ hoặc nhiều sao cứu giải hội chiếu thì mới tai qua nạn khỏi nhưng không tránh được một phen hoảng vía. Khi xem một lá số, Mệnh là Mệnh và Đại Hạn là Đại Hạn, phải phân biệt rõ ràng. Cung nào cũngcó mục tiêu và trách nhiệm riêng của nó, chớ có ” mess up ” lung tung. Khi luận vào Đại Vận nào thì “ kéo ” những gì ở Mệnh lại vận hạn xem coi có ứng hợp không rồi từ đó mà suy luận .
Ví dụ : Mệnh có Thiên Việt thì đến Đại Vận có Thiên Khôi thì Đại Vận đó được hưởng đủ bộ Khôi Việt .. Về sao Lưu hay Phi tinh còn có nhiều trong đó có Lưu Tuần Triệt theo mỗi Niên Vận nhưng tôi không bàn ở đây mà chỉ nhắm vào 9 sao lưu động thôi. Lưu Lộc Tồn Khi Lưu Lộc Tồn nhập vào Tiểu hạn thì đừng vội cho là có tiền ngay .
Nhưng phải cần xem xét Tài Lộc đến ai mà là người được hưởng và tới bằng cách nào. Mình sẽ được hưởng khi Lưu Lộc Tồn nhập vào hạn tương quan đến những cung trực tiếp với mình như Mệnh Thân, Quan Tài Phúc Điền và còn phải ứng hợp với 1 Đại Vận thuận tiện nữa hoặc ít ra Mệnh Thân có yếu tố hoặc môi trường tự nhiên để được hưởng. Trường hợp Lưu Lộc Tồn nhập vào cung Phụ Mẫu hay Huynh Đệ thì ít khi ta hưởng được tài lộc, nếu có thì suôn sẻ lắm được hưởng gián tiếp khi cung nhập hạn có thêm Đào Hồng Hỷ, Thiên Quan, Thiên Phúc Quý Nhân, được như thế thì Cha Mẹ hay Anh Chị Em cho chút ít để xài. Lưu Lộc Tồn gặp Lộc Tồn cố định và thắt chặt không tốt bằng cách xung chiếu như vậy tài lộc sẽ dồi dào hơn vì do tiền cứ luân chuyển làm tiền sinh ra tiền, chứ hai lộc gặp nhau ở một cung thì giống như tiền bỏ vào quỷ tiết kiệm ngân sách và chi phí cùng lắm chỉ ăn được tiền lời thôi .
Ngoài ra Lộc Tồn cần gặp Lưu Thiên Mã chứ không cần gặp Thiên Mã cố định và thắt chặt vì Lộc Tồn tượng trưng cho tiền tài sản phẩm & hàng hóa nếu đem chất lên một chiếc xe không chạy đi đâu thì thật là vô ích. Có trường hợp Lưu Lộc Tồn đóng cung Tài Bạch gặp Lộc Tồn cố định và thắt chặt ở cung Phúc Đức xung chiếu là những cung tương quan trực tiếp đến mình mà năm đó vẫn chẳng có chút lộc nào để hưởng là vì Mệnh có Địa Kiếp hội với Phá Quân, tưởng năm đó số mình được hưởng nhưng lại không phải vì cả năm đi lãnh tiền về để phân phát cho thiên hạ mà mình trái lại chẳng hưởng được đồng nào .
Ngoài ra còn có trường hợp Đại Vận có Song Hao hội Thiên Không, Phá Toái, tương phùng với Tiểu Vận có Lộc Tồn cố định và thắt chặt và Lưu Lộc Tồn là những yếu tố để hưởng lộc và nó được đóng vào những cung tương quan đến mình nhưng lại bị vô hiệu trọn vẹn. Hai sao Lộc này chuyển hướng ứng vào việc làm làm ăn như cứu xét, đồng ý chấp thuận những hồ sơ của những nạn nhân để đòi bồi thường hoặc những thân chủ cần giúp sức vay tiền. Bởi đó, dù đương số thao tác khó khăn vất vả cả năm nhưng chẳng có chút tiền nào trong tay là vậy .
Lưu Kình Dương Khi thấy sao Kình Dương hầu hết mọi người đều sợ dù nó đóng cố định và thắt chặt hay nhập hạn vì thực chất của nó dể đưa đến chuyện rủi ro xấu chẳng lành. Nhưng theo kinh nghiệm tay nghề chothấy dù nhập hạn gặp Kình Dương cố định và thắt chặt chưa có gì đáng ngại cho lắm trừ khi có thêm nhiều yếu tố ác sát tinh khác tăng cường .
trái lại, khi Tiểu hạn có Lưu Kình Dương đóng ở 4 cung Tí Ngọ Mão Dậu dù không có thêm yếu tố xấu khác vẫn thường có chuyện không hay xãy ra, nặng hay nhẹ còn tùy thuộc vào sự chế hóa của cung nhập hạn hay từ cung tam hợp mà ảnh hưởng tác động đến chính mình hay cho thân nhân. Ta hoàn toàn có thể ví sao Kình Dương cố định và thắt chặt như một tên trộm vác cuốc đi đào mệt quá đang ngủ, còn Lưu Kình Dương như một tên trộm khác đang thức vác cuốc đi đào đất ăn cướp vàng. Như vậy, tên trộm đang ngủ không nguy khốn bằng tên trộm đang thức để đào đất .
Tuy nhiên, khi Lưu Kình Dương gặp Kình Dương cố định và thắt chặt như tên trộm đang thức làm cho tên trộm đang ngủ tỉnh dậy cùng họp sức khiến cho sức phá hoại càng can đảm và mạnh mẽ ác liệt thêm. Còn trường hợp Kình Dương cố định và thắt chặt gặp Kình Dương xung chiếu thì đừng tưởng rằng sự nguy hại giảm bớt đi nhưng trái lại còn đáng quan ngại hơn vì cả hai đang ở thế gọng kìm hoặc 2 mặt giáp công khó có đường mà tẩu thoát. Còn nếu Lưu Kình Dương ở cung xung chiếu không gặp Kình Dương cố định và thắt chặt thì vẫn cẩn trọng như thường vì ảnh hưởng tác động của nó vẫn can đảm và mạnh mẽ dù ngay cả khi nó nhập hạn ở vào 1 trong cung tam hợp thì cũng vẫn có ảnh hưởng tác động chút đỉnh .
Nếu chẳng may Tiểu hạn rơi vào cung Thìn Tuất tức La Võng Chi Địa hội thêm Cô Quả Hình Linh thì thực là đại họa. Khi Lưu Kình Dương nhập hạn coi thử có ảnh hưởng tác động đến mình hay cho thân nhân thì nhận định và đánh giá như sau : Ví dụ Tiểu hạn đi đến cung Tật Ách có Lưu Kình Dương ngay tại cung này. Nếu Đại Hạn không nhìn thấy tương quan đến cung Tật Ách và Mệnh thì đương số gần như bảo đảm an toàn nhưng cha mẹ, anh chị em bị ảnh hưởng tác động vì cung Phụ Mẫu ở thế xung chiếu và cung Huynh Đệ ở thế tam hợp .
Nếu thấy cung Phụ Mẫu có nhiều yếu tố khác xấu hơn cung Huynh Đệ như bị Lưu Tang Môn, Lưu Khốc Hư thì cha mẹ gánh chịu. Cũng trong trường hợp này nếu Mệnh đương số xấu, Đại Hạn cũng xấu mà Lưu Kình Dương nhập hạn vào những cung tương quan đến mệnh thì đương số lãnh đủ hết tác động ảnh hưởng của Kình Niên và ít khi cha mẹ hoặc anh chị em bị chịu lây. Trong trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Điền Trạch nếu có Lưu Kình Dương nhập hạn mà Đại Tiểu hạn không trùng phùng thì dù mệnh đương số không tốt cũng không đáng quan ngại vì cung Điền trạch không gây trực tiếp đến cho bản Mệnh mà trái lại gây ảnh hưởng tác động đến cung Tử Tức và cung Huynh Đệ. Lúc đó chỉ cần coi cung Tử Tức và Huynh Đệ cung nào chịu ảnh hưởng tác động khắc xấu trong năm mà xét đoán. Nếu cung Tử Tức có Kình Dương cố định và thắt chặt trong khi cung Huynh Đệ có Quan Phúc, Hóa Khoa, Khôi Việt thì chắc như đinh con cháu bị tác động ảnh hưởng nguy khốn còn anh chị em thì không việc gì .
Lưu Niên Đại Vận Trước khi xem hạn thì phải biết xác lập gốc Đại vận 10 năm. Trên lá số Tử vi tùy theo Âm Dương Nam Nữ và tùy theo Thủy nhị cục, Mộc tam cục, Kim tứ cục, Thổ ngũ cục, Hỏa lục cục, ở mỗi ô trên 12 cung Thiên bàn mỗi số lượng đó là số tuổi khởi đầu trong Đại Vận 10 năm, số lượng 22 là số lượng chỉ Đại Vận từ 22 đến 31 tuổi, số lượng 42 chỉ đại vận từ 42 đến 51 tuổi. Khi xem, phải xem gốc Đại vận chủ về cái gì rồi Tiểu vận một năm ăn từ gốc ấy mà ra .
Thí dụ vào Đại Vận phát tài thì các Tiểu hạn hướng về phát tài, Đại vận chủ về công danh thì các Tiểu hạn hướng về công danh. Xem gốc Đại vận phải cộng cung chính và 3 cung xung hợp chiếu.Nhìn vào lá số thấy các Tiểu vận dàn ra trên 12 cung và cứ 12 năm lại gặp lại một lần không lý các diễn biến lại diễn ra đúng như trước?? Dỉ nhiên là không phải như vậy. Vận số một năm như thế nào là do cung của Tiểu vận cho biết nhưng còn tùy thuộc vào Mệnh và Phúc đức cùng những cung chính và cũng tùy theo Đại vận nữa. Một trong những cách giải đoán vận hạn một năm là nhập các sao Tiểu Vận và Đại Vận vào mà giải đoán.Khi xem hạn cần phải xem Lưu Niên Đại Vận nữa. Lưu Đại Vận là một cung cho biết cái hướng của vận hạn trong năm đó và tính từ gốc Đại vận giống như người tài xế lai xe hay dở thế nào. Vậy phải nhập cung Lưu Niên Đại Vận vào mà giải đoán.
Xem Lưu Đại Vận cũng phải đủ cung chính và 3 cung xung hợp chiếu. Cách tính Lưu Niên Đại Vận như sau : Người Dương Nam, Âm Nữ chiều chính là chiều thuận, khởi đầu cung Đại Vận là năm đầu của Đại Vận sang cung chính chiếu là cung sau đó, lùi lại 1 cung theo chiều nghịch là năm nữa rồi trở lại chiều thuận cứ mỗi cung một năm, những cung vào năm sau đó nhau cho đến hết những năm của Đại Vận .
Tương tự như vậy cho người Dương Nữ, Âm Nam đi theo chiều nghịch. Ví dụ cho người Dương Nam, Âm Nữ Thủy nhị cục. Đại Vận 22 tuổi ở Ngọ thì Lưu Đại Vận 22 tuổi ở Ngọ, 23 tuổi ở Tí, 24 tuổi ở Hơi, 25 ở Tí, 26 ở Sửu, 27 ở Dần, 28 ở Mão, 29 ở Thìn, 30 ở Tỵ, 31 ở Ngọ. Ví dụ cho người Dương Nữ, Âm Nam Mộc Tam Cục. Đại vận 13 tuổi tại Tí thì Lưu Đại vận 13 tuổi tại Tí, 14 tuổi tại Ngọ, 15 tuổi Mùi, 16 tuổi tại Ngọ, 17 tuổi tại Tỵ, 18 tuổi Thìn, 19 tại Mão, 20 tại Dần, 21 tại Sửu, 22 tại Tí .
Source: https://sangtaotrongtamtay.vn
Category: Công nghệ