Dân số – Wikipedia tiếng Việt

[1]Số dân của Mecca tăng khoảng chừng 4 triệu trong dịp Hajj

Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa lý hoặc một không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự phát triển kinh tế – xã hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số và biểu hiện bằng tháp dân số.

Dân số được nghiên cứu ở trong các lĩnh vực riêng, trong một nhánh của sinh thái học có tên gọi sinh vật học, và trong di truyền học. Trong động lực học về dân số, kích cỡ dân số, độ tuổi và cấu trúc giới tính, số người tử vong, tỉ lệ sinh và sự phát triển dân số được nghiên cứu.

Nhân khẩu học nghiên cứu về mật độ dân số. 3 trọng tâm chính của nó là phương thức sinh sản, sự tử vong và nhập cư, mặc dù các lĩnh vực như sự thay đổi của gia đình, (kết hôn và li dị), sức khỏe cộng đồng, việc làm và lực lượng lao động cũng được nghiên cứu. Có rất nhiều khía cạnh khác nhau trong hành vi của con người trong lĩnh vực dân số được nghiên cứu như trong xã hội học, kinh tế học và địa lý. Các nghiên cứu về dân số hầu hết thường theo những quy luật của xác suất, và sự kết luận của các nghiên cứu này do đó có thể không thể sử dụng cho một vài các cá thể riêng biệt.

Bạn đang đọc: Dân số – Wikipedia tiếng Việt">Dân số – Wikipedia tiếng Việt

Số người trên Trái Đất không ngừng tăng lên và tăng nhanh nhất khi bước sang giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, trong đó những nước trên quốc tế đang tăng trưởng có vận tốc ngày càng tăng dân số tự nhiên đến chóng mặt. Đây là một trong những yếu tố toàn thế giới của xã hội lúc bấy giờ. Xem sự bùng nổ dân số

Tháp dân số[sửa|sửa mã nguồn]

Dân số quốc tế tăng nhanh trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX[sửa|sửa mã nguồn]

Các số liệu thống kê và tìm hiểu dân số liên tục trong nhiều năm sẽ giúp tất cả chúng ta đã biết được quy trình ngày càng tăng dân số của một địa phương, một nước hay trên toàn quốc tế .

Gia tăng dân số tự nhiên phụ thuộc vào số trẻ sinh ra và số người chết đi trong một năm. Sự gia tăng dân số do số người chuyển đi và số người từ nơi khác chuyển đến gọi là gia tăng cơ giới.

Trong nhiều thế kỷ, dân số quốc tế tăng rất là chậm, mốc dân số trong khoảng chừng đầu Công nguyên là khoảng chừng 300 triệu người. Mãi đến giữa thế kỷ 13, dân số cắm mốc 400 triệu người. Nửa tỷ người được cắm mốc ở đầu thế kỷ 16. Nguyên nhân đa phần dẫn đến dân số chậm tăng là do dịch bệnh, đói kém và cuộc chiến tranh. Đến thế kỷ 18, dân số mở màn không thay đổi lại và đến năm 1804, dân số quốc tế là 1 tỷ người, 2 tỷ người vào năm 1927. Và đến 6 tỷ người vào năm 1999. Thế mà đến năm 2001 đã lên đến 6,16 tỷ người, đó là nhờ văn minh trong những nghành kinh tế tài chính – xã hội và y tế .

Sự bùng nổ dân số[sửa|sửa mã nguồn]

Dân số thế giới tăng rất nhanh và đột ngột từ thập niên 1950, khi các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh giành được độc lập, đời sống được cải thiện và tiến bộ về y tế làm giảm nhanh tỷ lệ tử vong, trong khi tỷ lệ sinh vẫn còn cao. Bùng nổ dân số xảy ra khi tỉ lệ gia tăng bình quân hằng năm của dân số thế giới lên đến 2,1 %. Dân số tăng nhanh vượt quá khả năng giải quyết các vấn đề ăn, mặc, ở, học hành, việc làm… đã trở thành gánh nặng đối với các nước chậm phát triển.

Bằng những chủ trương dân số và tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, nhiều nước đã đạt được tỉ lệ ngày càng tăng dân số tự nhiên hài hòa và hợp lý. Sự ngày càng tăng dân số quốc tế đang có khuynh hướng giảm dần để tiến đến mức không thay đổi ở mức trên 1 %. Dự báo đến khoảng chừng năm 2050, dân số quốc tế sẽ là 8,9 tỷ người .

Dân số những nước[sửa|sửa mã nguồn]

Khoảng 4.6 tỷ người trong số 7.7 tỷ người trên quốc tế sống ở Châu Á Thái Bình Dương. Trong 10 nước có số dân lớn nhất trên quốc tế có 6 nước thuộc châu Á .

  1. ^

    “Mecca and Medina”. Encyclopedia Britannica. Fifteenth edition 23: 698-699. (2007).

  • Coale, Ansley J. (1971). “Age Patterns of Marriage,” Population Studies 25: 193-214.
  • Coale, Ansley J., and James T. Trussell (1974). “Model fertility schedules: Variations in the age structure of childbearing in human populations.” Population Index 40: 185–258.
  • ——— (1975). “A new method of estimating standard fertility measures from incomplete data,” Population Index 41: 182–210.
  • ——— (1978). “Finding the two parameters that specify a model schedule of marital fertility rates,” Population Index 44: 203–13.
  • Proceedings of the United Nations Expert Meeting on World Population to 2300

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài viết liên quan

Viết một bình luận