LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo, sức CHIẾN đấu của tổ CHỨC cơ sở – Tài liệu text

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo, sức CHIẾN đấu của tổ CHỨC cơ sở ĐẢNG THUỘC ĐẢNG bộ HUYỆN đầm dơi, TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.46 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐẦM DƠI
TỈNH CÀ MAU
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và những vấn đề cơ bản về nâng cao

11

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao năng lực

11

lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO

35

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ
HUYỆN ĐẦM DƠI TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY
2.1. Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh

52

đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng
bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay
2.2. Những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

52

đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

59
86
88

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu là quy luật tất yếu trong quá
trình tồn tại, trưởng thành, phát triển của Đảng ta, là một nội dung trọng tâm,
then chốt trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Bước sang thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương lấy “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Bởi vậy, vấn đề nâng cao
NLLĐ, SCĐ của Đảng, bảo đảm cho toàn Đảng và từng tổ chức cơ sở đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới càng trở nên có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Ý thức sâu sắc được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Thời gian qua, Đảng bộ huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau luôn đặc biệt quan tâm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không
ngừng nâng cao NLLĐ, SCĐ của các tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, đã tạo được
chuyển biến tích cực, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ được xây
dựng có số lượng, cơ cấu, tổ chức hợp lý, chất lượng ngày càng cao, năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên,
cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, phát huy tốt vai trò tập hợp và lãnh đạo
quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh
của địa phương.
Tuy nhiên, trước sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, mục
tiêu, phương châm, phương hướng đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nhất là yêu cầu
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền,
đang còn nhiều vấn đề đặt ra cho công tác xây dựng Đảng nói chung, xây

3

dựng các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải nghiên cứu
giải quyết, cả trên phương diện nhận thức luận cũng như phương diện chỉ đạo,
tổ chức thực tiễn. Mặt khác, trước âm mưu thủ đoạn chống phá bằng “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang nhằm vào cơ sở, nhất là âm mưu,
thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ Đảng, trước hết là ở các tổ chức cơ sở đảng. Bởi vậy, trên thực tế vẫn
còn một bộ phận các tổ chức cơ sở đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
còn hạn chế, chưa đáp ứng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Hiệu
lực, hiệu quả lãnh đạo trong xây dựng Đảng và thực hiện các nhiệm vụ kinh

tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh, ở địa phương còn thấp.
Tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nói không đi đôi với làm vẫn còn xảy ra; tự
phê bình và phê bình chưa được duy trì thường xuyên; nguyên tắc tập trung
dân chủ chưa được thực hiện nghiêm túc; một số tổ chức cơ sở đảng tuy đạt
trong sạch vững mạnh nhưng chất lượng lãnh đạo còn yếu; một bộ phận cán
bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, vi
phạm nguyên tắc Đảng, pháp luật Nhà nước bị xử lý kỷ luật tỷ lệ khá cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn và
đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi để nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ
chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi thực sự là vấn đề vừa cơ
bản, vừa cấp thiết đặt ra cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà
Mau hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và Chính
quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, không ngừng nâng cao NLLĐ,
SCĐ của các tổ chức cơ sở đảng là vấn đề lớn và có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong công cuộc xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bởi vậy nó thu hút
4

sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước, các nhà hoạt động chính trị xã hội. Hiện nay, đã có khá nhiều các
công trình đề tài, luận văn, luận án, nghiên cứu về vấn đề này đã được nghiệm
thu, công bố. Tiêu biểu như:
Đề tài luận án tiến sĩ “Chất lượng các đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ
hiện nay”, của tác giả Dương Trung Ý (2008). Tác giả tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất lượng các đảng bộ vùng trung du
Bắc Bộ, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới

phương thức lãnh đạo và xác định đúng nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ
vùng trung du Bắc Bộ.
Đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử chuyên ngành xây dựng Đảng
“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong các trường sĩ quan quân đội
đáp ứng yêu cầu bậc đào tạo đại học” của tác giả Nguyễn Trọng Hân (2000).
Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng về chất lượng của các tổ chức cơ sở
đảng trong các trường sĩ quan quân đội, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng để đáp ứng yêu cầu đào tạo bậc đại học.
Đề tài luận văn thạc sĩ ngành xây dựng Đảng “Nâng cao chất lượng
sinh hoạt các chi bộ khối nghiên cứu, giảng dạy ở học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh” của tác giả Cao Duy Tiến (2001). Đề tài đã tập trung phân tích
thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ của khối nghiên cứu giảng dạy ở Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi
Hữu Dược( 2003). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân, rút
ra bài học kinh nghiệm, xây dựng tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ thống giải
pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng
5

nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
chi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – Thực trạng
và giải pháp” của tác giả Huỳnh Ngọc Thành (2005). Tác giả đã tập trung
phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn,
Thành phố Hồ Chí Minh.

Đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả
Phùng Đức Thái (2000). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ
thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Dũng (2000). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân và đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An.
Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng
cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tác giả đã tập trung làm rõ những cơ sở lý luận và thực trạng năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu; đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn vùng cao
phía Bắc.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng
Phòng không – Không quân trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn
6

Học (2001). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề
xuất hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng Phòng không
– Không quân.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện

nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá
thực trạng và nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnh
Bắc Giang.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí
như: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng Bộ
đội biên phòng ” của tác giả Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp chí Cộng sản số
1/1999. Tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, thực trạng các tổ chức cơ sở đảng Bộ đội biên phòng, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng Bộ đội biên phòng.
“Tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ
sở đảng – Một nhiệm vụ quan trọng của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng – tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Vũ Ngọc Lâm đăng trên Tạp chí Cộng
sản số 15/1999. Tác giả đã trình bày quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết TW 6
lần 2 (khóa VIII), phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII).
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn với bảo
vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Đình Ban, đăng
trên Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001, số 9. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả
đã đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
7

Đảng gắn với bảo vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở” của tác giả Trần Đình
Hoan, đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2004. Tác giả đã luận giải vai
trò của tổ chức cơ sở đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nêu lên thực trạng

những ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính
trị cơ sở.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện Chính trị quân sự” của Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Quốc, đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10, 2008. Tác giả đã
trình bày các nội dung và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện
Chính trị quân sự.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội
trong tình hình mới” của Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư TW Đảng, Chủ
nhiệm Tổng cục chính trị (Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 2, 2009). Tác giả
đã đề xuất một số nội dung trọng tâm: tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp của Hội nghị TW 9 (khoá
X); tiếp tục đổi mới toàn diện công tác cán bộ; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát, công tác giáo dục,
quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng” của tác giả Vũ Văn Phúc (2011), đăng trên Tạp chí Cộng sản
(chuyên đề cơ sở số 55). Từ cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng của
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tác giả đã đề xuất
các giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
8

cơ sở đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất

những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau;
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau.
Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà
Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
hiện nay. Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát tập trung trên địa bàn các xã, thị
trấn ở Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà Mau; thời gian từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng; các chủ trương,
9

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và chỉnh đốn Đảng;
về xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng.
* Cơ sở thực tiễn

Từ thực tế công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao NLLĐ,
SCĐ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau; các
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của các cấp ủy, cơ quan chức năng; các
tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát thực tế về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
và hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau; đồng thời, tham khảo kết
quả nghiên cứu của các công trình đề tài có liên quan đã nghiệm thu, công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành; trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp: phân tích – tổng hợp;
logic – lịch sử; điều tra xã hội học; thống kê; so sánh; tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận,
thực tiễn giúp cho các cấp ủy, tổ chức đảng vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng
bộ Huyện Đầm Dơi nói riêng và Tỉnh Cà Mau nói chung.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, học tập môn xây dựng Đảng ở Trường chính trị Tỉnh Cà Mau, các Trung
tâm bồi dưỡng chính trị trong tỉnh, làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy cơ
sở và đảng viên.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
10

liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐẦM DƠI
TỈNH CÀ MAU
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và những vấn đề cơ bản về nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
1.1.1. Huyện Đầm Dơi và tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi
* Khái quát Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà Mau
Đầm Dơi là Huyện thuộc vùng kinh tế ven biển của Tỉnh Cà Mau, cách
trung tâm tỉnh lỵ Cà Mau 30 km về hướng Đông Nam; diện tích tự nhiên gần
83.000 ha, địa giới hành chính được phân chia thành 15 xã, 1 thị trấn, với 139
ấp – khóm; có 41.032 hộ, với 183.200 khẩu; Huyện có chiều dài bờ biển trên
25 km, hệ thống sông ngòi chằng chịt, có 4 cửa sông lớn thông ra biển: Gành
Hào, Giá Cao, Giá Lồng Đèn, Hố Gùi…; nhân dân sống chủ yếu là nuôi trồng,
khai thác thủy sản và thương mại, dịch vụ.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước,
Đầm Dơi là căn cứ địa cách mạng, nơi nuôi chứa, che chở Xứ ủy Nam Bộ,
Trung ương cục miền Nam…, nơi cung cấp sức người, sức của cho kháng
chiến; cũng là nơi diễn ra các trận chiến đấu ác liệt với kẻ thù; nhân dân nơi
đây có truyền thống yêu nước, kiên cường bám đất, bám làng, dũng cảm chiến
đấu dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng đến ngày toàn thắng. Với những thành
tích đó, Đảng bộ và nhân dân Huyện Đầm Dơi vinh dự được Chủ tịch nước
phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng bộ và nhân dân Đầm Dơi
tiếp tục phát huy truyền thống quê hương anh hùng, tập trung xây dựng quê

11

hương ngày càng giàu đẹp, góp phần xứng đáng vào tiến trình phát triển
chung của đất nước.
Về kinh tế: Thế mạnh kinh tế của Huyện là nuôi trồng và khai thác thủy
sản, với diện tích sản xuất trên 62.000 ha, trong đó có 3.200 ha diện tích nuôi
tôm công nghiệp và trên 30.000 ha diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến, sản
lượng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản bình quân hằng năm trên 100.000 tấn;
diện tích đất rừng 7.219 ha. Cơ cấu kinh tế của Huyện: ngư, nông, lâm
nghiệp 54,7%; công nghiệp, xây dựng 21,5%; thương mại, dịch vụ 23,8%.
GDP tăng trưởng bình quân hằng năm trên 10%, thu nhập bình quân đầu
người năm 2015 trên 32 triệu đồng.
Về chính trị: Hệ thống chính trị của Huyện gồm các cơ quan cấp huyện:
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc,
các cơ quan chuyên môn thuộc Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Liên
đoàn Lao động và các tổ chức xã hội khác. Ở 15 xã và 01 thị trấn của Huyện
có các tổ chức tương ứng với cấp Huyện nhưng dưới một cấp hành chính.
Về văn hóa, xã hội: Huyện có Đền thờ Bác Hồ, Khu di tích chiến thắng
Đầm Dơi – Cái Nước – Chà Là, tượng đài anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân Dương Thị Cẩm Vân, Trung tâm văn hoá, thể thao Huyện. Có 2/15 xã có
Trung tâm văn hoá, thể thao; các ấp – khóm đều có trụ sở sinh hoạt văn hoá.
Hiện nay, toàn Huyện có 64,98% hộ gia đình, 35,25% ấp, khóm và 02 xã đạt
chuẩn văn hoá nông thôn mới; có 4 trường Trung học phổ thông, trên 30
trường Trung học cơ sở cùng hệ thống trường tiểu học và trường mẫu giáo
bảo đảm nhu cầu học tập của học sinh; đến cuối năm 2015 có 29/75 trường
đạt chuẩn quốc gia. Huyện có 01 Bệnh viện Đa khoa với 150 giường bệnh, 01
phòng khám đa khoa khu vực và 15 trạm y tế xã, thị trấn. Đội ngũ cán bộ,
thầy thuốc Huyện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và có y đức
phục vụ nhân dân. Huyện có trên 4.000 đối tượng chính sách, trong đó có gần
12

1.000 liệt sỹ, 266 Mẹ Việt Nam anh hùng; đến cuối năm 2015, Huyện còn
2.237 hộ nghèo, chiếm 5,13%; 1.193 hộ cận nghèo, chiếm 2,74%.
Về quốc phòng, an ninh:
Những năm qua, tình hình an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội của
Huyện luôn được giữ vững. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc và
giữ gìn trật tự xã hội, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, xây dựng mô hình tự quản về an ninh trật tự ở những nơi công cộng
luôn được duy trì thực hiện tốt.
* Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Theo lịch sử truyền thống của Đảng bộ Huyện, chi bộ đầu tiên được
thành lập năm 1945, đến nay Đảng bộ Huyện đã trải qua 14 kỳ đại hội. Đảng
bộ có 67 tổ chức cơ sở đảng (gồm các loại hình: 15 đảng uỷ xã; 01 đảng uỷ
thị trấn; 03 đảng uỷ và 30 chi bộ cơ quan; 04 chi bộ doanh nghiệp; 12 chi bộ
sự nghiệp; 02 đảng uỷ lực lượng vũ trang), 288 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ
sở, với 4.837 đảng viên.
* Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII quy định rõ:
“Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên
chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp Huyện). Ở
cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công
an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng
(tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên
trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên
nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên
trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp”.
Quy định trên chỉ rõ, tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho cả chi bộ
cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ
cụ thể của từng cơ sở. Theo đó, hình thức tổ chức cơ sở đảng cũng được phân

13

ra nhiều loại khác nhau, nhưng có 3 hình thức cơ bản sau:
Cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thành lập chi
bộ cơ sở, dưới chi bộ có thể lập các tổ đảng.
Cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thành lập đảng bộ cơ sở và có các chi
bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Đảng bộ có số lượng đảng viên đông, có thể thành lập đảng bộ, bộ phận
trực thuộc đảng ủy cơ sở, dưới đảng bộ, bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
Theo đó, mỗi TCCSĐ được xác định là một tế bào cấu thành cơ thể
sống của Đảng, là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng;
là hạt nhân chính trị ở cơ sở; trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng
vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy. TCCSĐ cũng là nơi
thường xuyên sâu sát, gắn bó mật thiết với quần chúng, trực tiếp nắm, giải
quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng; nơi hàng ngày đảng
viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục, rèn luyện đảng
viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
“Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là một bộ phận tổ
chức cơ sở của Đảng, bao gồm các chi bộ, đảng bộ cơ sở được thành lập ở
đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị
sự nghiệp… theo quy định của Điều lệ Đảng, trực thuộc Đảng bộ Huyện, là
nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; nơi trực tiếp đưa đường lối
của Đảng vào cuộc sống, nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và cung cấp cơ sở thực tiễn để bổ sung, phát
triển, hoàn thiện đường lối; nơi trực tiếp phân công nhiệm vụ, quản lý, giáo
dục, rèn luyện, phát triển và sàng lọc đội ngũ đảng viên, trực tiếp góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở.”

* Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Xác định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ
14

Huyện Đầm Dơi phải dựa vào Điều lệ Đảng, trực tiếp là Quy định số 95QĐ/TW, ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ,
chi bộ cơ sở xã để cụ thể hóa.
Chức năng của TCCSĐ:
Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII xác định:
Tổ chức cơ sở đảng có nhiệm vụ: Chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng
bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình
và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng;
thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực
công tác; làm công tác phát triển đảng viên. Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và
các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng
pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Liên hệ mật thiết với
nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kiểm tra, giám sát
việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và
đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Theo đó, có thể hiểu các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi là tế bào nền tảng của Đảng, nơi hàng ngày giữ mối liên hệ mật thiết

giữa Đảng với quần chúng ở cơ sở, có chức năng chủ yếu là lãnh đạo công tác
quần chúng của Đảng ở cơ sở; tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân
thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của Đảng bộ Huyện; quan tâm chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối
15

với Nhà nước; xây dựng nông thôn mới (làng, xã văn minh, sạch đẹp, trật tự an toàn …).
Thông qua công tác vận động quần chúng và trực tiếp lãnh đạo quần
chúng thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, TCCSĐ giữ vai trò
quan trọng trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối,
nghị quyết của Đảng, đồng thời phản ánh với Đảng những ý kiến xác đáng
để sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối. Chi, đảng bộ cơ sở cũng là nơi
đảng viên hàng ngày sinh hoạt, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân, là nơi
trực tiếp giáo dục, rèn luyện, sàng lọc và giới thiệu những quần chúng ưu tú
cho Đảng.
Nhiệm vụ của TCCSĐ:
Một là, lãnh đạo chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự
khu vực và thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.
Tuyên truyền, vận động, lãnh đạo mọi tầng lớp nhân dân tập trung phát
triển sản xuất, nhân rộng những mô hình làm ăn có hiệu quả, tận dụng vườn,
bờ bao, vuông tôm trồng rau màu, cây ăn trái theo phương châm đa cây, đa
con để phát triển kinh tế bền vững. Đồng thời lãnh đạo thực hiện tốt các
nhiệm vụ chính trị khác ở địa phương như xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng
nông thôn mới, chính sách an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo, công tác y tế,
giáo dục, quốc phòng, an ninh, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở… góp phần
thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân.
Hai là, làm công tác chính trị tư tưởng.

Trực tiếp vận động, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Trong giai
đoạn hiện nay, công tác giáo dục tư tưởng chính trị là nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng đối với các cấp ủy đảng, là nhiệm vụ hàng đầu, là mặt trận chiến đấu
của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các TCCSĐ
phải coi trọng và thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
16

Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng, để xây dựng TCCSĐ ngày càng TSVM.
Ba là, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, kịp thời xây dựng và tổ chức
thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Để lãnh đạo và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị trong từng giai đoạn, yêu cầu đặt ra với các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện
Đầm Dơi là phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật Nhà nước, đồng thời nắm chặt tình hình mọi mặt của địa
phương. Trên cơ sở đó, xây dựng chủ trương, nghị quyết sát với tình hình,
năng động, sáng tạo tổ chức thực hiện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đề ra, xây
dựng TCCSĐ vững mạnh về mọi mặt.
Bốn là, làm công tác tổ chức, đảng viên và xây dựng Đảng.
Thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ và tiến hành có hiệu quả công tác tổ
chức xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở các nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng, cụ thể hóa và duy trì nghiêm túc trong tổ
chức, sinh hoạt, hoạt động lãnh đạo của đảng ủy, chi bộ; nhất là nền nếp
chế độ sinh hoạt Đảng, bảo đảm cho mọi sinh hoạt của Đảng được thực
hiện nghiêm túc, đầy đủ, có hiệu lực, hiệu quả. Thường xuyên làm tốt công
tác quản lý, rèn luyện, phân công công tác cho đảng viên; lãnh đạo phát
huy vai trò của MTTQ và các tổ chức đoàn thể tham gia xây dựng Đảng,

bồi dưỡng, rèn luyện, lựa chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho
Đảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc, phương hướng, mục tiêu công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng.
Năm là, lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Lãnh đạo tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị TSVM, phát huy vai trò của MTTQ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân… trong tập hợp, vận động
đoàn viên, hội viên thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, nghị
quyết của cấp ủy các cấp và nghị quyết của đảng ủy, chi bộ trong phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, phát huy có hiệu
17

quả hoạt động của các tổ chức, lực lượng này trong tham gia xây dựng đảng
bộ, chi bộ TSVM, góp phần nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ.
* Đặc điểm hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Một là, TCCSĐ ở Huyện Đầm Dơi có số lượng khá nhiều so với các
huyện khác trong tỉnh, cơ bản được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp xã và
tương đương, xây dựng và hoạt động trong địa hình, địa bàn rộng, chia cắt
bởi hệ thống kênh rạch.
Đầm Dơi là một Huyện có nhiều đơn vị hành chính so với các huyện
khác trong Tỉnh Cà Mau. Nếu như các huyện Phú Tân, Cái Nước thuộc Tỉnh
Cà Mau có khoảng 6 đơn vị hành chính cấp xã thì Huyện Đầm Dơi có tới 16
đơn vị hành chính cấp xã. Các TCCSĐ và số lượng đảng viên của Huyện
Đầm Dơi cũng lớn hơn các đơn vị huyện bạn trong tỉnh (67 TCCSĐ). Đầm
Dơi là Huyện có địa bàn rộng (diện tích trên 80.000 ha), sông ngòi chằng chịt,
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội thấp, đi lại chủ yếu bằng phương tiện thủy, lại
chịu chế độ bán nhật triều của biển Đông nên đi lại phụ thuộc vào mực nước
thủy triều, khi thủy triều xuống, một số kinh trục bị khô cạn, đi lại rất khó

khăn. Do đó, để xây dựng và quản lý chặt chẽ các TCSCĐ và đội ngũ cán bộ,
đảng viên đòi hỏi Huyện ủy phải có cách thức, biện pháp phù hợp với điều
kiện đặc thù của Huyện. Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ
Huyện quy định mỗi tháng các đồng chí thành viên Ban Thường vụ Huyện
ủy, thành viên Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện ít nhất dành thời gian đi cơ sở
2 ngày để giúp các TCCSĐ khắc phục khó khăn, thực hiện hoàn thành nhiệm
vụ chính trị là một giải pháp hữu hiệu nhằm quản lý TCCSĐ thuộc Đảng bộ
Huyện Đầm Dơi chặt chẽ hơn.
Hai là, đội ngũ đảng viên của các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm
Dơi có tỷ lệ tuổi đời cao khá đông và một phần là những người sinh ra và
trưởng thành trong đấu tranh cách mạng, trực tiếp tham gia hoạt động chống
Mỹ cứu nước.
Theo số liệu thống kê thực tế có trên 20% đảng viên các TCCSĐ ở
18

Huyện Đầm Dơi trên 41 tuổi và có một phần là những người đã từng tham gia
họat động kháng chiến chống Mỹ, được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng,
trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt của chiến tranh và trong thực tiễn
công tác nhiều năm, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, thường
xuyên gần gũi và gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin cậy, là chỗ
dựa nòng cốt cho hoạt động lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Do đó, đội
ngũ này thường nắm chắc được những bức xúc, tâm tư của nhân dân, kịp thời
phản ánh và đề xuất với các cơ quan lãnh đạo đảng, chính quyền để có chủ
trương, biện pháp giải quyết thỏa đáng, góp phần tạo nên sự đồng thuận trong
xã hội và sự nhất trí cao trong các tầng lớp nhân dân đối với quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời,
họ cũng là lực lượng nòng cốt cho mọi hoạt động xây dựng và lãnh đạo, chỉ
đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Đại bộ phận họ đều có có tâm huyết, luôn trăn

trở, mong muốn xây dựng tổ chức đảng TSVM và không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ.
Ba là, chất lượng các TCCSĐ và cơ cấu thành phần, số lượng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các TCCSĐ không đồng đều, còn
nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Theo số liệu thống kê đến tháng 12 năm 2015, tổng số đảng viên của 16
đảng bộ xã, thị trấn có 3.990 đảng viên, chiếm 82,49% so với tổng số đảng
viên của Đảng bộ Huyện. Trong đó 3.167 đảng viên nam, chiếm tỷ lệ 79,37%
so tổng số đảng viên cấp xã; 823 đảng viên nữ, chiếm 20,63% so với đảng
viên cấp xã; đảng viên là cán bộ hưu trí 250 đồng chí, chiếm 6,25% so với
đảng viên cấp xã. Đội ngũ đảng viên ở các TCCSĐ cấp xã thuộc Đảng bộ
Huyện Đầm Dơi được hình thành từ nhiều nguồn: cán bộ, công chức nghỉ
hưu, bộ đội xuất ngũ, chuyển từ địa phương khác đến, nhưng phần đông là
nguồn phát triển tại chỗ, trưởng thành từ các phong trào cách mạng tại địa
phương. Về trình độ học vấn, cấp I: 176 đồng chí, chiếm 4,41%; cấp II: 1.100
đồng chí, chiếm 27,57%; cấp III: 2.714 đồng chí, chiếm 68,02%. Trình độ
19

chuyên môn nghiệp vụ trung cấp 1.153 đồng chí, chiếm 28,90%; cao đẳng,
đại học và trên đại học 67 đồng chí, chiếm 1,68%. Trình độ lý luận chính trị
sơ cấp 1.023 đồng chí, chiếm tỷ lệ 25,64%; trung cấp 414 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 10,38%; cao cấp và cử nhân 59 đồng chí, chiếm tỷ lệ 1,48%; số còn lại
chưa qua đào tạo.
Đối với 47 Đảng bộ, chi bộ ngành Huyện có tổng số 847 đảng viên,
trong đó 653 đảng viên nam, chiếm tỷ lệ 77,10%; 194 đảng viên nữ, chiếm
22,90%. Về trình độ học vấn, cấp II 43 đồng chí, chiếm 5,08%; cấp III 804
đồng chí, chiếm 94,92%. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trung cấp 67 đồng
chí, chiếm 7,91%; cao đẳng, đại học và trên đại học 780 đồng chí, chiếm
92,09%. Trình độ lý luận chính trị sơ cấp 142 đồng chí, chiếm tỷ lệ 16,77%;

trung cấp 620 chiếm tỷ lệ 73,20%; cao cấp và cử nhân 85 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 10,04%.
Từ số liệu phân tích trên cho thấy, số lượng đảng viên cơ sở tuy
chiếm số đông (82,49% so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ Huyện)
nhưng trình độ học vấn, trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
lại thấp. Do vậy việc triển khai, quán triệt và vận dụng các chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào điều
kiện cơ sở còn rất hạn chế.
* Vai trò TCCSĐ thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Thứ nhất, các TCCSĐ cấu thành nền tảng của Đảng ở cơ sở, trực tiếp
quyết định việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát huy vai trò, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Đảng hiện nay, TCCSĐ là cấp bộ
đảng được tổ chức ở cấp chính quyền địa phương cấp xã và tương đương, đây
là những đơn vị tế bào nhỏ nhất cấu thành hệ thống tổ chức đảng, lập thành
nền tảng của Đảng, các TCCSĐ TSVM là nhân tố trực tiếp quyết định sự bền
vững của Đảng ở cơ sở và toàn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng
mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”, TCCSĐ không
chỉ giữ vai trò quan trọng trong tạo thành nền tảng vững chắc cho Đảng, mà
20

còn giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo và
phát huy vai trò của các tổ chức trong HTCT ở địa phương trong tuyên
truyền, vận động, tập hợp nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước và xây dựng địa phương vững
mạnh về mọi mặt.
Trên cơ sở tuân thủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nước, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải thể
hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Đối với các đảng bộ

cấp xã phải lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình; xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở ngày càng trong sạch vững mạnh. Đối với các đảng
bộ, chi bộ ngành Huyện thể hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với các đoàn thể của
từng cơ quan, đơn vị như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Phụ nữ, đảm bảo các
đoàn thể này hoạt động đạt chất lượng, hiệu quả, góp phần để các cơ quan
đơn vị này hoàn thành nhiệm vụ chính trị, xây dựng Đảng bộ, chi bộ TSVM.
Hai là, TCCSĐ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nơi hàng ngày giữ
vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi, thường xuyên coi trọng
củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, quan tâm chăm lo
quyền lợi của nhân dân; thể hiện sự gần gủi gắn bó với nhân dân. Do đó,
trong hoạt động hằng ngày, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi luôn
gần gũi với nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, vì mục tiêu chăm lo cho
lợi ích của nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng quê
hương, đất nước. Các TCCSĐ cũng là nơi hàng ngày trực tiếp nắm tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Đảng, cung cấp cơ sở thực tiễn để
Đảng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ trương, chính
sách. Mặt khác, nhân dân quan hệ với Đảng chủ yếu, trực tiếp thông qua các
TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Vì vậy, các TCCSĐ có vai trò
hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp giữ gìn, củng cố và tăng cường mối liên hệ
hữu cơ, mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Nếu các TCCSĐ TSVM, thực hiện
21

tốt chức năng, nhiệm vụ sẽ góp phần trực tiếp củng cố tăng cường, giữ vững
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân.
Ba là, TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là nơi quyết định chất
lượng, hiệu quả việc tổ chức, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; trực tiếp đưa quan điểm đường lối của

Đảng vào đời sống ở cơ sở.
TCCSĐ và cán bộ, đảng viên cơ sở là cầu nối giữa Đảng với nhân dân,
mọi chủ trương, chính sách của Đảng đến được với nhân dân như thế nào phụ
thuộc trực tiếp và quyết định bởi các TCCSĐ ở cơ sở. TCCSĐ là nơi trực tiếp
đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến với các tầng lớp nhân
dân; đồng thời vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh và nỗ lực phấn
đấu thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước. Mặt khác, TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp cụ thể hóa quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn thông qua các hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo trên tất cả các lĩnh vực, các mặt công tác của các tổ
chức, lực lượng ở địa phương; để làm được điều đó, các TCCSĐ thuộc Đảng
bộ Huyện Đầm Dơi phải nâng cao trí tuệ, năng lực về mọi mặt, nhất là năng
lực cụ thể hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng cấp trên thành chương
trình, kế hoạch thực hiện đảm bảo khả thi, sát với tình hình thực tế, đồng thời
phải có năng lực tổ chức thực hiện đưa các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; là nơi kiểm nghiệm tính
đúng đắn của đường lối, chính sách, nơi cung cấp cơ sở thực tiễn để Đảng tiếp
tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách cho phù
hợp với thực tiễn mọi mặt của đất nước.
Bốn là, TCCSĐ là nơi trực tiếp tiến hành và quyết định chất lượng,
hiệu quả công tác phát triển đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên ở cơ sở.
TCCSĐ nói chung, các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi nói
riêng là nơi trực tiếp làm công tác phát triển đảng, trực tiếp quản lý, rèn luyện,
giáo dục và phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên. Mọi sự tiến bộ trưởng
thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đều bắt nguồn trực tiếp từ sự
22

quản lý, giáo dục, rèn luyện của TCCSĐ. TCCSĐ là nơi trực tiếp nắm, quản
lý trình độ phẩm chất, năng lực, đạo đức của từng đảng viên và của toàn đội

ngũ, trực tiếp tiến hành giáo dục, rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực toàn diện cho đội ngũ đảng viên, bảo
đảm đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Số
lượng, chất lượng đội ngũ đảng viên và hiệu quả công tác phát triển đảng ở cơ
sở như thế nào phụ thuộc trước hết vào vai trò, trách nhiệm của các TCCSĐ;
đồng thời TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp sàng lọc đội ngũ đảng viên, kịp thời
phát hiện những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất, không đủ tư cách đảng
viên để đưa ra khỏi Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
* Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau
Quan niệm năng lực lãnh đạo:
Khái niệm năng lực là phạm trù khá phổ biến trong đời sống chính trị
xã hội, nên cho tới nay có nhiều cách tiếp cận xoay quanh khái niệm năng lực,
năng lực lãnh đạo:
Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Việt Nam – Bộ
Giáo dục và Đào tạo (1998), quan niệm: Năng lực là một trong những điều
kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì; là khả năng đủ để thực hiện tốt công
việc. Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể (lãnh đạo
23

cuộc đấu tranh); là cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng tổ
chức dẫn dắt phong trào.
Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng (1997) định nghĩa: Năng
lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó; là phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo cho con người hoàn thành
một hoạt động nào đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vận

động thực hiện đường lối đó.
Như vậy, có thể hiểu: năng lực lãnh đạo là tổng hợp khả năng của một
tập thể, hay cá nhân có thể huy động để đề ra phương hướng, mục tiêu hành
động, chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo và khả năng tổ chức, dẫn dắt
tập thể, hay toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng đề ra được mục tiêu cách
mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như từng thời kỳ và bằng những
phương thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có
hiệu quả mục tiêu cách mạng đã xác định. Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả
năng hiện thực bao gồm: năng lực đề ra chủ trương, đường lối; năng lực xây
dựng nghị quyết, chỉ thị; năng lực tổ chức thực hiện đường lối; năng lực kiểm
tra phát hiện và xử lý.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là biểu
hiện cụ thể của năng lực lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, là tổng hợp các khả
năng nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên, cụ thể hóa đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp
24

mình bảo đảm sát với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương; là khả năng tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết cấp trên và cấp mình.
Quan niệm sức chiến đấu:
Sức chiến đấu của TCCSĐ được thể hiện ở sự đoàn kết thống nhất ý
chí và hành động; ở chất lượng đội ngũ đảng viên trong đảng bộ; ở việc cụ thể
hoá các nghị quyết của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị; ở việc
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh và ở khả năng lãnh đạo quần
chúng thực hiện nghị quyết của Đảng.

Sức chiến đấu của Đảng ta được biểu hiện, cụ thể ở: Bản lĩnh chính trị,
sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và thách thức trong và ngoài
nước. Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực
hiện thắng lợi đường lối đổi mới. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử
cơ hội chủ nghĩa, những phần tử thoái hóa biến chất, tham nhũng ra khỏi
Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự tác động của những quan điểm, tư tưởng phản
động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ. Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội
bộ, ý thức tập thể trong lãnh đạo và sinh hoạt đảng. Phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai trò tiên phong, gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lối sống, phương pháp công tác, phong cách
lãnh đạo của cán bộ, đảng viên.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm:
Sức chiến đấu của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là sức
mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống nhất về ý chí và
hành động, là khả năng tự bảo vệ nội bộ và khả năng đấu tranh chống lại mọi
tác động làm suy yếu TCCSĐ, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ sở.
* Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi
25

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạo
và sức mạnh của Đảng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng không giữ
được vai trò lãnh đạo cách mạng và Đảng không thể tồn tại được. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, hai yếu tố
này thâm nhập vào nhau, tác động thúc đẩy nhau, làm tiền đề để tồn tại và
phát triển của nhau. Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạng
của Đảng. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì

sức chiến đấu của Đảng càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiến
đấu càng được củng cố, nâng cao thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được
nâng lên.
Theo hướng tiếp cận đó có thể quan niệm:
NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là tổng hợp
khả năng, sức mạnh của tập thể cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ cán
bộ, đảng viên có thể huy động để nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối
của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; bám nắm tình
hình địa phương, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng
đắn sát thực tế; là khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị, của nhân dân ở địa phương, cơ sở
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương, đồng
thời đấu tranh có hiệu quả chống tư tưởng cơ hội, tiêu cực
trong nội bộ và các quan điểm của các thế lực thù địch,
chống cộng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và giữ vững niềm tin của
nhân dân.
* Biểu hiện của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi
Năng lực nghiên cứu, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên và năng lực nắm bắt tình hình mọi mặt của địa
phương đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn ở cấp mình. Việc
nghiên cứu, nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
26

52 đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảngbộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau hiện nay2. 2. Những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến52đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện ĐầmDơi tỉnh Cà Mau hiện nayKẾT LUẬNDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢOPHỤ LỤC598688MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiNâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu là quy luật tất yếu trong quátrình sống sót, trưởng thành, tăng trưởng của Đảng ta, là một nội dung trọng tâm, then chốt trong công tác làm việc thiết kế xây dựng Đảng lúc bấy giờ. Bước sang thời kỳ đổi mớitoàn diện quốc gia, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước, Đảng ta luôn đồng nhất chủ trương lấy “ Phát triển kinh tế tài chính là nhiệm vụtrọng tâm, kiến thiết xây dựng Đảng là trách nhiệm then chốt ”. Bởi vậy, yếu tố nâng caoNLLĐ, SCĐ của Đảng, bảo vệ cho toàn Đảng và từng tổ chức cơ sở đảngthực sự trong sáng, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đápứng nhu yếu trách nhiệm thời kỳ mới càng trở nên có ý nghĩa quan trọng hàngđầu trong công cuộc thay đổi, chỉnh đốn Đảng lúc bấy giờ. Ý thức thâm thúy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tổ chức cơ sởđảng trong mạng lưới hệ thống tổ chức của Đảng. Thời gian qua, Đảng bộ huyện ĐầmDơi tỉnh Cà Mau luôn đặc biệt quan trọng chăm sóc thiết kế xây dựng và chỉnh đốn Đảng, khôngngừng nâng cao NLLĐ, SCĐ của những tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, đã tạo đượcchuyển biến tích cực, những tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ được xâydựng có số lượng, cơ cấu tổ chức, tổ chức hài hòa và hợp lý, chất lượng ngày càng cao, năng lựclãnh đạo, sức chiến đấu của những tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên, cơ bản cung ứng nhu yếu trách nhiệm, phát huy tốt vai trò tập hợp và lãnh đạoquần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân góp thêm phần thực hiệnthắng lợi trách nhiệm kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống – xã hội, quốc phòng, an ninhcủa địa phương. Tuy nhiên, trước sự tăng trưởng của nhu yếu trách nhiệm cách mạng, mụctiêu, mục tiêu, phương hướng thay đổi, chỉnh đốn Đảng, nhất là yêu cầuđổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng trong điều kiện kèm theo Đảng cầm quyền, đang còn nhiều yếu tố đặt ra cho công tác làm việc thiết kế xây dựng Đảng nói chung, xâydựng những tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải nghiên cứugiải quyết, cả trên phương diện nhận thức luận cũng như phương diện chỉ huy, tổ chức thực tiễn. Mặt khác, trước thủ đoạn thủ đoạn chống phá bằng “ diễnbiến độc lập ” của những thế lực thù địch đang nhằm mục đích vào cơ sở, nhất là thủ đoạn, thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo, kích động “ tự diễn biến ”, “ tự chuyển hóa ” trongnội bộ Đảng, trước hết là ở những tổ chức cơ sở đảng. Bởi vậy, trên thực tiễn vẫncòn một bộ phận những tổ chức cơ sở đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucòn hạn chế, chưa phân phối ngang tầm với nhu yếu trách nhiệm cách mạng. Hiệulực, hiệu suất cao lãnh đạo trong thiết kế xây dựng Đảng và thực thi những trách nhiệm kinhtế, chính trị, văn hóa truyền thống – xã hội, quốc phòng, bảo mật an ninh, ở địa phương còn thấp. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nói không song song với làm vẫn còn xảy ra ; tựphê bình và phê bình chưa được duy trì tiếp tục ; nguyên tắc tập trungdân chủ chưa được thực thi tráng lệ ; một số ít tổ chức cơ sở đảng tuy đạttrong sạch vững mạnh nhưng chất lượng lãnh đạo còn yếu ; một bộ phận cánbộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, viphạm nguyên tắc Đảng, pháp lý Nhà nước bị giải quyết và xử lý kỷ luật tỷ suất khá cao. Vì vậy, việc nghiên cứu và điều tra làm sáng tỏ những yếu tố lý luận, thực tiễn vàđề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi để nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổchức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi thực sự là yếu tố vừa cơbản, vừa cấp thiết đặt ra cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với những nguyên do trên, tác giả chọn đề tài “ Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh CàMau lúc bấy giờ ” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành kiến thiết xây dựng Đảng và Chínhquyền Nhà nước. 2. Tình hình nghiên cứu và điều tra có tương quan đến đề tàiXây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, không ngừng nâng cao NLLĐ, SCĐ của những tổ chức cơ sở đảng là yếu tố lớn và có ý nghĩa rất là quantrọng trong công cuộc thiết kế xây dựng, thay đổi, chỉnh đốn Đảng, thế cho nên nó thu hútsự chăm sóc nghiên cứu và điều tra của những nhà khoa học, những cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, những nhà hoạt động giải trí chính trị xã hội. Hiện nay, đã có khá nhiều cáccông trình đề tài, luận văn, luận án, điều tra và nghiên cứu về yếu tố này đã được nghiệmthu, công bố. Tiêu biểu như : Đề tài luận án tiến sỹ ” Chất lượng những đảng bộ vùng trung du Bắc Bộhiện nay “, của tác giả Dương Trung Ý ( 2008 ). Tác giả tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận tình hình và nguyên do chất lượng những đảng bộ vùng trung duBắc Bộ, yêu cầu những giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mớiphương thức lãnh đạo và xác lập đúng trách nhiệm chính trị của những đảng bộvùng trung du Bắc Bộ. Đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử vẻ vang chuyên ngành thiết kế xây dựng Đảng “ Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong những trường sĩ quan quân độiđáp ứng nhu yếu bậc đào tạo và giảng dạy ĐH ” của tác giả Nguyễn Trọng Hân ( 2000 ). Tác giả đã tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích tình hình về chất lượng của những tổ chức cơ sởđảng trong những trường sĩ quan quân đội, từ đó đưa ra những giải pháp nâng caochất lượng tổ chức cơ sở đảng để cung ứng nhu yếu huấn luyện và đào tạo bậc ĐH. Đề tài luận văn thạc sĩ ngành kiến thiết xây dựng Đảng “ Nâng cao chất lượngsinh hoạt những chi bộ khối nghiên cứu và điều tra, giảng dạy ở học viện chuyên nghành Chính trị quốc giaHồ Chí Minh ” của tác giả Cao Duy Tiến ( 2001 ). Đề tài đã tập trung chuyên sâu phân tíchthực trạng chất lượng hoạt động và sinh hoạt chi bộ, từ đó yêu cầu mạng lưới hệ thống giải pháp nângcao chất lượng hoạt động và sinh hoạt chi bộ của khối nghiên cứu và điều tra giảng dạy ở Học việnChính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài luận văn thạc sĩ “ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổchức cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh NamĐịnh trong tiến trình lúc bấy giờ – Thực trạng và giải pháp ” của tác giả BùiHữu Dược ( 2003 ). Đề tài đã tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích tình hình, nguyên do, rútra bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề, thiết kế xây dựng tiêu chuẩn nhìn nhận và đề xuất kiến nghị mạng lưới hệ thống giảipháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của những tổ chức cơ sở đảngnông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Tỉnh Nam Định. Đề tài luận văn thạc sĩ “ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cácchi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ – Thực trạngvà giải pháp ” của tác giả Huỳnh Ngọc Thành ( 2005 ). Tác giả đã tập trungphân tích tình hình, nguyên do và đề xuất kiến nghị mạng lưới hệ thống giải pháp nâng caonăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của những chi bộ ấp ở Huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài luận văn thạc sĩ : “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucủa những tổ chức cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh lúc bấy giờ ” của tác giảPhùng Đức Thái ( 2000 ). Đề tài đã tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích tình hình, nguyênnhân, rút ra bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề, kiến thiết xây dựng bộ tiêu chuẩn nhìn nhận và yêu cầu hệthống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của những tổ chứccơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh. Đề tài luận văn thạc sĩ “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucủa những tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An lúc bấy giờ ” của tác giảNguyễn Văn Dũng ( 2000 ). Tác giả đã tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích tình hình, nguyênnhân và đề xuất kiến nghị mạng lưới hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiếnđấu của những tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An. Đề tài luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Đức Ái ( 2001 ) “ Nâng caonăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùngcao phía Bắc trong thời kỳ tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước ”. Tác giả đã tập trung chuyên sâu làm rõ những cơ sở lý luận và tình hình năng lựclãnh đạo và sức chiến đấu ; đề xuất kiến nghị mạng lưới hệ thống giải pháp cơ bản nâng cao nănglực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn vùng caophía Bắc. Đề tài luận văn thạc sĩ “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiếnđấu của những chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủngPhòng không – Không quân trong quy trình tiến độ lúc bấy giờ ” của tác giả NguyễnHọc ( 2001 ). Tác giả đã tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích tình hình, nguyên do và đềxuất mạng lưới hệ thống giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu củacác chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng Phòng không – Không quân. Đề tài luận văn thạc sĩ “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucủa những đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong tiến trình hiệnnay ” của tác giả Dương Trung Ý ( 2002 ). Tác giả tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích, đánh giáthực trạng và nguyên do, đề xuất kiến nghị những giải pháp cơ bản nhằm mục đích nâng caonăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của những đảng bộ xã ở Huyện Yên Thế, tỉnhBắc Giang. Ngoài ra, còn có những bài viết được đăng tải trên những sách báo, tạp chínhư : “ Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng Bộđội biên phòng ” của tác giả Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp chí Cộng sản số1 / 1999. Tác giả đã trình diễn những yếu tố cơ bản về năng lực lãnh đạo và sứcchiến đấu, tình hình những tổ chức cơ sở đảng Bộ đội biên phòng, trên cơ sở đóđề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chứccơ sở đảng Bộ đội biên phòng. “ Tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của những tổ chức cơsở đảng – Một trách nhiệm quan trọng của cuộc hoạt động thiết kế xây dựng chỉnh đốnĐảng – tổ chức cơ sở đảng ” của tác giả Vũ Ngọc Lâm đăng trên Tạp chí Cộngsản số 15/1999. Tác giả đã trình diễn quan điểm chỉ huy của Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII ), nghiên cứu và phân tích tình hình và yêu cầu những giải pháp tăng cườngsức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của những tổ chức cơ sở đảng, nhằm mục đích gópphần triển khai thắng lợi Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII ). “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn với bảovệ bảo mật an ninh chính trị trong thời kỳ mới ” của tác giả Nguyễn Đình Ban, đăngtrên Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001, số 9. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích tình hình, tác giảđã yêu cầu những giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu củaĐảng gắn với bảo vệ bảo mật an ninh chính trị trong thời kỳ mới. “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảnggắn với kiến thiết xây dựng, củng cố mạng lưới hệ thống chính trị cơ sở ” của tác giả Trần ĐìnhHoan, đăng trên Tạp chí thiết kế xây dựng Đảng, số 6, 2004. Tác giả đã luận giải vaitrò của tổ chức cơ sở đảng trong mạng lưới hệ thống chính trị ở cơ sở, nêu lên thực trạngnhững ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của những tổchức cơ sở đảng, đề xuất kiến nghị những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sứcchiến đấu của tổ chức cơ sở đảng gắn với kiến thiết xây dựng, củng cố mạng lưới hệ thống chínhtrị cơ sở. “ Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và chất lượngđội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện Chính trị quân sự chiến lược ” của Tiến sĩ NguyễnTiến Quốc, đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10, 2008. Tác giả đãtrình bày những nội dung và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấucủa tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học việnChính trị quân sự chiến lược. “ Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân độitrong tình hình mới ” của Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư TW Đảng, Chủnhiệm Tổng cục chính trị ( Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 2, 2009 ). Tác giảđã đề xuất kiến nghị một số ít nội dung trọng tâm : liên tục không cho, tiến hành thực hiệnnghiêm túc, có hiệu suất cao những chủ trương, giải pháp của Hội nghị TW 9 ( khoáX ) ; liên tục thay đổi tổng lực công tác làm việc cán bộ ; tăng cường sự lãnh đạo, chỉđạo của những cấp ủy so với công tác làm việc kiểm tra, giám sát, công tác làm việc giáo dục, quản trị, rèn luyện cán bộ, đảng viên. “ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơsở đảng ” của tác giả Vũ Văn Phúc ( 2011 ), đăng trên Tạp chí Cộng sản ( chuyên đề cơ sở số 55 ). Từ cơ sở lý luận cũng như nghiên cứu và phân tích tình hình củanăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tác giả đã đề xuấtcác giải pháp liên tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chứccơ sở đảng. 3. Mục đích, trách nhiệm điều tra và nghiên cứu * Mục đích nghiên cứuLàm sáng tỏ 1 số ít yếu tố cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuấtnhững giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sởđảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ. * Nhiệm vụ nghiên cứuLàm sáng tỏ một số ít yếu tố cơ bản về nâng cao năng lực lãnh đạo, sứcchiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau ; Đánh giá đúng tình hình, chỉ rõ nguyên do và rút ra một số ít kinhnghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảngthuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau. Xác định nhu yếu, đề xuất kiến nghị những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh CàMau lúc bấy giờ. 4. Đối tượng, khoanh vùng phạm vi nghiên cứu và điều tra * Đối tượng nghiên cứuNâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộcĐảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ. * Phạm vi nghiên cứuLuận văn tập trung điều tra và nghiên cứu hoạt động giải trí nâng cao năng lực lãnh đạo, sứcchiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mauhiện nay. Các tư liệu, số liệu tìm hiểu, khảo sát tập trung chuyên sâu trên địa phận những xã, thịtrấn ở Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà Mau ; thời hạn từ năm 2010 đến năm 2015.5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp điều tra và nghiên cứu * Cơ sở lý luậnLuận văn được điều tra và nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và thiết kế xây dựng Đảng ; những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiến thiết xây dựng và chỉnh đốn Đảng ; về thiết kế xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơsở đảng. * Cơ sở thực tiễnTừ thực tiễn công tác làm việc thiết kế xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau ; cácbáo cáo tổng kết, báo cáo giải trình chuyên đề của những cấp ủy, cơ quan chức năng ; cáctư liệu, số liệu tìm hiểu, khảo sát thực tiễn về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấuvà hoạt động giải trí nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sởđảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau ; đồng thời, tìm hiểu thêm kếtquả điều tra và nghiên cứu của những khu công trình đề tài có tương quan đã nghiệm thu sát hoạch, công bố. * Phương pháp nghiên cứuTrên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, luận văn sửdụng tổng hợp những giải pháp điều tra và nghiên cứu của khoa học chuyên ngành vàliên ngành ; trong đó đặc biệt quan trọng coi trọng những chiêu thức : nghiên cứu và phân tích – tổng hợp ; logic – lịch sử vẻ vang ; tìm hiểu xã hội học ; thống kê ; so sánh ; tổng kết thực tiễn vàphương pháp chuyên viên. 6. Ý nghĩa của đề tàiKết quả nghiên cứu và điều tra của luận văn góp thêm phần phân phối thêm cơ sở lý luận, thực tiễn giúp cho những cấp ủy, tổ chức đảng vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạonâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảngbộ Huyện Đầm Dơi nói riêng và Tỉnh Cà Mau nói chung. Đề tài hoàn toàn có thể sử dụng làm tài liệu tìm hiểu thêm trong nghiên cứu và điều tra, giảngdạy, học tập môn kiến thiết xây dựng Đảng ở Trường chính trị Tỉnh Cà Mau, những Trungtâm tu dưỡng chính trị trong tỉnh, làm tài liệu tu dưỡng cho những cấp ủy cơsở và đảng viên. 7. Kết cấu của đề tàiLuận văn gồm phần mở màn, 2 chương ( 4 tiết ), Kết luận, hạng mục tài10liệu tìm hiểu thêm và phụ lục. Chương 1NH ỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄNNÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔCHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐẦM DƠITỈNH CÀ MAU1. 1. Tổ chức cơ sở đảng và những yếu tố cơ bản về nâng cao nănglực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyệnĐầm Dơi tỉnh Cà Mau1. 1.1. Huyện Đầm Dơi và tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ HuyệnĐầm Dơi * Khái quát Huyện Đầm Dơi Tỉnh Cà MauĐầm Dơi là Huyện thuộc vùng kinh tế tài chính ven biển của Tỉnh Cà Mau, cáchtrung tâm tỉnh lỵ Cà Mau 30 km về hướng Đông Nam ; diện tích quy hoạnh tự nhiên gần83. 000 ha, địa giới hành chính được phân loại thành 15 xã, 1 thị xã, với 139 ấp – khóm ; có 41.032 hộ, với 183.200 khẩu ; Huyện có chiều dài bờ biển trên25 km, mạng lưới hệ thống sông ngòi chằng chịt, có 4 cửa sông lớn thông ra biển : GànhHào, Giá Cao, Giá Lồng Đèn, Hố Gùi … ; nhân dân sống đa phần là nuôi trồng, khai thác thủy hải sản và thương mại, dịch vụ. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Đầm Dơi là căn cứ địa cách mạng, nơi nuôi chứa, che chở Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương cục miền Nam …, nơi cung ứng sức người, sức của cho khángchiến ; cũng là nơi diễn ra những trận chiến đấu ác liệt với quân địch ; nhân dân nơiđây có truyền thống cuội nguồn yêu nước, kiên cường bám đất, bám làng, quả cảm chiếnđấu dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng đến ngày toàn thắng. Với những thànhtích đó, Đảng bộ và nhân dân Huyện Đầm Dơi vinh dự được quản trị nướcphong khuyến mãi ngay thương hiệu “ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ”. Trong côngcuộc kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lúc bấy giờ, Đảng bộ và nhân dân Đầm Dơitiếp tục phát huy truyền thống lịch sử quê nhà anh hùng, tập trung chuyên sâu thiết kế xây dựng quê11hương ngày càng giàu đẹp, góp thêm phần xứng danh vào tiến trình phát triểnchung của quốc gia. Về kinh tế tài chính : Thế mạnh kinh tế tài chính của Huyện là nuôi trồng và khai thác thủysản, với diện tích quy hoạnh sản xuất trên 62.000 ha, trong đó có 3.200 ha diện tích quy hoạnh nuôitôm công nghiệp và trên 30.000 ha diện tích quy hoạnh nuôi tôm quảng canh cải tiến, sảnlượng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản trung bình hằng năm trên 100.000 tấn ; diện tích quy hoạnh đất rừng 7.219 ha. Cơ cấu kinh tế tài chính của Huyện : ngư, nông, lâmnghiệp 54,7 % ; công nghiệp, thiết kế xây dựng 21,5 % ; thương mại, dịch vụ 23,8 %. GDP tăng trưởng trung bình hằng năm trên 10 %, thu nhập trung bình đầungười năm năm ngoái trên 32 triệu đồng. Về chính trị : Hệ thống chính trị của Huyện gồm những cơ quan cấp huyện : Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, những cơ quan chuyên môn thuộc Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện, HộiNông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Liênđoàn Lao động và những tổ chức xã hội khác. Ở 15 xã và 01 thị xã của Huyệncó những tổ chức tương ứng với cấp Huyện nhưng dưới một cấp hành chính. Về văn hóa truyền thống, xã hội : Huyện có Đền thờ Bác Hồ, Khu di tích lịch sử chiến thắngĐầm Dơi – Cái Nước – Chà Là, tượng đài anh hùng lực lượng vũ trang nhândân Dương Thị Cẩm Vân, Trung tâm văn hoá, thể thao Huyện. Có 2/15 xã cóTrung tâm văn hoá, thể thao ; những ấp – khóm đều có trụ sở hoạt động và sinh hoạt văn hoá. Hiện nay, toàn Huyện có 64,98 % hộ mái ấm gia đình, 35,25 % ấp, khóm và 02 xã đạtchuẩn văn hoá nông thôn mới ; có 4 trường Trung học đại trà phổ thông, trên 30 trường Trung học cơ sở cùng mạng lưới hệ thống trường tiểu học và trường mẫu giáobảo đảm nhu yếu học tập của học viên ; đến cuối năm năm ngoái có 29/75 trườngđạt chuẩn vương quốc. Huyện có 01 Bệnh viện Đa khoa với 150 giường bệnh, 01 phòng khám đa khoa khu vực và 15 trạm y tế xã, thị xã. Đội ngũ cán bộ, thầy thuốc Huyện có trình độ trình độ nhiệm vụ vững vàng và có y đứcphục vụ nhân dân. Huyện có trên 4.000 đối tượng người tiêu dùng chủ trương, trong đó có gần121. 000 liệt sỹ, 266 Mẹ Nước Ta anh hùng ; đến cuối năm năm ngoái, Huyện còn2. 237 hộ nghèo, chiếm 5,13 % ; 1.193 hộ cận nghèo, chiếm 2,74 %. Về quốc phòng, bảo mật an ninh : Những năm qua, tình hình bảo mật an ninh chính trị – trật tự bảo đảm an toàn xã hội củaHuyện luôn được giữ vững. Phong trào toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh Tổ quốc vàgiữ gìn trật tự xã hội, trào lưu “ Toàn dân đoàn kết kiến thiết xây dựng đời sống vănhóa ”, thiết kế xây dựng quy mô tự quản về bảo mật an ninh trật tự ở những nơi công cộngluôn được duy trì triển khai tốt. * Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà MauTheo lịch sử vẻ vang truyền thống cuội nguồn của Đảng bộ Huyện, chi bộ tiên phong đượcthành lập năm 1945, đến nay Đảng bộ Huyện đã trải qua 14 kỳ đại hội. Đảngbộ có 67 tổ chức cơ sở đảng ( gồm những mô hình : 15 đảng uỷ xã ; 01 đảng uỷthị trấn ; 03 đảng uỷ và 30 chi bộ cơ quan ; 04 chi bộ doanh nghiệp ; 12 chi bộsự nghiệp ; 02 đảng uỷ lực lượng vũ trang ), 288 chi bộ thường trực đảng ủy cơsở, với 4.837 đảng viên. * Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà MauĐiều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII lao lý rõ : ” Tổ chức cơ sở đảng ( chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở ) là nền tảng củaĐảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị xã có từ ba đảng viênchính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng ( thường trực cấp ủy cấp Huyện ). Ởcơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị chức năng sự nghiệp, đơn vị chức năng quân đội, côngan và những đơn vị chức năng khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng ( tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ thường trực đảng ủy cơ sở ) ; cấp ủy cấp trêntrực tiếp xem xét, quyết định hành động việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trênnào cho tương thích ; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trêntrực tiếp trình làng đảng viên hoạt động và sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp “. Quy định trên chỉ rõ, tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho cả chi bộcơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và nhu yếu nhiệm vụcụ thể của từng cơ sở. Theo đó, hình thức tổ chức cơ sở đảng cũng được phân13ra nhiều loại khác nhau, nhưng có 3 hình thức cơ bản sau : Cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên xây dựng chibộ cơ sở, dưới chi bộ hoàn toàn có thể lập những tổ đảng. Cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên xây dựng đảng bộ cơ sở và có những chibộ thường trực đảng ủy cơ sở. Đảng bộ có số lượng đảng viên đông, hoàn toàn có thể xây dựng đảng bộ, bộ phậntrực thuộc đảng ủy cơ sở, dưới đảng bộ, bộ phận có những chi bộ thường trực. Theo đó, mỗi TCCSĐ được xác lập là một tế bào cấu thành cơ thểsống của Đảng, là yếu tố bảo vệ cho sự tăng trưởng bền vững và kiên cố của toàn Đảng ; là hạt nhân chính trị ở cơ sở ; trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảngvào quần chúng và tổ chức thực thi đường lối ấy. TCCSĐ cũng là nơithường xuyên sâu xa, gắn bó mật thiết với quần chúng, trực tiếp nắm, giảiquyết tâm tư nguyện vọng, nguyện vọng chính đáng của quần chúng ; nơi hàng ngày đảngviên hoạt động và sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục, rèn luyện đảngviên, nơi sàng lọc đảng viên và trình làng quần chúng xuất sắc ưu tú cho Đảng. Theo hướng tiếp cận trên hoàn toàn có thể ý niệm : “ Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là một bộ phận tổchức cơ sở của Đảng, gồm có những chi bộ, đảng bộ cơ sở được xây dựng ởđơn vị hành chính cấp xã, thị xã, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vịsự nghiệp … theo pháp luật của Điều lệ Đảng, thường trực Đảng bộ Huyện, lànền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở ; nơi trực tiếp đưa đường lốicủa Đảng vào đời sống, nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chủtrương, chủ trương của Đảng và phân phối cơ sở thực tiễn để bổ trợ, pháttriển, hoàn thành xong đường lối ; nơi trực tiếp phân công trách nhiệm, quản trị, giáodục, rèn luyện, tăng trưởng và sàng lọc đội ngũ đảng viên, trực tiếp góp phầnnâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở. ” * Chức năng, trách nhiệm của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyệnĐầm Dơi tỉnh Cà MauXác định tính năng, trách nhiệm của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ14Huyện Đầm Dơi phải dựa vào Điều lệ Đảng, trực tiếp là Quy định số 95Q Đ / TW, ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về công dụng, trách nhiệm của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã để cụ thể hóa. Chức năng của TCCSĐ : Điều 23 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII xác lập : Tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm : Chấp hành đường lối, chủ trương củaĐảng, pháp lý của Nhà nước ; đề ra chủ trương, trách nhiệm chính trị của đảngbộ, chi bộ và lãnh đạo triển khai có hiệu suất cao. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trongsạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ; thực thi đúng nguyên tắctập trung dân chủ ; nâng cao chất lượng hoạt động và sinh hoạt đảng, thực thi tự phê bìnhvà phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng ; tiếp tục giáo dục, rèn luyện và quản trị cán bộ, đảng viên, nâng caophẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức và kỹ năng, năng lựccông tác ; làm công tác làm việc tăng trưởng đảng viên. Lãnh đạo kiến thiết xây dựng chínhquyền, những tổ chức kinh tế tài chính, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, bảo mật an ninh vàcác đoàn thể chính trị – xã hội trong sáng, vững mạnh ; chấp hành đúngpháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Liên hệ mật thiết vớinhân dân, chăm sóc đời sống vật chất, ý thức và bảo vệ quyền lợi chính đángcủa nhân dân ; lãnh đạo nhân dân tham gia thiết kế xây dựng và triển khai đườnglối, chủ trương của Đảng và pháp lý của Nhà nước. Kiểm tra, giám sátviệc thực thi, bảo vệ những nghị quyết, thông tư của Đảng và pháp lý củaNhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh ; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng vàđảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Theo đó, hoàn toàn có thể hiểu những tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ HuyệnĐầm Dơi là tế bào nền tảng của Đảng, nơi hàng ngày giữ mối liên hệ mật thiếtgiữa Đảng với quần chúng ở cơ sở, có công dụng hầu hết là lãnh đạo công tácquần chúng của Đảng ở cơ sở ; tuyên truyền, hoạt động quần chúng nhân dânthực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương, pháp luậtcủa Nhà nước và nghị quyết của Đảng bộ Huyện ; chăm sóc chăm sóc đời sốngvật chất, niềm tin của nhân dân ; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm đối15với Nhà nước ; thiết kế xây dựng nông thôn mới ( làng, xã văn minh, sạch sẽ và đẹp mắt, trật tự an toàn … ). Thông qua công tác làm việc hoạt động quần chúng và trực tiếp lãnh đạo quầnchúng triển khai mọi chủ trương, đường lối của Đảng, TCCSĐ giữ vai tròquan trọng trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối, nghị quyết của Đảng, đồng thời phản ánh với Đảng những quan điểm xác đángđể sửa đổi, bổ trợ, hoàn hảo đường lối. Chi, đảng bộ cơ sở cũng là nơiđảng viên hàng ngày hoạt động và sinh hoạt, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân, là nơitrực tiếp giáo dục, rèn luyện, sàng lọc và trình làng những quần chúng ưu túcho Đảng. Nhiệm vụ của TCCSĐ : Một là, lãnh đạo chăm sóc đời sống nhân dân, giữ gìn bảo mật an ninh trật tựkhu vực và thực thi tốt quy định dân chủ cơ sở. Tuyên truyền, hoạt động, lãnh đạo mọi những tầng lớp nhân dân tập trung chuyên sâu pháttriển sản xuất, nhân rộng những quy mô làm ăn có hiệu suất cao, tận dụng vườn, bờ bao, vuông tôm trồng rau màu, cây ăn trái theo mục tiêu đa cây, đacon để tăng trưởng kinh tế tài chính vững chắc. Đồng thời lãnh đạo triển khai tốt cácnhiệm vụ chính trị khác ở địa phương như thiết kế xây dựng kiến trúc, xây dựngnông thôn mới, chủ trương phúc lợi xã hội, xoá đói giảm nghèo, công tác làm việc y tế, giáo dục, quốc phòng, bảo mật an ninh, thực thi quy định dân chủ cơ sở … góp phầnthực hiện hoàn thành xong trách nhiệm chính trị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thầncho nhân dân. Hai là, làm công tác làm việc chính trị tư tưởng. Trực tiếp hoạt động, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin, tưtưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương pháp luậtcủa Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và những những tầng lớp nhân dân. Trong giaiđoạn lúc bấy giờ, công tác làm việc giáo dục tư tưởng chính trị là trách nhiệm đặc biệt quan trọng quantrọng so với những cấp ủy đảng, là trách nhiệm số 1, là mặt trận chiến đấucủa Đảng trên nghành tư tưởng. Để thực thi tốt trách nhiệm này, những TCCSĐphải coi trọng và thực thi tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức16Hồ Chí Minh gắn với thực thi Nghị quyết Đại hội XII và Nghị quyết Trungương 4 khoá XI về kiến thiết xây dựng Đảng, để kiến thiết xây dựng TCCSĐ ngày càng TSVM.Ba là, xác lập đúng trách nhiệm chính trị, kịp thời kiến thiết xây dựng và tổ chứcthực hiện thắng lợi nghị quyết. Để lãnh đạo và triển khai thắng lợi trách nhiệm chính trị của cơ quan, đơnvị trong từng quy trình tiến độ, nhu yếu đặt ra với những TCCSĐ thuộc Đảng bộ HuyệnĐầm Dơi là phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương pháp lý Nhà nước, đồng thời nắm chặt tình hình mọi mặt của địaphương. Trên cơ sở đó, thiết kế xây dựng chủ trương, nghị quyết sát với tình hình, năng động, phát minh sáng tạo tổ chức thực thi triển khai xong tốt mọi trách nhiệm đề ra, xâydựng TCCSĐ vững mạnh về mọi mặt. Bốn là, làm công tác làm việc tổ chức, đảng viên và kiến thiết xây dựng Đảng. Thường xuyên lãnh đạo ngặt nghèo và triển khai có hiệu suất cao công tác làm việc tổchức kiến thiết xây dựng Đảng, kiến thiết xây dựng đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở những nguyêntắc tổ chức, hoạt động và sinh hoạt của Đảng, cụ thể hóa và duy trì trang nghiêm trong tổchức, hoạt động và sinh hoạt, hoạt động giải trí lãnh đạo của đảng ủy, chi bộ ; nhất là nền nếpchế độ hoạt động và sinh hoạt Đảng, bảo vệ cho mọi hoạt động và sinh hoạt của Đảng được thựchiện trang nghiêm, vừa đủ, có hiệu lực hiện hành, hiệu suất cao. Thường xuyên làm tốt côngtác quản trị, rèn luyện, phân công công tác làm việc cho đảng viên ; lãnh đạo pháthuy vai trò của MTTQ và những tổ chức đoàn thể tham gia thiết kế xây dựng Đảng, tu dưỡng, rèn luyện, lựa chọn những quần chúng xuất sắc ưu tú trình làng choĐảng. Thực hiện nghiêm nguyên tắc, phương hướng, tiềm năng công táckiểm tra, giám sát của Đảng. Năm là, lãnh đạo những tổ chức quần chúng. Lãnh đạo tăng cường công tác làm việc kiến thiết xây dựng Đảng, kiến thiết xây dựng hệ thốngchính trị TSVM, phát huy vai trò của MTTQ, Hội Cựu chiến binh, ĐoànThanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân … trong tập hợp, vận độngđoàn viên, hội viên thực thi thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, nghịquyết của cấp ủy những cấp và nghị quyết của đảng ủy, chi bộ trong phát triểnkinh tế, văn hóa truyền thống, xã hội, quốc phòng, bảo mật an ninh. Đồng thời, phát huy có hiệu17quả hoạt động giải trí của những tổ chức, lực lượng này trong tham gia thiết kế xây dựng đảngbộ, chi bộ TSVM, góp thêm phần nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ. * Đặc điểm hoạt động giải trí của tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ huyệnĐầm Dơi tỉnh Cà MauMột là, TCCSĐ ở Huyện Đầm Dơi có số lượng khá nhiều so với cáchuyện khác trong tỉnh, cơ bản được tổ chức theo đơn vị chức năng hành chính cấp xã vàtương đương, kiến thiết xây dựng và hoạt động giải trí trong địa hình, địa phận rộng, chia cắtbởi mạng lưới hệ thống kênh rạch. Đầm Dơi là một Huyện có nhiều đơn vị chức năng hành chính so với những huyệnkhác trong Tỉnh Cà Mau. Nếu như những huyện Phú Tân, Cái Nước thuộc TỉnhCà Mau có khoảng chừng 6 đơn vị chức năng hành chính cấp xã thì Huyện Đầm Dơi có tới 16 đơn vị chức năng hành chính cấp xã. Các TCCSĐ và số lượng đảng viên của HuyệnĐầm Dơi cũng lớn hơn những đơn vị chức năng huyện bạn trong tỉnh ( 67 TCCSĐ ). ĐầmDơi là Huyện có địa phận rộng ( diện tích quy hoạnh trên 80.000 ha ), sông ngòi chằng chịt, kiến trúc kinh tế tài chính xã hội thấp, đi lại hầu hết bằng phương tiện đi lại thủy, lạichịu chính sách bán nhật triều của biển Đông nên đi lại nhờ vào vào mực nướcthủy triều, khi thủy triều xuống, một số ít kinh trục bị khô cạn, đi lại rất khókhăn. Do đó, để thiết kế xây dựng và quản trị ngặt nghèo những TCSCĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên yên cầu Huyện ủy phải có phương pháp, giải pháp tương thích với điềukiện đặc trưng của Huyện. Quy chế thao tác của Ban Chấp hành Đảng bộHuyện pháp luật mỗi tháng những chiến sỹ thành viên Ban Thường vụ Huyệnủy, thành viên Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện tối thiểu dành thời hạn đi cơ sở2 ngày để giúp những TCCSĐ khắc phục khó khăn vất vả, thực thi hoàn thành xong nhiệmvụ chính trị là một giải pháp hữu hiệu nhằm mục đích quản trị TCCSĐ thuộc Đảng bộHuyện Đầm Dơi ngặt nghèo hơn. Hai là, đội ngũ đảng viên của những TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện ĐầmDơi có tỷ suất tuổi đời cao khá đông và một phần là những người sinh ra vàtrưởng thành trong đấu tranh cách mạng, trực tiếp tham gia hoạt động giải trí chốngMỹ cứu nước. Theo số liệu thống kê thực tiễn có trên 20 % đảng viên những TCCSĐ ở18Huyện Đầm Dơi trên 41 tuổi và có một phần là những người đã từng tham giahọat động kháng chiến chống Mỹ, được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng, trong những thực trạng khó khăn vất vả, ác liệt của cuộc chiến tranh và trong thực tiễncông tác nhiều năm, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin cậy tuyệt đốivào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiềm năng con đường xã hội chủ nghĩa, thườngxuyên thân mật và gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân an toàn và đáng tin cậy, là chỗdựa nòng cốt cho hoạt động giải trí lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Do đó, độingũ này thường nắm chắc được những bức xúc, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thờiphản ánh và đề xuất kiến nghị với những cơ quan lãnh đạo đảng, chính quyền sở tại để có chủtrương, giải pháp xử lý thỏa đáng, góp thêm phần tạo nên sự đồng thuận trongxã hội và sự nhất trí cao trong những những tầng lớp nhân dân so với quan điểm, chủtrương, đường lối của Đảng, chủ trương, pháp lý của Nhà nước. Đồng thời, họ cũng là lực lượng nòng cốt cho mọi hoạt động giải trí thiết kế xây dựng và lãnh đạo, chỉđạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Đại bộ phận họ đều có có tận tâm, luôn trăntrở, mong ước kiến thiết xây dựng tổ chức đảng TSVM và không ngừng nâng caonăng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ. Ba là, chất lượng những TCCSĐ và cơ cấu tổ chức thành phần, số lượng, chấtlượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong những TCCSĐ không đồng đều, cònnhiều mặt chưa phân phối nhu yếu trách nhiệm. Theo số liệu thống kê đến tháng 12 năm năm ngoái, tổng số đảng viên của 16 đảng bộ xã, thị xã có 3.990 đảng viên, chiếm 82,49 % so với tổng số đảngviên của Đảng bộ Huyện. Trong đó 3.167 đảng viên nam, chiếm tỷ suất 79,37 % so tổng số đảng viên cấp xã ; 823 đảng viên nữ, chiếm 20,63 % so với đảngviên cấp xã ; đảng viên là cán bộ hưu trí 250 chiến sỹ, chiếm 6,25 % so vớiđảng viên cấp xã. Đội ngũ đảng viên ở những TCCSĐ cấp xã thuộc Đảng bộHuyện Đầm Dơi được hình thành từ nhiều nguồn : cán bộ, công chức nghỉhưu, bộ đội xuất ngũ, chuyển từ địa phương khác đến, nhưng phần đông lànguồn tăng trưởng tại chỗ, trưởng thành từ những trào lưu cách mạng tại địaphương. Về trình độ học vấn, cấp I : 176 chiến sỹ, chiếm 4,41 % ; cấp II : 1.100 chiến sỹ, chiếm 27,57 % ; cấp III : 2.714 chiến sỹ, chiếm 68,02 %. Trình độ19chuyên môn nhiệm vụ tầm trung 1.153 chiến sỹ, chiếm 28,90 % ; cao đẳng, ĐH và trên ĐH 67 chiến sỹ, chiếm 1,68 %. Trình độ lý luận chính trịsơ cấp 1.023 chiến sỹ, chiếm tỷ suất 25,64 % ; tầm trung 414 chiến sỹ, chiếm tỷlệ 10,38 % ; hạng sang và cử nhân 59 chiến sỹ, chiếm tỷ suất 1,48 % ; số còn lạichưa qua giảng dạy. Đối với 47 Đảng bộ, chi bộ ngành Huyện có tổng số 847 đảng viên, trong đó 653 đảng viên nam, chiếm tỷ suất 77,10 % ; 194 đảng viên nữ, chiếm22, 90 %. Về trình độ học vấn, cấp II 43 chiến sỹ, chiếm 5,08 % ; cấp III 804 chiến sỹ, chiếm 94,92 %. Trình độ trình độ nhiệm vụ, tầm trung 67 đồngchí, chiếm 7,91 % ; cao đẳng, ĐH và trên ĐH 780 chiến sỹ, chiếm92, 09 %. Trình độ lý luận chính trị sơ cấp 142 chiến sỹ, chiếm tỷ suất 16,77 % ; tầm trung 620 chiếm tỷ suất 73,20 % ; hạng sang và cử nhân 85 chiến sỹ, chiếm tỷlệ 10,04 %. Từ số liệu nghiên cứu và phân tích trên cho thấy, số lượng đảng viên cơ sở tuychiếm số đông ( 82,49 % so với tổng số đảng viên trong Đảng bộ Huyện ) nhưng trình độ học vấn, trình độ chính trị, trình độ trình độ nghiệp vụlại thấp. Do vậy việc tiến hành, không cho và vận dụng những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chủ trương, pháp lý Nhà nước vào điềukiện cơ sở còn rất hạn chế. * Vai trò TCCSĐ thuộc Đảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà MauThứ nhất, những TCCSĐ cấu thành nền tảng của Đảng ở cơ sở, trực tiếpquyết định việc lãnh đạo, chỉ huy thiết kế xây dựng, phát huy vai trò, hiệu suất cao hoạtđộng của mạng lưới hệ thống chính trị ở cơ sở. Trong cơ cấu tổ chức mạng lưới hệ thống tổ chức của Đảng lúc bấy giờ, TCCSĐ là cấp bộđảng được tổ chức ở cấp chính quyền sở tại địa phương cấp xã và tương tự, đâylà những đơn vị chức năng tế bào nhỏ nhất cấu thành mạng lưới hệ thống tổ chức đảng, lập thànhnền tảng của Đảng, những TCCSĐ TSVM là tác nhân trực tiếp quyết định hành động sự bềnvững của Đảng ở cơ sở và toàn Đảng. quản trị Hồ Chí Minh chỉ rõ : “ Đảngmạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do những đảng viên đều tốt ”, TCCSĐ khôngchỉ giữ vai trò quan trọng trong tạo thành nền tảng vững chãi cho Đảng, mà20còn giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo vàphát huy vai trò của những tổ chức trong HTCT ở địa phương trong tuyêntruyền, hoạt động, tập hợp nhân dân thực thi thắng lợi đường lối, chủ trươngcủa Đảng, chủ trương pháp lý Nhà nước và thiết kế xây dựng địa phương vữngmạnh về mọi mặt. Trên cơ sở tuân thủ những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sáchpháp luật Nhà nước, những TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi phải thểhiện vai trò hạt nhân lãnh đạo mạng lưới hệ thống chính trị ở cơ sở. Đối với những đảng bộcấp xã phải lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốcvà những tổ chức đoàn thể thực thi tốt công dụng trách nhiệm của mình ; xây dựnghệ thống chính trị cơ sở ngày càng trong sáng vững mạnh. Đối với những đảngbộ, chi bộ ngành Huyện biểu lộ tốt vai trò lãnh đạo so với những đoàn thể củatừng cơ quan, đơn vị chức năng như : Công đoàn, Đoàn người trẻ tuổi, Phụ nữ, bảo vệ cácđoàn thể này hoạt động giải trí đạt chất lượng, hiệu suất cao, góp thêm phần để những cơ quanđơn vị này triển khai xong trách nhiệm chính trị, kiến thiết xây dựng Đảng bộ, chi bộ TSVM.Hai là, TCCSĐ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nơi hàng ngày giữvững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân ở cơ sở. Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi, liên tục coi trọngcủng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, chăm sóc chăm loquyền lợi của nhân dân ; biểu lộ sự gần gủi gắn bó với nhân dân. Do đó, trong hoạt động giải trí hằng ngày, những TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi luôngần gũi với nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, vì tiềm năng chăm sóc cholợi ích của nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân trong thiết kế xây dựng quêhương, quốc gia. Các TCCSĐ cũng là nơi hàng ngày trực tiếp nắm tâm tư nguyện vọng, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Đảng, phân phối cơ sở thực tiễn đểĐảng bổ trợ, tăng trưởng, hoàn thành xong đường lối, quan điểm, chủ trương, chínhsách. Mặt khác, nhân dân quan hệ với Đảng hầu hết, trực tiếp trải qua cácTCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Vì vậy, những TCCSĐ có vai tròhết sức quan trọng, là nơi trực tiếp giữ gìn, củng cố và tăng cường mối liên hệhữu cơ, mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Nếu những TCCSĐ TSVM, thực hiện21tốt tính năng, trách nhiệm sẽ góp thêm phần trực tiếp củng cố tăng cường, giữ vữngmối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Ba là, TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là nơi quyết định hành động chấtlượng, hiệu suất cao việc tổ chức, thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương pháp lý của Nhà nước ; trực tiếp đưa quan điểm đường lối củaĐảng vào đời sống ở cơ sở. TCCSĐ và cán bộ, đảng viên cơ sở là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, mọi chủ trương, chủ trương của Đảng đến được với nhân dân như thế nào phụthuộc trực tiếp và quyết định hành động bởi những TCCSĐ ở cơ sở. TCCSĐ là nơi trực tiếpđưa đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng đến với những những tầng lớp nhândân ; đồng thời hoạt động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh và nỗ lực phấnđấu triển khai thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng, phápluật Nhà nước. Mặt khác, TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng vào thực tiễn trải qua những hoạtđộng lãnh đạo, chỉ huy trên tổng thể những nghành nghề dịch vụ, những mặt công tác làm việc của những tổchức, lực lượng ở địa phương ; để làm được điều đó, những TCCSĐ thuộc Đảngbộ Huyện Đầm Dơi phải nâng cao trí tuệ, năng lực về mọi mặt, nhất là nănglực cụ thể hoá những chủ trương, nghị quyết của Đảng cấp trên thành chươngtrình, kế hoạch thực thi bảo vệ khả thi, sát với tình hình trong thực tiễn, đồng thờiphải có năng lực tổ chức triển khai đưa những chủ trương, đường lối của Đảng, chủ trương pháp lý của Nhà nước vào đời sống ; là nơi kiểm nghiệm tínhđúng đắn của đường lối, chủ trương, nơi cung ứng cơ sở thực tiễn để Đảng tiếptục sửa đổi, bổ trợ hoàn thành xong đường lối, chủ trương, chủ trương cho phùhợp với thực tiễn mọi mặt của quốc gia. Bốn là, TCCSĐ là nơi trực tiếp thực thi và quyết định hành động chất lượng, hiệu suất cao công tác làm việc tăng trưởng đảng và kiến thiết xây dựng đội ngũ đảng viên ở cơ sở. TCCSĐ nói chung, những TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi nóiriêng là nơi trực tiếp làm công tác làm việc tăng trưởng đảng, trực tiếp quản trị, rèn luyện, giáo dục và phân công trách nhiệm cho từng đảng viên. Mọi sự tân tiến trưởngthành của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đều bắt nguồn trực tiếp từ sự22quản lý, giáo dục, rèn luyện của TCCSĐ. TCCSĐ là nơi trực tiếp nắm, quảnlý trình độ phẩm chất, năng lực, đạo đức của từng đảng viên và của toàn độingũ, trực tiếp thực thi giáo dục, rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chấtchính trị, đạo đức, kỹ năng và kiến thức, năng lực tổng lực cho đội ngũ đảng viên, bảođảm cung ứng ngang tầm nhu yếu trách nhiệm cách mạng trong từng thời kỳ. Sốlượng, chất lượng đội ngũ đảng viên và hiệu suất cao công tác làm việc tăng trưởng đảng ở cơsở như thế nào phụ thuộc vào trước hết vào vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của những TCCSĐ ; đồng thời TCCSĐ cũng là nơi trực tiếp sàng lọc đội ngũ đảng viên, kịp thờiphát hiện những thành phần thời cơ, thoái hóa biến chất, không đủ tư cách đảngviên để đưa ra khỏi Đảng, bảo vệ cho Đảng luôn trong sáng, vững mạnh. 1.1.2. Những yếu tố cơ bản về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu vànâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộcĐảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau * Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộcĐảng bộ huyện Đầm Dơi tỉnh Cà MauQuan niệm năng lực lãnh đạo : Khái niệm năng lực là phạm trù khá thông dụng trong đời sống chính trịxã hội, nên cho tới nay có nhiều cách tiếp cận xoay quanh khái niệm năng lực, năng lực lãnh đạo : Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Nước Ta – BộGiáo dục và Đào tạo ( 1998 ), ý niệm : Năng lực là một trong những điềukiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì ; là năng lực đủ để triển khai tốt côngviệc. Lãnh đạo là dẫn dắt tổ chức trào lưu theo đường lối đơn cử ( lãnh đạo23cuộc đấu tranh ) ; là cơ quan lãnh đạo, gồm có những người có năng lực tổchức dẫn dắt trào lưu. Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Thành Phố Đà Nẵng ( 1997 ) định nghĩa : Nănglực là năng lực, điều kiện kèm theo chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực thi mộthoạt động nào đó ; là phẩm chất tâm ý, sinh lý tạo cho con người hoàn thànhmột hoạt động giải trí nào đó. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức vậnđộng triển khai đường lối đó. Như vậy, hoàn toàn có thể hiểu : năng lực lãnh đạo là tổng hợp năng lực của mộttập thể, hay cá thể hoàn toàn có thể kêu gọi để đề ra phương hướng, tiềm năng hànhđộng, chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ huy và năng lực tổ chức, dẫn dắttập thể, hay toàn dân thực thi thắng lợi đường lối đó. Năng lực lãnh đạo của Đảng là năng lực đề ra được tiềm năng cáchmạng đúng đắn, cơ bản, lâu bền hơn, cũng như từng thời kỳ và bằng nhữngphương thức, chiêu thức đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc bản địa thực thi cóhiệu quả tiềm năng cách mạng đã xác lập. Năng lực lãnh đạo của Đảng là khảnăng hiện thực gồm có : năng lực đề ra chủ trương, đường lối ; năng lực xâydựng nghị quyết, thông tư ; năng lực tổ chức thực thi đường lối ; năng lực kiểmtra phát hiện và giải quyết và xử lý. Theo hướng tiếp cận trên hoàn toàn có thể ý niệm : Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là biểuhiện đơn cử của năng lực lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, là tổng hợp những khảnăng nghiên cứu và điều tra, không cho quan điểm, đường lối của Đảng, thông tư, nghịquyết của cấp trên, cụ thể hóa đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo của cấp24mình bảo vệ sát với tình hình thực tiễn và trách nhiệm chính trị, kinh tế tài chính, vănhóa – xã hội, quốc phòng, bảo mật an ninh ở địa phương ; là năng lực tuyên truyền, hoạt động nhân dân thực thi thắng lợi quan điểm, đường lối của Đảng, chỉthị, nghị quyết cấp trên và cấp mình. Quan niệm sức chiến đấu : Sức chiến đấu của TCCSĐ được biểu lộ ở sự đoàn kết thống nhất ýchí và hành vi ; ở chất lượng đội ngũ đảng viên trong đảng bộ ; ở việc cụ thểhoá những nghị quyết của cấp trên thành trách nhiệm chính trị của đơn vị chức năng ; ở việcxây dựng đảng bộ, chi bộ trong sáng vững mạnh và ở năng lực lãnh đạo quầnchúng triển khai nghị quyết của Đảng. Sức chiến đấu của Đảng ta được biểu lộ, đơn cử ở : Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn vất vả và thử thách trong và ngoàinước. Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh, kiên cường tiềm năng độc lập dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thựchiện thắng lợi đường lối thay đổi. Kiên quyết đấu tranh vô hiệu những phần tửcơ hội chủ nghĩa, những thành phần thoái hóa biến chất, tham nhũng ra khỏiĐảng, đấu tranh ngăn ngừa sự ảnh hưởng tác động của những quan điểm, tư tưởng phảnđộng, bảo vệ sự trong sáng nội bộ. Tính tổ chức kỷ luật, niềm tin đoàn kết nộibộ, ý thức tập thể trong lãnh đạo và hoạt động và sinh hoạt đảng. Phẩm chất chính trị, đạođức cách mạng, trình độ năng lực thực tiễn và vai trò tiên phong, gương mẫucủa đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lối sống, giải pháp công tác làm việc, phong cáchlãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Theo hướng tiếp cận trên hoàn toàn có thể ý niệm : Sức chiến đấu của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là sứcmạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự thống nhất về ý chí vàhành động, là năng lực tự bảo vệ nội bộ và năng lực đấu tranh chống lại mọitác động làm suy yếu TCCSĐ, là sự kết nối Đảng với quần chúng để thựchiện thắng lợi trách nhiệm chính trị của từng địa phương, cơ sở. * Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơsở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi25Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạovà sức mạnh của Đảng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng không giữđược vai trò lãnh đạo cách mạng và Đảng không hề sống sót được. Năng lựclãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có mối liên hệ hữu cơ ngặt nghèo, hai yếu tốnày xâm nhập vào nhau, tác động ảnh hưởng thôi thúc nhau, làm tiền đề để sống sót vàphát triển của nhau. Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạngcủa Đảng. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thìsức chiến đấu của Đảng càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiếnđấu càng được củng cố, nâng cao thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng đượcnâng lên. Theo hướng tiếp cận đó hoàn toàn có thể ý niệm : NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Huyện Đầm Dơi là tổng hợpkhả năng, sức mạnh của tập thể cấp ủy, chi bộ, đảng bộ cơ sở và đội ngũ cánbộ, đảng viên hoàn toàn có thể kêu gọi để nghiên cứu và điều tra, không cho quan điểm, đường lốicủa Đảng, thông tư, nghị quyết của cấp trên ; bám nắm tìnhhình địa phương, đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúngđắn sát trong thực tiễn ; là năng lực phát huy sức mạnh tổng hợpcủa mạng lưới hệ thống chính trị, của nhân dân ở địa phương, cơ sởthực hiện thắng lợi những tiềm năng, trách nhiệm kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống – xã hội, quốc phòng, bảo mật an ninh ở địa phương, đồngthời đấu tranh có hiệu suất cao chống tư tưởng thời cơ, tiêu cựctrong nội bộ và những quan điểm của những thế lực thù địch, chống cộng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính sách và giữ vững niềm tin củanhân dân. * Biểu hiện của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của những tổ chức cơsở đảng thuộc Đảng bộ Huyện Đầm DơiNăng lực nghiên cứu và điều tra, không cho quan điểm, đường lối của Đảng, chỉthị, nghị quyết của cấp trên và năng lực chớp lấy tình hình mọi mặt của địaphương đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúng đắn ở cấp mình. Việcnghiên cứu, nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ26

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận