Thực trạng chất thải rắn y tế của các bệnh viện và thách thức trong phòng dịch Covid-19

2021 – 08-04 T04 : 48 : 47-04 : 00

Bạn đang đọc: Thực trạng chất thải rắn y tế của các bệnh viện và thách thức trong phòng dịch Covid-19">Thực trạng chất thải rắn y tế của các bệnh viện và thách thức trong phòng dịch Covid-19

https://sangtaotrongtamtay.vn/vi/tin-tuc-trung-tam/van-de-moi-truong/thuc-trang-chat-thai-ran-y-te-cua-cac-benh-vien-va-thach-thuc-trong-phong-dich-covid-19-258.html/ themes / default / images / no_image. gif

https://sangtaotrongtamtay.vn/uploads/50_3.png

Nghiên cứu nhằm mục đích miêu tả tình hình phát thải chất thải rắn y tế ( CTRYT ) từ những bệnh viện hạng 1 làm dẫn chứng khoa học giúp cho quản trị phù hợp chất thải y tế từ hoạt động giải trí khám chữa bệnh .Nghiên cứu nhằm mục đích diễn đạt tình hình phát thải chất thải rắn y tế ( CTRYT ) từ những bệnh viện hạng 1 làm dẫn chứng khoa học giúp cho quản trị phù hợp chất thải y tế từ hoạt động giải trí khám chữa bệnh .

TÓM TẮT

Nghiên cứu vận dụng chiêu thức phong cách thiết kế nghiên cứu cắt ngang, đối tượng người tiêu dùng là 34 Bệnh viện hạng 1 tuyến Trung ương và 58 Bệnh viện hạng 1 tuyến tỉnh. Thu thập dữ liệu thứ cấp qua hiệu quả quan trắc môi trường tự nhiên của 4 viện chuyên ngành Bộ Y tế tích hợp tìm hiểu hiện trường, phỏng vấn sâu. Kết quả cho thấy, phát thải trung bình 1,7 kg / giường bệnh / ngày, trong đó CTR nguy cơ tiềm ẩn 0,24 kg / giường bệnh / ngày. Bệnh viện tuyến Trung ương phát thải nhiều hơn so với tuyến tỉnh, chưa thấy độc lạ phát thải giữa Bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, phát thải tăng đột biến ở Bệnh viện thu dung điều trị bệnh nhân Covid-19. Kết luận là phát thải CTRYT trung bình 1,74 kg / giường bệnh / ngày, trong đó 85,56 % là chất thải thường thì, 13,63 % chất thải lây nhiễm, 0,81 % chất thải nguy cơ tiềm ẩn khác, rủi ro tiềm ẩn tăng phát thải đột biến nếu Bệnh viện thu dung điều trị bệnh nhân Covid-19 .

1. Đặt vấn đề

    Theo Tổ chức Y tế Thế giới, quản lý tốt chất thải y tế (CTYT) góp phần giảm thiểu nguy cơ gây hại cho sức khỏe con người và môi trường, là giảm chi phí trong quản lý, xử lý CTYT [2].

Hiện nay, tại những bệnh viện đã thực thi việc giám sát phát sinh CTYT trải qua những đơn vị chức năng quan trắc thiên nhiên và môi trường ( QTMT ) có đủ công dụng theo định kỳ hàng năm. Để dữ thế chủ động BVMT tại những bệnh viện tốt hơn, cần phải có những số liệu quan trắc CTYT tiếp tục và được update liên tục, bệnh viện phải dữ thế chủ động trong hoạt động giải trí BVMT .
Trong dịch bệnh Covid-19, yếu tố phát thải CTYT nói chung và CTYT nguy cơ tiềm ẩn nói riêng đang là thử thách từ khâu thu gom phân loại tới tiêu hủy bảo đảm an toàn. Do dịch bệnh, lượng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên đáng kể, qua công bố của những bệnh viện tại thành phố Vũ Hán trong đợt bùng phát dịch tiên phong, qua cảnh báo nhắc nhở của những bệnh viện tại Ấn Độ trong vụ bùng phát dịch Covid-19 năm 2021 cho thấy, gánh nặng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên nhiều lần, do vậy yên cầu sự phân phối để quản trị CTYT nguy cơ tiềm ẩn rất bức xúc [ 7 ]. Đặc biệt, do phải cách ly nhiều người nhiễm, nghi nhiễm vi rus tại những khu tập trung chuyên sâu mà còn tại những hộ mái ấm gia đình, nên việc quản trị CTYT tương quan tới dịch Covid-19 phức tạp, cần có cách tiếp cận hài hòa và hợp lý và thực tiễn .

2. Phương pháp

2.1. Đối tượng, thời gian nghiên cứu

    Đối tượng: Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa hạng 1 tuyến Trung ương và tuyến tỉnh tại một số địa phương đại diện.

Thời gian : 2020 – 2021

2.2. Thiết kế và phương pháp nghiên cứu

    Nghiên cứu cắt ngang, với phương pháp mô tả và phân tích cơ sở dữ liệu thứ cấp, phương pháp phỏng vấn sâu một số Trưởng khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện.

Cỡ mẫu và chiêu thức chọn mẫu nghiên cứu ; Mẫu nghiên cứu gồm 92 bệnh viện hạng 1 gồm : 34 BV hạng 1 tuyến Trung ương và 58 BV hạng 1 tuyến tỉnh .
Các chỉ số chính :
Khối lượng chất thải rắn ( CTR ) y tế phát sinh tại những bệnh viện ( kg / giường bệnh / ngày ) .
Tỷ lệ những loại CTR y tế phát sinh trung bình ( kg / ngày ) .
Khối lượng CTR y tế phát sinh theo tuyến bệnh viện ( kg / giường bệnh ngày ) .
Khối lượng CTR y tế phát sinh theo mô hình bệnh viện ( kg / giường bệnh ngày ) .
Phương pháp tích lũy số liệu : Truy cập cơ sở tài liệu về công tác làm việc quản trị môi trường tự nhiên của Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường tự nhiên, Viện Pasteur Nha Trang, Viện VSDT Tây Nguyên và Viện YTCC HCM. Các tài liệu này được gửi về Cục Quản lý môi trường tự nhiên Y tế – Bộ Y tế ; nội dung số liệu nghiên cứu được trích xuất vào “ Phiếu tổng hợp thông tin quản trị thiên nhiên và môi trường bệnh viện ” và mã hóa những thông tin theo từng bệnh viện dưới sự giám sát của cán bộ quản trị cơ sở tài liệu của Cục Quản lý thiên nhiên và môi trường Y tế – Bộ Y tế .
Phương pháp xử lý số liệu : Số liệu được nhập vào ứng dụng Microsoft Excel 2007 và nghiên cứu và phân tích ứng dụng SPSS 20.0 .

3. Kết quả nghiên cứu

3.1. Thực trạng phát thải CTR y tế

Bảng 1. Khối lượng CTR y tế phát sinh tại các Bệnh viện (n = 92)

Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày

Loại chất thải

X ± SD

Trung vị (Q1 -Q3)

Min – Max

CTYT thường thì 1,53 ± 0,83 1,35 ( 0,95 – 1,93 ) 0,43 – 4,64
CTYT lây nhiễm 0,22 ± 0,15 0,21 ( 0,15 – 0,28 ) 0,01 – 1,12
CTNH không lây nhiễm 0,02 ± 0,04 0,004 ( 0,001 – 0,013 ) 0,0 – 0,38
Tổng 1,77 ± 0,90 1,586 ( 1,157 – 2,135 ) 0,53 – 5,17

Bảng 2. Tổng khối lượng CTR y tế phát sinh trung bình ngày (n = 92)

Đơn vị : kg / ngày

Loại CTRYT

Tuyến TW
(n = 34)

Tuyến tỉnh
(
n = 58)

Chung

CTYT thường thì 49591 50860 100451
CTYT lây nhiễm 8323,3 7673,81 15997,11
CTNH không lây nhiễm 537,11 418,46 955,57
Tổng 58451,41 58952,27 117403,68

Tổng lượng CTYT phát sinh tại mỗi Bệnh viện trung bình là 1,77 ± 0,90 kg / giường bệnh / ngày, trong đó lượng CTYT thường thì chiếm tỷ trọng cao nhất ( 1,53 ± 0,83 kg / giường bệnh / ngày ), tiếp đến là CTNH lây nhiễm ( 0,22 ± 0,15 kg / giường bệnh / ngày ), thấp nhất là CTNH không lây nhiễm ( 0,02 ± 0,04 kg / giường / ngày ) .
Tổng lượng CTYT phát thải trung bình là 117403,68 kg / ngày, trong đó gồm có 100451 kg CTYT thường thì, 955,57 kg CTYT nguy cơ tiềm ẩn không lây nhiễm và 15997,11 kg CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm .
Trong số những loại CTYT phát sinh tại những Bệnh viện, CTYT thường thì chiếm tỷ suất cao nhất ( 85,56 % ). Tiếp theo, CTNH không lây nhiễm của những Bệnh viện chiếm 13,63 %, CTNH lây nhiễm chiếm 0,81 % ( Bảng 3 ) .

Bảng 3. Khối lượng CTYT phát sinh theo tuyến Bệnh viện

Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày

Loại CTYT

Trung vị (Q1 – Q3)

X ± SD

P (Kiểm định
Mann-Whitney U)

Tuyến trung ương
(n = 34)

Tuyến tỉnh
(n = 58)

Thông thường 1,55 ( 0,99 – 2,33 )
1,74 ± 0,91
1,28 ( 0,87 – 1,67 )
1,41 ± 0,76
0,083
Nguy hại lây nhiễm 0,21 ( 0,09 – 0,29 )
0,24 ± 0,22
0,20 ( 0,16 – 0,26 )
0,21 ± 0,09
0,984
Nguy hại không lây nhiễm 0,002 ( 0,001 – 0,004 )
0,02 ± 0,06
0,007 ( 0,002 – 0,021 )
0,01 ± 0,017
0,001
Tổng 1,71 ( 1,36 – 2,49 )
2,00 ± 1,03
1,53 ( 1,12 – 1,96 )
1,63 ± 0,79
0,074

Lượng CTYT trung bình ở Bệnh viện tuyến Trung ương là 2,00 ± 1,03 kg / giường bệnh / ngày, cao hơn trung bình ở Bệnh viện tuyến tỉnh ( 1,63 ± 0,79 ). Tuy nhiên, sự độc lạ này không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) ( Bảng 4 ) .
Trung bình lượng CTYT phát sinh từ những Bệnh viện chuyên khoa là 1,79 ± 1,01 kg / giường bệnh / ngày cao hơn không có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) so với những Bệnh viện đa khoa ( 1,76 ± 0,86 kg / giường bệnh / ngày ) .
Về lượng CTNH lây nhiễm phát sinh trung bình của Bệnh viện đa khoa là 0,25 ± 0,16 kg / giường bệnh / ngày, cao hơn có ý nghĩa thống kê ( p < 0,05 ) so với nhóm Bệnh viện chuyên khoa ( 0,16 ± 0,11 kg / giường bệnh / ngày ) .

Bảng 4. Khối lượng CTYT phát sinh theo loại Bệnh viện chuyên khoa và Bệnh viện đa khoa

Đơn vị : kg / giường bệnh / ngày

Loại CTYT

Trung vị (Q1 – Q3)

± SD

(Kiểm định
Mann-Whitney U)

Tuyến trung ương (n = 34)

Tuyến tỉnh (n = 58)

Thông thường 1,39 ( 0,73 – 2,15 )
1,61 ± 1,00
1,33 ( 1,02 – 1,71 )
1,50 ± 0,76
> 0,05
Nguy hại lây nhiễm 0,17 ( 0,08 – 0,27 )
0,16 ± 0,11
0,22 ( 0,17 – 0,29 )
0,25 ± 0,16
< 0,05
Nguy hại không lây nhiễm 0,0025 ( 0,0014 – 0,02 )
0,03 ± 0,07
0,0046 ( 0,0016 – 0,0132 )
0,01 ± 0,02
> 0,05
Tổng 1,66 ( 0,92 – 2,36 )
1,79 ± 1,01
1,57 ( 1,18 – 2,03 )
1,76 ± 0,86
> 0,05

Không có sự độc lạ có ý nghĩa thống kê về khối lượng CTYT thường thì và khối lượng CTNH không lây nhiễm phát sinh trung bình theo giường bệnh trong ngày giữa những Bệnh viện đa khoa và Bệnh viện chuyên khoa ( p > 0,05 ) ( Bảng 5 ) .
Đối với CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm, có 38,0 % Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý ; 50 % Bệnh viện tích hợp phương pháp thuê giải quyết và xử lý và giải quyết và xử lý bằng lò đốt của Bệnh viện ; 12,0 % Bệnh viện phối hợp thuê giải quyết và xử lý và giải quyết và xử lý bằng lò hấp. Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về phương pháp giải quyết và xử lý CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm giữa nhóm Bệnh viện tuyến Trung ương và nhóm Bệnh viện tuyến tỉnh ( p < 0,001 ) : hầu hết những Bệnh viện Trung ương thuê giải quyết và xử lý ( 76,5 % ), còn Bệnh viện tuyến tỉnh có lò đốt để giải quyết và xử lý và phối hợp thuê giải quyết và xử lý ( 75,9 % ) . Đối với chất thải hóa học, 52,9 % Bệnh viện tuyến Trung ương và 41,4 % Bệnh viện tuyến tỉnh thuê đơn vị chức năng giải quyết và xử lý. Các Bệnh viện còn lại chọn phương pháp giải quyết và xử lý là trả lại nhà cung ứng. Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê ( p > 0,05 ) về những phương pháp giải quyết và xử lý CTYT hóa học tại những Bệnh viện .
Đối với CTYT nguy cơ tiềm ẩn khác, 100 % Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý. Có 95,7 % những Bệnh viện thuê giải quyết và xử lý CTYT thường thì. Không có sự độc lạ về tỷ suất này giữa hai tuyến Bệnh viện ( Bảng 6 ) .
Trong tổng số 92 Bệnh viện, có 51 Bệnh viện có lò đốt CTYT, trong đó 3,9 % Bệnh viện đạt toàn bộ những tiêu chuẩn nhìn nhận về lò đốt CTYT theo QCVN 02 : 2012 / BTNMT. Xét trên từng tiêu chuẩn, có 98 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về lượng oxy dư, 96,1 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về thời hạn lưu cháy trong vùng đốt thứ cấp, 92,2 % Bệnh viện có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý khí thải lò đốt, 84,3 % Bệnh viện đạt tiêu chuẩn về nhiệt độ vùng đốt sơ cấp. Tỷ lệ Bệnh viện có lò đốt đạt những tiêu chuẩn về nhiệt độ vùng đốt thứ cấp, nhiệt độ bên ngoài vỏ lò, nhiệt độ khí thải ra thiên nhiên và môi trường lần lượt là 56,9 %, 51,0 %, 29,4 % và 23,5 % ( Bảng 7 ) .
Trong 51 Bệnh viện có lò đốt CTYT, có 80,4 % Bệnh viện có quy trình tiến độ hướng dẫn quản lý và vận hành lò đốt, 84,4 % Bệnh viện có phân định tro xỉ theo pháp luật tại QCVN 07 : 2009 / BTNMT. Tỷ lệ Bệnh viện có lò đốt có thực trạng quản lý và vận hành tốt và tiếp tục bảo trì đạt tương ứng 47,1 % và 58,8 %. Có 39,2 % Bệnh viện có kế hoạch ứng phó sự cố và chỉ 2 % Bệnh viện có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh từ lò đốt. Tỷ lệ Bệnh viện có hiệu quả quan trắc khí thải lò đốt CTRYT đạt QCVN 02 : 2012 / BTNMT chỉ chiếm 3,9 % ( Bảng 8 ) .
Trong 92 Bệnh viện có 11 Bệnh viện có lò hấp CTYT. Tỷ lệ đạt toàn bộ những tiêu chuẩn tương quan đến quản trị, sử dụng lò hấp tại Bệnh viện là 36,4 %. Cụ thể, 100 % Bệnh viện có quá trình hướng dẫn quản lý và vận hành lò hấp, 81,8 % Bệnh viện có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh, 72,7 % Bệnh viện có thực trạng quản lý và vận hành lò hấp tốt. Tỷ lệ Bệnh viện có bảo trì tiếp tục lò hấp đạt 54,5 %, 36,4 % Bệnh viện có kế hoạch ứng phó sự cố, nhìn nhận hiệu suất cao bất hoạt vi sinh vật với tần suất nhìn nhận theo lao lý tại QCVN 55 : 2013 / BTNMT .

3.2. Dịch Covid-19 và vấn đề CTYT nguy hại

    Dịch Covid-19 đã để lại cho Trung Quốc lượng lớn CTYT. Hơn 20 thành phố tăng cường xử lý rác thải. Vũ Hán, trung tâm của dịch, bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đang phát thải trên 240 tấn rác y tế mỗi ngày buộc chính quyền phải triển khai các cơ sở xử lý di động (South China Morning Post, 12/3/2020).

Theo Trung tâm Khoa học và Môi trường ( CSE ), Ấn Độ đã tận mắt chứng kiến sự ngày càng tăng đáng kể CTR nguy cơ tiềm ẩn từ những Bệnh viện do tương quan đến Covid-19 trong tháng 4 – 5/2021 ( India Today 12/6/2021 ) .
Báo cáo công bố gần đây của Ấn Độ cho thấy, sự ngày càng tăng đáng kể trong việc phát sinh chất thải y sinh tương quan đến Covid-19 trong đợt bùng phát lần thứ hai, ” Ấn Độ phát thải 139 tấn chất thải Bệnh viện tương quan đến Covid-19 mỗi ngày vào tháng 4/2021, khi vương quốc này phải chống chọi với làn sóng thứ 2 của dịch Covid-19 và số lượng này vào tháng 5/2021, đã tăng lên tới 203 tấn mỗi ngày, tương tự tăng 46 % ” .
Đối với Nước Ta, qua những đợt dịch bùng phát dịch Covid-19 từ năm 2020 – 2021, chưa có thống kê hay tìm hiểu đáng tin cậy nào cho biết mức phát thải CTR y tế nguy cơ tiềm ẩn biến hóa. Nhưng với việc ngày càng tăng đáng kể những loại vật tư tiêu tốn sử dụng một lần cho điều trị bệnh nhân Covid-19, cho lấy mẫu khám sàng lọc, cho những khu vực cách ly tập trung chuyên sâu … thì lượng CTYT nguy cơ tiềm ẩn tăng lên lớn .
Chưa có đo lường và thống kê đúng chuẩn về tổng lượng CTYT trên toàn thế giới từ khi COVID-19 trở thành đại dịch, nhưng thông tin từ những vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ cho thấy sự ngày càng tăng chóng mặt so với trước đó. Theo tờ The Verge, chỉ tính riêng tại Vũ Hán, lượng rác thải y tế tại những bệnh viện đã tăng gấp 6 lần so với trước khi khủng hoảng cục bộ xảy ra, ước tính mỗi ngày có tới 240 tấn rác .

4. Bàn luận

    Kết quả quan trắc môi trường tại 92 Bệnh viện hạng 1 tuyến Trung ương và tuyến tỉnh cho thấy, lượng CTYT phát sinh theo kg/giường bệnh/ngày trung bình là 1,77±0,90 kg/giường bệnh/ngày, trong đó 0,22 ± 0,15 kg/giường bệnh/ngày là CTYT lây nhiễm. Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu trên 7 Bệnh viện huyện của TP. Hải Phòng năm 2015 với lượng chất thải phát sinh là 1,02 kg/giường bệnh/ ngày, chất thải lây nhiễm là 0,99. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi thấp hơn lượng chất thải tại Pakistan với 2,07 kg/giường bệnh/ngày (khoảng từ 1,28-3,47) [10]. Kết quả thấp hơn so với nghiên cứu của Eker

H. H. và tập sự ( 2011 ) nghiên cứu trên 357 cơ sở y tế tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy, lượng CTR hoạt động và sinh hoạt so với khu nội trú là 4,23 ± 9,98 kg / giường bệnh / ngày, khu ngoại trú là 3,62 ± 33,19 kg / giường bệnh / ngày. Tuy vậy, lượng CTRYT nguy cơ tiềm ẩn khu nội trú là 0,168 ± 0,649 kg / người / ngày, ngoại trú là 0,018 ± 0,062 kg / người / ngày .
Nghiên cứu này cho thấy, có sự độc lạ có ý nghĩa thống kê lượng 1 số ít loại chất thải theo những tuyến, theo những tuyến bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, theo mô hình bệnh viện. Trong đó, lượng chất thải nói chung tuyến tỉnh cao hơn tuyến Trung ương ; tuy nhiên, với chất thải lây nhiễm thì tuyến Trung ương cao nhất, tiếp đến tuyến tỉnh và tuyến huyện. Kết quả nghiên cứu tương tự như với số liệu tổng hợp của WHO tại Nam Phi, trong đó Bệnh viện tuyến Trung ương là 1,24 kg / giường bệnh / ngày, tuyến tỉnh 1,53 kg / giường bệnh / ngày ; Bệnh viện khu vực 1,05 kg / giường bệnh / ngày ; Bệnh viện huyện 0,65 kg / giường bệnh / ngày .

    Như vậy, ở mỗi bệnh viện khác nhau có lượng chất thải và thành phần CTR phát sinh là khác nhau, do vậy việc đầu tư công nghệ cũng như thực hành thu gom, xử lý chất thải là khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng lượng chất thải và thành phần chất thải không chỉ phụ thuộc vào quy mô, loại hình, dịch vụ khám, chữa bệnh mà còn phụ thuộc vào thực hành của cán bộ y tế và mỗi người bệnh.

Kết quả tìm hiểu của nghiên cứu này chỉ ra rằng, hầu hết những bệnh viện ( 95,7 % ) đều thuê giải quyết và xử lý CTR thường thì, còn lại tỷ suất nhỏ bệnh viện vận dụng chiêu thức chôn lấp CTR ngay tại khuôn viên cơ sở. Kết quả này cũng tương đương với nghiên cứu của tác giả Đặng Ngọc Chánh và tập sự tại 30 bệnh viện khu vực miền Nam năm năm ngoái ( 94 % bệnh viện có hợp đồng giải quyết và xử lý chất thải hoạt động và sinh hoạt với đơn vị chức năng có giấy phép ) .
Đối với chất thải nguy cơ tiềm ẩn có rủi ro tiềm ẩn lây nhiễm, giải pháp vừa thuê giải quyết và xử lý và vận dụng lò đốt tại những bệnh viện chiếm hầu hết ( 88 % ). Các bệnh viện còn lại thuê giải quyết và xử lý và lò hấp ( 12 % ). Riêng so với CTYT hóa học, 45,7 % được thuê giải quyết và xử lý và 54,3 % còn lại sẽ trả lại nhà phân phối giải quyết và xử lý. Các CTYT nguy cơ tiềm ẩn khác ( chất thải phóng xạ, bình ga, bình khí dung … ) được thuê giải quyết và xử lý ở tổng thể những bệnh viện khảo sát ( 100 % ). Tỷ lệ Bệnh viện có sử dụng lò đốt để giải quyết và xử lý CTYT trong nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu của Phạm Minh Khuê, Phạm Đức Khiêm tại Bệnh viện tuyến huyện Hải Phòng Đất Cảng năm năm ngoái, với 14,3 % .

Bảng 5. Các phương thức xử lý CTYT tại các Bệnh viện

Loại chất thải

Phương thức xử lý

Trung ương (n=34)

Tuyến tỉnh (n=58)

Chung (n = 92)

P

SL

%

SL

%

SL

%

CTYT thường thì Thuê giải quyết và xử lý 34 100 55 94,8 89 96,7 > 0,05 *
Chôn lấp tại Bệnh viện 0 0 3 5,2 1 3,3
CTYT nguy cơ tiềm ẩn lây nhiễm Thuê giải quyết và xử lý 26 76,5 9 15,5 35 38,0 < 0,001 *
Thuê giải quyết và xử lý và Lò đốt 2 5,9 44 75,9 46 50,0
Thuê giải quyết và xử lý và Lò hấp 6 17,6 5 8,6 11 12,0
CTRYT hóa học Thuê giải quyết và xử lý 18 52,9 24 41,4 42 45,7 > 0,05 * *
Trả lại nhà phân phối 16 47,1 34 58,6 50 54,3
CTRYT nguy cơ tiềm ẩn khác Thuê giải quyết và xử lý 34 100 58 100 92,0 100
Lưu trữ tại Bệnh viện 0 0,0 0 0,0 0 0,0

* Fisher Exact test
* * Pearson Chi-Square

Bảng 6. Tỷ lệ lò đốt đạt tiêu chí đánh giá tại các Bệnh viện (n=51)

Tiêu chí đánh giá

SL

Tỷ lệ %

Số Bệnh viện có lò đốt 51 100
Nhiệt độ vùng đốt sơ cấp ( ³650oC ) 43 84,3
Nhiệt độ vùng đốt thứ cấp ( ³1050oC ) 29 56,9
Thời gian lưu cháy trong vùng đốt thứ cấp ( ³2 giây ) 49 96,1
Lượng oxy dư ( đo tại điểm lấy mẫu ) ( 6-12 % ) 50 98,0
Nhiệt độ bên ngoài vỏ lò ( hoặc lớp chắn cách ly nhiệt ) ( ≤ 60 oC ) 26 51,0
Nhiệt độ khí thải ra thiên nhiên và môi trường ( đo tại điểm lấy mẫu ) ( ≤ 180 oC ) 15 29,4
Chiều cao ống khói ( ³20m ) 12 23,5
Có mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý khí thải 47 92,2
Đạt tổng thể những chỉ tiêu 2 3,9

Bảng 7. Thực trạng quản lý, sử dụng lò đốt tại Bệnh viện (n=51)

Tiêu chí đánh giá

Số lượng

Tỷ lệ %

Vận hành tốt 24 47,1
Bảo dưỡng liên tục 30 58,8
Có quá trình hướng dẫn quản lý và vận hành 41 80,4
Có kế hoạch ứng phó sự cố 20 39,2
Có giải quyết và xử lý nước thải phát sinh 1 2,0
Có phân định tro xỉ theo lao lý tại QCVN 07 : 2009 / BTNMT 43 84,3
Thông số quan trắc khí thải lò đốt đạt QCVN 02 : 2012 / BTNMT 2 3,9
Số Bệnh viện có lò đốt 51 100

5. Kết luận

    Tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, việc khám chữa bệnh, cách ly người nhiễm, nghi nhiễm tại các cơ sở tập trung, khuynh hướng áp dụng hình thức cách ly tại hộ gia đình sẽ tiếp tục dẫn đến việc gia tăng một số lượng lớn CTYT nguy hại, cần được đánh giá chính xác, quản lý chặt chẽ và xử lý có hiệu quả.

Phạm Ngọc Châu 

Học viện Quân y

Đàm Thương Thương 

Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường tự nhiên, Bộ Y tế
( Nguồn : Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng Việt II / 2021 )

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Y tế. Điểm tin y tế ngày 15/12/2017 .
  2. Chartier Y et al. Safe management of wastes from health – care activities. World Health Organization. 2014 .
  3. Tạp chí Môi trường. Các bệnh viện thực thi phân loại rác thải tại nguồn 2019 .
  4. Bộ Y tế. Sổ tay hướng dẫn quản trị chất thải y tế trong bệnh viện. Nhà xuất bản Y học Thành Phố Hà Nội. 2015 .
  5. Komilis D., Fouki A. and Papadopoulos D. (2012). Hazardous medical waste generation rates of different categories of health-care facilities. Waste Manag, 32(7): 1434-41.

  6. Sanida G., Karagiannidis A., Mavidou F., et al. ( 2010 ). Assessing generated quantities of infectious medical wastes : a case study for a health region administration in Central Macedonia, Greece. Waste Manag, 30 ( 3 ) : 532 – 8 .
  7. South China Morning Post, 12/3/2020, Mountain of hospital waste in Wuhan in Covid-19 2020 .
  8. India today, 12/6/2021. 46 % increase in Covid biomedical waste in April-May, says report .

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận