Giải thích về hiện tượng này?

Theo báo cáo giải trình Triển vọng Dân số Thế giới 2019 của Liên Hiệp Quốc ( UN ), dân số quốc tế hiện là khoảng chừng 7,7 tỷ người. Chưa khi nào trong lịch sử dân tộc có nhiều người trên Trái Đất như lúc này, và con sỗ đấy vẫn liên tục tăng lên theo thời hạn .


Dân số thế giới tăng vọt từ 1,8 tỉ vào năm 1800, đến 2,3 tỉ vào năm 1940, 3,7 tỉ năm 1970, và 7,4 tỉ năm 2016. dân số thế giới tăng gấp 4 lần trong vòng 1 thế kỉ trước, vậy điều gì có thể xảy ra ở thế kỉ tiếp theo? Và gia tăng dân số có ảnh hường gì đến tương lai chúng ta? Liệu những cuộc đại di cư sẽ xảy ra? Hay những ổ chuột chật chội và các siêu đô thị sẽ bao phủ khắp các châu lục? Hỗn loạn, mất an ninh năng lượng nguồn nước, lương thực? Và con người chỉ quan tâm việc duy trì sự sống của họ? Gia tăng dân số liệu có hủy hoại cuộc sống của chúng ta? Phải chăng những tiên đoán này chỉ là vô căn cứ?

Vào những năm 1960, dân số ngày càng tăng với một tỉ lệ chưa từng thấy, điều này dẫn đến Dự kiến về những thảm họa. Số lượng người nghèo không ngừng tăng cao và tràn ngập khắp quốc tế. Và sự bùng nổ dân số đã Open. Nhưng hóa ra, tỉ lệ sinh và bùng nổ dân số không phải là đặc thù lâu bền hơn của những vương quốc và những nên văn hóa truyền thống, mà chỉ là một phần của quy trình 4 quá trình cả quốc tế trải qua. “ Sự quy đổi dân số ”. Hầu hết những nước tăng trưởng đã hoàn tất sự chuyển biến này, trong khi một số ít nước khác đang trong quy trình thực thi .


Quay trở về thế kỉ 18, khi cả thế giới, bao gồm Châu Âu, đang ở trong bước đầu của quá trình chuyển biến. So với bây giờ, Châu Âu lúc trước vô vùng thảm hại so với bất cứ quốc gia đang phát triển nào, ảnh hưởng bởi môi trường sống thiếu vệ sinh, chế độ ăn uống nghèo nàn, y học chậm phát triển. Nhiều trẻ em được sinh ra, nhưng số trẻ em chết đi cũng rất nhiều, dẫn đến dân số khó gia tăng. Trung bình mỗi người mẹ sinh 4 – 6 em bé, nhưng chỉ có khoảng 2 trong số đó sống qua tuổi trưởng thành.

Bạn đang đọc: Giải thích về hiện tượng này?">Giải thích về hiện tượng này?


Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh Quốc đem đến sự thay đổi lớn trong điều kiện sống của loài người kể từ cuộc cải cách nông nghiệp. Ngoài nông dân, tầng lớp công nhân bắt đầu xuất hiện. Hàng hóa công nghiệp được sản xuất hàng loạt và trở nên phổ biến rộng rãi. Khoa học đạt được tiến bộ mạnh mẽ, phát triển trong cơ sở hạ tầng giao thông, liên lạc và y tế. Vai trò của phụ nữ trong xã hội thay đổi và trở nên ngày càng to lớn. Dần dần, sự tiến bộ trong kinh tế này không chỉ hình thành nên tầng lớp trung lưu mà còn nâng cao tiêu chuẩn sống và sự chăm sóc sức khỏe cho tầng lớp lao động nghèo.

Giai đoạn chuyển biến thứ 2 bắt đầu. Nguồn cung cấp thức ăn tốt hơn, vệ sinh môi trường và y tế cải thiện, số người chết giảm đi, đặc biệt là trẻ em. Kết quả của sự bùng nổ dân số: Dân số nước Anh tăng gấp đôi từ năm 1750 đến năm 1850. Lý do chính dẫn đến việc các gia đình có nhiều con là do rất ít trong số chúng có khả năng sống qua tuổi trưởng thành.

Vì điều đó đã thay đổi, nên dần chuyển sang giai đoạn 3. Ít trẻ em sinh ra hơn và tốc độ tăng trưởng dân số trở nên chậm hơn. Cuối cùng, sự cân bằng xuất hiện, số người chết đi ít hơn, số trẻ em sinh ra giảm đi, nên tỉ lệ sinh và tử ổn định. Nước Anh đã đạt đến bước thứ 4 của sự biến đổi dân số. Điều này không chỉ xảy ra ở Anh, ngày càng nhiều quốc gia trải qua sự thay đổi 4 bước:
– Ban đầu, do điều kiện sống tồi tệ mà nhiều trẻ em được sinh ra và chết đi.
– Sau đó, điều kiện sống trở nên tốt hơn dẫn đến số người chết ít hơn và gây ra sự bùng nổ dân số.
– Tiếp đến, số người chết giảm dần đến số trẻ em sinh giảm, và sự bùng nổ dân số kết thúc.

Nhưng nếu tỉ lệ sinh đẻ đã giảm đáng kể như vậy, thì tại sao dân số vẫn tăng nhanh? Vì những người được sinh ra trong cuộc bùng nổ dân số trong thập niên 70 và 80 đều đang có con. Dẫn tới sự gia tăng đáng kể trong dân số. Nhưng bình quân, họ có ít con hơn so với cha mẹ của họ. Bình quân hiện tại là 2 trong khi 40 năm trước là 5. Vì vậy khi thế hệ này già đi, tỉ lệ sinh đẻ giảm xuống mạnh hơn nữa nên tốc độ tăng trưởng số sẽ tiếp tục giảm. Điều này là hiển nhiên đối với mọi quốc gia.


Hầu như các quốc gia đều đã đjt tới giai đoạn thứ 4, hãy lấy Bangladesh làm ví dụ. Năm 1971, trung bình mỗi phụ nữ sinh 7 đứa trẻ, nhưng 25% trong số chúng chết trước khi lên 5 tuổi. Năm 2015, tỉ lệ tử vong giảm tới 3,8% và phụ nữ trung bình chỉ còn 2,2 người con. Đây là quy luật cho mỗi nước, không quốc gia nào ngoại lệ, có chỉ có khởi đầu sớm hơn hay muộn hơn thôi.

Những vương quốc tăng trưởng phải mất 80 năm để giảm tỉ lệ sinh trưởng từ hơn 6 tới dưới 3 trẻ. Các vương quốc khác đang đuổi kịp vận tốc này. Malaysia và Nam Phi mất 34 năm để làm điều đó, Bangladesh chỉ cần 20 năm, Iran triển khai 10 năm. Những vương quốc này không phải khởi đầu từ đầu, càng có nhiều sự tương hỗ họ càng bắt kịp nhanh gọn. Đó là lí do vì sao chương trình tương hỗ giảm tỷ suất tử trận cho trẻ nhỏ những nước đang tăng trưởng lại quan trọng như vậy .
Gia tăng dân số quốc tế không còn là lời Dự kiến nữa, đó là lời hứa ! Gia tăng dân số sẽ đi đến hồi kết, Liên Hiệp Quốc dự báo dân số quốc tế sẽ không đạt đến móc 12 tỉ. Và trong khi trình độ tăng trưởng của quốc tế tăng, số lượng người có tri thức cao sẽ tăng gấp 10 lần. Các nước trước kia cần sự giúp sức giờ đây sẽ tham gia tăng trưởng. Càng nhiều người tham ra nghĩa là càng có nhiều người làm trái đất tăng trưởng .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận