Ngân hàng Phát triển châu Á – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem ADB Trụ sở Ngân hàng Phát triển châu Á ở Manila

Ngân hàng Phát triển châu Á (tiếng Anh: The Asian Development Bank; viết tắt: ADB) là một thể chế tài chính đa phương cung cấp các khoảng tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội. ADB được thành lập vào năm 1966, có trụ sở chính tại Manila, và chủ tịch là một người Nhật Bản.

Lịch sử phát triển[sửa|sửa mã nguồn]

Thập niên 1960

1963 : Liên Hiệp Quốc quyết định hành động thiết lập thể chế kinh tế tài chính để tăng cường sự phát triển kinh tế tài chính và hợp tác1965 : Tổng thống Philippines là Diosdado Macapagal mở bước khám phá cho vùng Khu vực Đông Nam Á bằng cách hoạt động việc đặt trụ sở chính ở Manila1966 : ADB được xây dựng ở Manila vào ngày 12/12 với 31 thành viên để Giao hàng trọng điểm khu vực nông thôn. Nước Ta Cộng hòa góp USD 6,6 triệu trong số vốn một tỷ nguyên thủy. [ 1 ]1967 : ADB phê duyệt dự án Bất Động Sản tương hỗ kỹ thuật tiên phong để giúp sức sản xuất lương thực ngũ cốc

Thập niên 1970

1970 : Với mục tiêu lan rộng ra hoạt động giải trí, ADB thôi thúc nguồn tài nguyên thêm nữa từ những tổ chức triển khai song phương và đa phương khác1972 : ADB chuyển đến trụ sở chính mới ở ngay bờ Vịnh Manila1974 : Quỹ phát triển châu Á được thiết lập để phân phối những khoản vay khuyễn mãi thêm cho những thành viên nghèo nhất của ADB1978 : ADB tập trung chuyên sâu cải tổ đường sá và cung ứng điện

Thập niên 1980

1980 : Tiến đến hành vi chú tâm đến những yếu tố xã hội như giới tính, thiên nhiên và môi trường, giáo dục và sức khoẻ1981 : Ý thức được cuộc khủng hoảng cục bộ dầu mỏ lần 2, ADB liên tục tương hỗ phát triển hạ tầng, đặc biệt quan trọng là những dự án Bất Động Sản nguồn năng lượng1985 : Chính sách mới chú tâm đến nhu yếu tương quan đến phụ nữ tích cực hơn trong tiến trình hội nhập1986 : Thúc đẩy tương hỗ bộ phận tư nhân, với khoản vay tiên phong không có bảo vệ của cơ quan chính phủ với Pakistan

Thập niên 1990

1991 : ADB chuyển đến trụ sở chính mới ở Ortigas Center ; khu này ngay sau đó phát triển nhanh gọn thành khu thương mại và kinh tế tài chính của Manila

1992: ADB bắt đầu xúc tiến sự hợp tác khu vực, tiến gần hơn đến sợi dây liên kết giữa các Quốc gia trong tiểu vùng Sông Mekong

1997 : Một số nước thuộc Liên Xô Cũ ở Trung Á gia nhập ADB, trong khi đó, một cuộc khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính đã làm rung chuyển châu Á1999 : ADB đồng ý giảm đói nghèo là tiềm năng số 1 và phê duyệt một số ít chủ trương nâng tầm

Thập niên 2000

2001 : ADB thôi thúc cơ cấu tổ chức xã hội kế hoạch dài hạn đển hướng dẫn hoạt động giải trí xuyên suốt đến năm ngoái2002 : ADB giúp sức những nước hậu chiến như Afghanistan, Timor Leste2004 : ADB chỉ định bà Khempheng Pholseno của Lào làm phó quản trị nữ tiên phong
Chức năng của ADB là tương hỗ sự tăng trưởng kinh tế tài chính bền vững và kiên cố và công minh, phát triển xã hội, quản trị kinh tế tài chính tốt .

Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng: tăng trưởng kinh tế không tự nhiên có tính bền vững và thường làm gia tăng mất công bằng. Để tăng trưởng bền vững và công bằng, cần có sự can thiệp trong khi vẫn đảm bảo một sự phát triển thân thiện với thị trường.

Phát triển xã hội: giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng để giảm thiểu những rủi ro trong quá trình phát triển kinh tế.

Quản lý kinh tế tốt: thực hiện các chính sách kinh tế một cách có trách nhiệm, có sự tham gia, có khả năng dự đoán, và minh bạch, chống tham nhũng.

Các tiềm năng hoạt động giải trí[sửa|sửa mã nguồn]

Để triển khai được tính năng nói trên, ADB đề ra những tiềm năng cho hoạt động giải trí của mình, gồm có : bảo vệ môi trường tự nhiên, tương hỗ giới và phát triển, phát triển khu vực tư nhân, tương hỗ hợp tác khu vực .

Bảo vệ môi trường: người nghèo ở thường bị buộc phải sống ở những khu vực có điều kiện môi trường bất lợi. Muốn xóa nghèo thì phải bảo vệ môi trường.

Hỗ trợ giới: ở nhiều nước, phần lớn người nghèo là phụ nữ. Hỗ trợ phụ nữ phát triển là một biện pháp xóa nghèo.

Hỗ trợ khu vực tư nhân: khuyến khích cải cách và hoàn thiện môi trường chính sách để tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân, hỗ trợ sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, cho vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các xí nghiệp tư nhân và thể chế tài chính tư nhân

Khuyến khích hợp tác và liên kết khu vực: khuyến khích sự hợp tác giữa các chính phủ để phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy thương mại và đầu tư,…

Cơ cấu tổ chức triển khai[sửa|sửa mã nguồn]

  • Về cơ cấu tổ chức, cơ quan ra quyết định cao nhất của ADB là Ban Thống đốc do mỗi quốc gia thành viên đóng góp một đại diện. Đến lượt nó ban Thống đốc lại tự bầu ra trong số họ 12 thành viên của Ban Giám đốc và các cấp phó của họ. 8 trong số 12 thành viên này là đại diện của các quốc gia trong khu vực(các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương) và số còn lại là từ các quốc gia ngoài khu vực.
  • Ban Thống đốc còn bầu ra chủ tịch Ngân hàng, là người đứng đầu Ban Giám đốc và điều hành ADB. Mỗi chủ tịch giữ cương vị của mình trong một nhiệm kì kéo dài 5 năm và có thể được tái đắc cử. Theo truyền thống và vì Nhật Bản là một trong những cổ đông lớn nhất của ADB, cho nên chủ tịch của ADB đã luôn là người Nhật. Chủ tịch đương nhiệm của ADB là Masatsugu Asakawa (từ 2020 đến nay)
  • Trụ sở của ngân hàng ADB đặt tại 6 ADB Avenue, thành phố Mandaluyong, Metro Manila, Philippine, và có văn phòng đại diện trên khắp thế giới. Hiện ADB có khoảng 2400 nhân viên, đến từ 53 trên tổng số 67 quốc gia thành viên (theo web ADB.org tính đến 2/2007), và gần một nửa số nhân viên của họ là người Philippine.

quản trị những đời của ADB[sửa|sửa mã nguồn]

Các vương quốc thành viên[sửa|sửa mã nguồn]

Dưới đây là list những vương quốc thành viên của ADB. Con số sau mỗi tên nước là năm tham gia .

  1. ^

    “VN’s US$ 6.6 Million Contribution to Asian Development Bank Confirmed”. Viet Nam bán nguyệt san No 70, ngày 2 tháng 1 năm 1966. Phòng Thông-tin Văn-hóa Sứ-quán Việt Nam tại Hoa-kỳ. tr 8-9

  2. ^ Gia nhập với tên ” Hong Kong ”
  3. ^ Gia nhập bằng tên ” Trung Quốc ” với danh nghĩa thành viên sáng lập, đại diện thay mặt cho hàng loạt Trung Quốc + Đài Loan cho đến năm 1986 khi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc sinh ra .
  4. ^ Thành viên sáng lập ; gia nhập với tên Tây Đức

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận